Sáng kiến kinh nghiệm Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị

Sáng kiến kinh nghiệm Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị

1/Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán:

Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các

phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên, chúng

ta cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau:

* Bước 1: Đọc kĩ đề toán.

* Bước 2: Tóm tắt đề toán.

* Bước 3: Phân tích bài toán.

* Bước 4: Viết bài giải.

* Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.

Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau:

pdf 25 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 2383Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động 
theo chủ đích nhất định với sự trợ giúp đúng mức của giáo viên, của sách giáo khoa 
và đồ dùng dạy học, để mỗi cá nhân học sinh “ khám phá” tự phát hiện và tự giải 
quyết bài toán thông qua việc biết thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới, với các 
kiến thức liên quan đã học, với kinh nghiệm của bản thân. Đó là các cơ sở để các em 
học giải tốt dạng toán rút về đơn vị nói riêng, học giải dạng toán hợp nói chung. 
 7 
 II/ Lịch sử vấn đề nghiên cứu: 
 Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học là sự vận dụng các phương pháp dạy 
học Toán nói chung cho phù hợp với mục tiêu, nội dung, các điều kiện dạy học. Do 
đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học, trong quá trình dạy học Toán, giáo viên 
thường phải vận dụng linh hoạt các phương pháp trực quan, thực hành, gợi mở, vấn 
đáp, giảng giải, tùy theo mức độ ở từng lớp. Từ trước cho tới nay có không ít các 
đồng chí giáo viên đã từng nghiên cứu về việc vận dụng các phương pháp này vào 
dạy các dạng toán ở các khối lớp. ở lớp 3, chắc cũng có nhiều đồng chí đã từng 
nghiên cứu, tìm tòi các phương pháp, hình thức tổ chức dạy một dạng toán, một kiểu 
bài nào đó. Tôi cũng vậy, sau nhiều năm nghiên cứu, tích lũy , viết sáng kiến kinh 
nghiệm dạy học của mình, tôi đã có một ít vốn kinh nghiệm giảng dạy ở tất cả các 
môn. Song, giờ đây, tôi muốn cùng các đồng chí nghiên cứu tiếp với vấn đề: “Giúp 
các em học sinh lớp 3 giải tốt các bài toán liên quan đến rút về đơn vị”. Nhìn lại về 
quá trình dạy dạng toán này, về cơ bản thì ai cũng thể cho rằng các em dễ tiếp thu, dễ 
làm bài, dễ nhớ, ít sai. Nhưng đi sâu hơn nữa, theo cái nhìn chủ quan của tôi, với 
dạng toán này các em cũng có những nhầm lẫn đáng tiếc nếu như các em không nắm 
chắc đặc điểm cơ bản, phương pháp giải cơ bản của hai kiểu bài trong dạng toán này. 
Nếu hướng dẫn học sinh từng kiểu bài một trong một tiết thì các em làm bài gần như 
theo khuôn mẫu, ít sai sót. Nếu hướng dẫn học sinh luyện tập song song cả hai kiểu 
bài hoặc học xong cả hai kiểu bài rồi, các em mà không nắm vững sẽ sai nhầm dễ 
dàng. Điều này sẽ xảy ra với các em lực học trung bình, trung bình yếu. Cho nên, 
việc nghiên cứu phương pháp giúp các em giải tốt dạng toán này ở lớp 3 sẽ phải dần 
từng bước được khắc phục, đổi mới, kích thích học theo nhận thức chủ đạo của học 
sinh thì chất lượng mới cao, phát huy tính tư duy, độc lập, sáng tạo ở tất cả học sinh. 
 III/ Thực trạng của dạy và học: 
 Trong nhiều năm theo dõi học sinh học Toán, đặc biệt là hai năm gần đây, 
tôi trực tiếp theo dõi các em học sinh lớp 3 giải toán nói riêng, tôi thấy các em có một 
thói quen không tốt cho lắm đó là: đọc đầu bài qua loa, sau đó giải bài toán ngay, làm 
 8 
xong không cần kiểm tra lại kết quả, cho nên, khi trả bài các em mới biết là mình sai. 
đối với dạng toán này, khi giáo viên hướng dẫn xong kiểu bài 1, các em làm bài khá 
tốt, ít nhầm lẫn, nhưng còn sai nhiều trong tính toán, đến khi dạy xong kiểu bài 2, các 
em làm bài có phần nhầm lẫn nhiều hơn, nhiều em thực hiện ở các bước 2 đáng lẽ là 
phép chia thì các em lại làm phép nhân ( giống ở kiểu bài 1). ở năm học 2008-2009, 
tôi chưa triển khai phương pháp dạy của mình tới giáo viên dạy khối 3, song tôi đã để 
ý, quan sát các em làm bài ở lớp mỗi khi dự giờ, thăm lớp, các em đã có sự nhầm lẫn 
đáng tiếc xảy ra. Để nắm được thực trạng học sinh lớp 3 giải dạng toán này cụ thể 
như thế nào, tôi đã tiến hành ra hai bài toán, thuộc hai kiểu bài của dạng toán này như 
sau rồi nhờ giáo viên khối 3 cho các em làm bài trong thời gian là 20 phút để nắm 
được kết quả. 
*Bài toán 1: 
 Một cửa hàng có 6 bao gạo chứa được 36 kg gạo. Hỏi 4 bao gạo như thế có thể 
chứa được bao nhiêu ki lô gam gạo? 
* Bài toán 2: 
 Có 42 lít dầu đựng vào 6 can. Hỏi có 84 lít dầu thì cần có bao nhiêu can như 
thế để đựng? 
 Sau khi chấm bài, tôi nhận thấy kết quả các em làm bài như sau: 
 - Có nhiều em làm đúng cả 2 bài. 
 - Một số em làm nhầm ở bước 2 từ kiểu bài 1 sang kiểu bài 2 và ngược lại. 
- Một số em có tính sai. 
- Còn một vài em sai cả 2 bài. 
* Kết quả cụ thể: 
Tổng số 
HS 
1 -> 4 5 -> 6 7 -> 8 9 -> 10 
SL % SL % SL % SL % 
125 12 10 45 36 27 21 41 33 
 9 
 * Nguyên nhân có kết quả như vậy là do phần lớn các em còn chủ quan khi 
làm bài, chưa nhớ kĩ các phương pháp giải dạng toán này. Mặt khác, cũng có thể 
là các em chưa được củng cố rõ nét về 2 kiểu bài trong dạng toán này nên sự sai 
đó không tránh khỏi. Con nữa, đây là các bài toán áp dụng rất thực tế mà các em 
quên mất phương pháp thử lại nên kết quả đưa ra rất đáng tiếc. 
 * Xuất phát từ tình hình thực tế của năm 2008-2009, tôi đã mạnh dạn đổi mới 
phương pháp dạy dạng toán này, triển khai tới từng giáo viên dạy ở khối 3 ngay từ 
đầu học kì II năm học 2009-2010. Mục đích chính giúp các em có phương pháp giải 
toán nói chung, phương pháp giải dạng toán có liên quan đến rút về đơn vị nói riêng. 
Làm cho các em biết chủ động thực hiện giải toán không giập theo khuôn máy móc 
mà phải dựa vào tư duy, phân tích tổng hợp từ bản thân. 
 IV/ Những kinh nghiệm và giải pháp chỉ đạo: 
 Muốn cho học sinh giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị, trước tiên 
chúng ta phải hướng dẫn các em nắm chắc được những bước cần thực hiện khi giải 
toán nói chung đã. 
 1/Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán: 
 Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào các 
phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên, chúng 
ta cần hướng dẫn học sinh nắm được các bước giải bài toán như sau: 
 * Bước 1: Đọc kĩ đề toán. 
 * Bước 2: Tóm tắt đề toán. 
 * Bước 3: Phân tích bài toán. 
 * Bước 4: Viết bài giải. 
 * Bước 5: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải. 
 Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau: 
 10 
 a/ Đọc kĩ đề toán: Học sinh đọc ít nhất 3 lần mục đích để giúp các em nắm được ba 
yếu tố cơ bản. Những “ dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “những 
ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm và những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ 
kiện với ẩn số. 
 Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các 
yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần 
thiết liên qua đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát 
hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng 
hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đề đã làm ngay. 
 b/ Tóm tắt đề toán: Sau khi đọc kĩ đề toán, các em biết lược bớt một số câu chữ, 
làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa cái đã cho và một số phải tìm hiện 
rõ hơn. Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tắt ấy mà 
nhắc lại được đề toán. 
 Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều 
cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi. Cho nên, khi dạy tôi đã truyền đạt các 
cách sau tới học sinh: 
* Cách 1: Tóm tắt bằng chữ. 
* Cách 2: Tóm tắt bằng chữ và dấu. 
* Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. 
* Cách 4: Tóm tắt bằng hình tượng trưng. 
* Cách 5: Tóm tắt bằng lưu đồ. 
* Cách 6: Tóm tắt bằng sơ đồ Ven. 
* Cách 7: Tóm tắt băng kẻ ô. 
 Tuy nhiên tôi luôn luôn hướng các em chọn cách nào cho hiểu nhất, rõ nhất, 
điều đó còn phụ thuộc vào nội dung từng bài. 
 11 
 c/ Phân tích bài toán: Sau khi tóm tắt đề bài xong, các em tập viết phân tích đề bài 
để tìm ra cách giải bài toán. Cho nên, ở bước này, giáo viên cần sử dụng phương 
pháp phân tích và tổng hợp, thiết lập cách tìm hiểu, phân tích bài toán theo sơ đồ dưới 
dạng các câu hỏi thông thường: 
- Bài toán cho biết gì? 
 - Bài toán hỏi gì? 
 - Muốn tìm cái đó ta cần biết gì? 
 - Cái này biết chưa? 
 - Còn cái này thì sao? 
 - Muốn tìm cái chưa biết ta cần dựa vào đâu? Làm như thế nào? 
 Hướng dẫn học sinh phân tích xuôi rồi tổng hợp ngược lên, từ đó các em nắm 
bài kĩ hơn, tự các em giải được bài toán. 
 d/ Viết bài giải: Dựa vào sơ đồ phân tích, quá trình tìm hiểu bài, các em sẽ dễ 
dàng viết được bài giải một cách đầy đủ, chính xác. Giáo viên chỉ việc yêu cầu học 
sinh trình bày đúng, đẹp, cân đối ở vở là được, chú ý câu trả lời ở các bước phải đầy 
đủ, không viết tắt, chữ và số phải đẹp. 
 e/ Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: 
 Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh 
thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi 
giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì 
vậy việc kiểm tra , đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán va phải trở 
thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn 
các em thông qua các bước: 
 - Đọc lại lời giải. 
 - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn 
đạt trong lời giải đúng chưa. 
 12 
 - Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. 
 - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. 
 Đối với học sinh giỏi, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài 
giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện 
phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. 
2/ Hướng dẫ học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về 
đơn vị bằng phép tính chia ,nhân ( kiểu bài 1): 
 Để học sinh nắm chắc phương pháp giải kiểu bài toán này, tôi đã tiến hành 
dạy ngay ở trên lớp theo phương pháp và hình thức sau: 
 a/ Kiểm tra bài cũ: Để nhắc lại kiến thức cũ và chuẩn bị cho kiến thức mới cần 
truyền đạt, tôi ra đề như sau: 
“Mỗi can chứa được 5 lít mật ong. Hỏi 7 can như vậy chứa được bao nhiêu lít mật 
ong?” 
 Với bài này, học sinh dễ dàng giải được như sau: 
 Bài giải. 
 Bảy can như vậy chứa được số lít mật ong là: 
 5 x 7 = 35 ( l) 
 Đáp số: 35 l mật ong. 
 Sau đó, tôi yêu cầu học sinh nhận dạng toán đã học và giải thích cách làm, 
đồng thời cho học sinh nhắc lại quy trình của giải một bài toán. 
b/ Bài mới: 
* Giới thiệu bài: Dựa vào bài toán kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa củng cố, vừa 
giới thiệu bài ngày hôm nay các em được học. 
* Hướng dẫn học sinh giải bài toán 1: Có 35 l mật ong chia đểu vào 7 can. Hỏi 
mỗi can có mấy lít mật ong? 
 13 
 - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc đầu bài( 3 em). 
 - Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán ( sử dụng phương pháp hỏi đáp): 
 + Bài toán cho biết gì? (35 lít mật ong đổ đều vào 7 can). 
 + Bài toán hỏi gì? ( 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong). 
 + Giáo viên yêu cầu học sinh nêu miệng phần tóm tắt để giáo viên ghi bảng: 
 7 can: 35 l 
 1 can:? l . 
 - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán để tìm phương pháp giải bài toán. 
 - Giáo viên yêu cầu học sinh làm vào bảng con. 
 - Giáo viên đưa bài giải đối chiếu. 
 Bài giải 
Số lít mật ong có trong mỗi can là: 
35 : 7 = 5 (l) 
 Đáp số: 5 l mật ong. 
 - Giáo viên củng cố cách giải: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm 
phép tính gì? ( phép tính chia). 
 - Giáo viên giới thiệu. Bài toán cho ta biết số lít mật ong có trong 7 can, yêu 
cầu chúng ta tìm số lít mật ong trong 1 can, để tìm được số lít mật ong trong 1 can, 
chúng ta thực hiện phép chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của 
một phần trong các phần. 
 - Giáo viên cho học sinh nêu miệng kết quả một số bài toán đơn giản để áp 
dụng, củng cố như: 
 5 bao: 300kg hoặc 3 túi : 15 kg 
 1 bao? kg 1 túi : ? kg 
 14 
 * Hướng dẫn học sinh giải bài toán 2: Có 35 lít mật ong cia đèu vào 7 can. Hỏi 2 
can có mấy lít mật ong? 
 - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đầu bài ( 3 lần). 
 - Yêu cầu học sinh nêu tóm tắt bài toán – Giáo viên ghi bảng( Phương pháp hỏi 
đáp). 
 7 can : 35 lít 
 2 can : ? lít. 
 - Hướng dẫn học sinh phân tích bài toán: ( Phương pháp hỏi đáp) 
 + Muốn tính được số lít mật ong có trong 2 can ta phải biết gì? ( 1 can 
chứa được bao nhiêu lít mật ong) 
 +Làm thế nào để tìm được số lít mật ong có trong 1 can? ( Lấy số lít 
mật ong trong 7 can chia cho 7). 
 + Yêu cầu học sinh nhẩm ngay 1 can: ? l. 
 + Yêu cầu học sinh nêu cách tính 2 can khi đã biết 1 can. 
(Lấy số lít mật ong có trong 1 can nhân với 2). 
 - Một học sinh nêu lần lượt bài giải. Giáo viên ghi bảng. 
 Bài giải 
 Số lít mật ong có trong mỗi can là: 
 35 : 7 = 5 (l) 
 Số lít mật ong có trong 2 can là: 
 5 x 2 = 10 (l) 
 Đáp số:10l mật ong. 
 - Yêu cầu học sinh nêu bước nào là bước rút về đơn vị: Bước tìm số lít mật ong 
trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị. 
 15 
 - Hướng dẫn học sinh củng cố dạng toán – kiểu bài 1: 
 Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước: 
 +Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị ( giá trị một phần trong các phần bằng nhau) . 
Thực hiện phép chia. 
 + Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại( giá trị của nhiều phần bằng 
nhau) . Thực hiện phép nhân. 
 + Học sinh nhẩm thuộc, nêu lại các bước. 
 - Hướng dẫn học sinh làm bài tập áp dụng. 
 - Giáo viên nêu miệng, ghi tóm tắt lên bảng, học sinh nêu kết quả và giải thích 
cách làm như. 
3 túi : 45 kg hoặc : 4 thùng : 20 gói. 
 12 túi : ? kg. 5 thùng : ? gói. 
 Sau khi học sinh nắm chắc cách giải bài toán ở kiểu bài này, chúng ta cần 
tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập. 
c/Luyện tập: 
 Khi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện tập qua từng bài, giáo viên cần 
thay đổi hình thức luyện tập. 
 Bài 1: - Hướng dẫn học sinh thảo luận chung cả lớp, sau đó 1 học sinh tóm tắt 
và giải bài toán trên bảng, cả lớp làm vào vở. 
 - Củng cố bước rút về đơn vị. 
 - Củng cố các bước giải bài toán này. 
 Bài 2: - Học sinh thảo luận và làm việc theo nhóm đôi. 
 - Yêu cầu 1 cặp học sinh trình bày bảng – Giáo viên kiểm tra các kết quả 
của cả lớp. 
 - Yêu cầu học sinh nêu bước rút về đơn vị. 
 16 
 - Củng cố cách thực hiện 2 bước giải bài toán. 
Bài 3: Hướng dẫn học sinh chơi trò chơi ghép hình. 
d/ Củng cố dặn dò: 
 - Học sinh tự nêu các bước, cách thực hiện giải bài toán có liên quan đến rút 
về đơn vị ( kiểu bài 1) 
 - Giao thêm bài về nhà dạng tương tự để hôm sau kiểm tra. 
 - Qua mỗi lần luyện tập xen kẽ, giáo viên đều củng cố cách làm ở kiểu bài 1 
là: + Bài giải được thực hiện qua 2 bước: 
 Bước 1: ( Bước rút về đơn vị) Tìm giá trị 1 đơn vị ( Giá trị 1 phần). ( phép 
chia). 
 Bước 2: Tìm nhiều đơn vị ( từ 2 trở lên) ( phép nhân). 
 + Nhấn mạnh cốt chính của kiểu bài 1 là tìm giá trị của nhiều đơn vị ( 
nhiều phần). 
 - Khi học sinh đã nắm chắc kiểu bài 1 thì các em dễ dàng giải được kiểu bài 2. 
3/ Hướng dẫn học sinh nắm chắc phương pháp giải bài toán liên quan đến rút về 
đơn vị giải bằng 2 phép tính chia: ( Kiểu bài 2) 
 Khi dạy kiểu bài 2 này, tôi cũng dạy các bước tương tự. Song để học sinh dễ 
nhận dạng, so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài, khi kiểm tra bài cũ, tôi đưa đề bài 
lập lại của kiểu bài 1: “ Có 35 lít mật ong rót đều vào 7 can . Hỏi 2 can đó có bao 
nhiêu lít mật ong”. Mục đích là vừa kiểm tra, củng cố phương pháp giải ở kiểu bài 
1, cũng là để tôi dựa vào đó hướng các em tới phương pháp giải ở kiểu bài 2( giới 
thiệu bài). 
 Bài toán ở kiểu bài 2 có dạng sau: Có 35 lít mật ong đựng đều vào 7 can. Nếu 
có 10 lít mật ong thì đựng đều vào mấy can như thế? 
 - Cách tổ chức, hướng dẫn học sinh cũng như ở kiểu bài 1. 
 17 
 - Khi củng cố, học sinh nêu được ở bước 1 là bước rút về đơn vị và các bước 
thực hiện bài giải chung của kiểu bài 2 này. 
 + Bước 1:: Tìm giá trị 1 đơn vị ( giá trị 1 phần). ( đây là bước rút về đơn vị) 
. ( phép chia). 
 + Bước 2: Tìm số phần (số đơn vị) ( phép chia). 
 Sau mỗi bài tập, chúng ta lại củng cố lại một lần, các em sẽ nắm chắc 
phương pháp hơn. Đặc biệt khi học xong kiểu bài 2 này, các em dễ nhầm với cách 
giải ở kiểu bài 1. Cho nên, chúng ta phải hướng dẫn học sinh cách kiểm tra, đánh 
giá kết quả bài giải ( thử lại theo yêu cầu của bài). 
Ví dụ: Các em đặt kết quả tìm được vào phần tóm tắt của bài các em sẽ thấy được 
cái vô lí khi thực hiện sai phép tính của bài giải như: 
 35 l : 7 can. 35 l : 7 can 
 10 l : 2 can ( đúng) 10 l : 50can ( vô lí). 
 Từ đó các em nắm chắc phương pháp giải kiểu bài 2 tốt hơn, có kĩ năng , kĩ 
xảo tốt khi giải toán. 
4/ Hướng dẫn học sinh luyện tập so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài : 
Để học sinh luyện tập tốt 2 kiểu bài này, tôi đã hướng dẫn các em so sánh các bước 
giải và đặc điểm của mỗi kiểu bài. 
Các 
bước 
Kiểu bài 1 
( Tìm giá trị của các phần) 
Kiểu bài 2 
( Tìm số phần) 
1 - Tìm giá trị của 1 phần: ( phép 
chia) 
(Đây là bước rút về đơn vị) 
- Tìm giá trị của 1 phần: ( phép 
chia) 
(Đây cũng là bước rút về đơn vị) 
2 - Tìm giá trị của 1 phần 
( phép nhân) 
- Lấy giá trị 1 phần nhân với số 
- Tìm số phần. 
- (Phép chia) 
- Lấy giá trị các phần chia cho 
 18 
phần gía trị 1 phần. 
 Sau đó, tôi yêu cầu học sinh học thuộc để áp dụng nhận dạng kiểu bài và giải 
các bài toán đó. Khi luyện tập, tôi tiến hành cho học sinh luyện 2 bài tập song song 
với nhau, mục đích là để các em vừa làm, vừa nhận dạng, so sánh. Sau mỗi lần luyện 
tập như vậy, chúng ta lại củng cố kiến thức một lần cho các em, chắc các em không 
còn nhầm lẫn nữa. 
* Lần 1: 
 Bài toán 1: Có 5 túi gạo chứa được 40 kg gạo. Hỏi 3 túi gạo thì chứa được bao 
nhiêu ki - lô - gam gạo? 
 Bài toán 2: Có 40 ki – lô - gam gạo đựng vào 5 túi. Hỏi có 24 kg gạo thì cần bao 
nhiêu túi như thế để đựng? 
* Củng cố cách giải, mối quan hệ giữa các phép tính trong 2 bài toán này. Mặt 
khác học sinh dễ dàng nhìn nhận ra lỗi sai của mình, nếu như nhầm phép tính ( 
Bài toán 2 là bài toán ngược của bài toán 1) 
* Lần 2: 
Bài toán 1: Có 4 cái áo đơm hết 24 cái cúa áo. Hỏi có 1236 cúa áo thì đơm được 
bao nhiêu cái áo như thế? 
Bài toán 2: Ba thùng như nhau đựng được 27 lít mật ong. Hỏi 7 thùng như thế 
đựng được bao nhiêu kg mật ong? 
*Đổi thứ tự bài để học sinh củng cố được cách nhận dạng 2 kiểu bài và phương 
pháp giải. 
 * Tóm lại: Trên đây là phương pháp hướng dẫn các em học sinh lớp 3 giải tốt 
dạng toán: Bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi tin rằng nếu chúng ta làm 
được như vậy thì các em nắm được phương pháp giải dạng toán này tốt hơn, chắc 
chắn hơn, tránh được những sai sót có thể xảy ra. Các em sẽ có được tinh thần 
phấn khởi, tự tin khi giải toán. 
 19 
 V/ Tổng kết kinh nghiệm: 
 Trong suốt quá trình nghiên cứu, quan sát học sinh giải toán, tôi thấy các 
em rất thích giải toán khi các em đã có đủ vốn kiến thức, phương pháp giải toán. 
Các em giải toán đúng, chính xác hơn khi các em được thầy cô nhiệt tình hướng 
dẫn với phương pháp dễ hiểu nhất, dễ nhớ nhất. Với phương pháp này tôi đã 
trang thiết bị cho các em vốn kiến thức phương pháp cơ bản để các em giải dạng 
toán này không nhầm lẫn, sai sót đến chất lượng học của các em được nâng lên rõ 
rệt. Dạy xong kiểu bài 1, so với năm học 2008-2009, năm nay các em làm bài tốt 
hơn nhiều, chất lượng tăng 20%. Dạy xong kiểu bài 2, chất lượng càng tăng hơn 
15% so với thời điểm năm ngoái. Nhìn chung, các em được giải toán, so sánh 
cách giải của 2 kiểu bài này, cho nên các em làm bài chính xác cao, chất lượng 
khả quan. Qua khảo sát chất lượng học sinh khối 3 năm học này, tôi thu được kết 
quả như sau: 
Tổng số 
HS 
1 -> 4 5 -> 6 7 -> 8 9 -> 10 
SL % SL % SL % SL % 
104 1 1 15 14 35 34 53 51 
 Nhìn vào bảng kết quả trên, tôi thấy đó là kết quả thực chất của các em. Kết 
quả đó cho chúng ta thấy được có phương pháp tốt thì học sinh làm bài tốt hơn. Chất 
lượng học của học sinh không tự dưng mà có được, mà đòi hỏi mỗi người giáo viên 
chúng ta biết phương pháp truyền đạt tới từng đối tượng học sinh. Nhiều đồng chí 
cho rằng dạng toán này dễ. Song, không hẳn như vậy, nếu chúng ta truyền đạt kiến 
thức, phương pháp hời hợt thì các em dễ dàng nhầm lẫn ở bước 2 của 2 kiểu bài đó, 
cũng có khi nhầm cả sang dạng toán khác. Cho nên dạy toán ở dạng toán này, chúng 
ta càng cẩn thận, chi tiết bao nhiêu thì chất lượng tiếp thu và làm bài càng tăng lên, 
các em học toán tự t

Tài liệu đính kèm:

  • pdfSKKN_TOAN_3.pdf