Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh nắm yêu cầu của bài tập, định hướng cho học sinh giao tiếp. Giáo viên dùng câu hỏi: Bài tập yêu cầu làm gì? nói gì? nói với ai, nói với hình ảnh nào? Nói để làm gì? Thái độ, tình cảm của các nhân vật khi nói với nhau như thế nào?
Hoạt động 2: Hướng dẫn mẫu: Giáo viên hướng dẫn, tổ chức cho một học sinh nói thử.
Hoạt động 3: Hướng dẫn, tổ chức cho học sinh nói.
Căn cứ tình huống giao tiếp được đặt ra trong đề bài. Giáo viên tổ chức cho nói theo hướng.
Chia lớp thành các nhóm nhỏ để luyện tập. Mỗi nhóm nhỏ hoạt động dưới hình thức trò chơi sắm vai (1 em đóng vai bà, 1 em đóng vai cháu). Trong khi học sinh thực hành: Giờ học tạo không khí hào hứng, tôn trọng học sinh, kích thích học sinh muốn nói, mạnh dạn nói bằng những lời động viên khen ngợi.
- Sử dụng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt học sinh nói khi các em gặp khó khăn.
- Chú trọng rèn học sinh diễn đạt đúng, đủ, rõ ý bằng lời văn tự nhiên, chân thành, giàu cảm xúc. Khi học sinh diễn đạt cần phải thể hiện nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ. để làm tăng sức biểu cảm của lời nói.
- Định hướng cho học sinh khác nghe và nhận xét kết quả trình bày của bạn về nội dung nói, về cách thể hiện nội dung đó để học sinh thấy rõ ưu khuyết điểm.
Hoạt động 4: Tổ chức nhận xét, rút kinh nghiệm.
Từng bạn đã đóng góp đúng vai chưa: các câu nói của vai bạn đã đúng nghi thức lời nói chưa? (mở đầu, kết thúc cuộc gặp, cách trò chuyện, cách xưng hô.).
- Nội dung lời nói đã thực hiện đúng yêu cầu và đạt mục đích đề ra chưa?
- Cách dùng từ ngữ, diễn đạt ngữ điệu, thể hiện được nét mặt, ánh mắt chỗ nào cần học và cần sửa. Qua đó giáo viên nhấn mạnh những nghi thức lời nói cần thực hiện (với đề bài trên là nghi thức lời nói khi chia buồn, an ủi).
- Khi chấm bài giáo viên cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai của HS để định hướng cho HS khắc phục trong lần sau.
- Nên tập cho các em có thói quen học tập các ý hay các đoạn văn hay hoặc từ bài làm của bạn, từ sách báo tham khảo và tạo thói quen ghi chép lại trong sổ tay văn học của mình.
- Phân môn Tập làm văn có tính tổng hợp (đòi hỏi học sinh phải bộc lộ cả năng lực tư duy, năng lực giao tiếp, năng lực Tiếng Việt lẫn khả năng cảm thụ, thái độ, cảm xúc cá nhân) phân môn Tập làm văn hơn bất kỳ một phân môn nào khác đặt lên hàng đầu yêu cầu phát huy tính chủ động, sáng tạo, bản lĩnh, cá nhân của học sinh. Do đó, dạy Tập làm văn phải tích cực hoá được hoạt động học tập của học sinh, phải tạo điều kiện để học sinh chủ động, tự do thể hiện cái "tôi" của mình một cách rõ ràng, bộc bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn.
bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt ở Tiểu học là hình thành, phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập trong nhà trường và giao tiếp một cách đúng đắn, tự nhiên, tự tin trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Là giáo viên dạy lớp nên tôi rất quan tâm đến việc giúp các em tự tin học tốt phân môn Tập làm văn. Chính vì thế mà tôi chọn nghiên cứu và thực nghiệm đề tài “Một số kinh nghiệm dạy tốt phân môn Tập làm văn lớp 2”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Thông qua sáng kiến kinh nghiệm này, nhằm: - Hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (như nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. - Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng tình cảm lành mạnh, tốt đẹp thông qua nội dung bài dạy. - Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, từ đó giúp học sinh chiếm lĩnh các kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. - Góp phần nâng cao chất lượng dạy phân môn Tập làm văn. III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lý luận: Điều kiện kinh tế - xã hội đã có những thay đổi quan trọng, nhiều thành tựu đổi mới của các ngành khoa học đã xuất hiện những điều kiện đòi hỏi phải xây dựng lại chương trình môn Tiếng Việt. Bước vào thế kỷ XXI, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là một quá trình lâu dài, gian khổ, phức tạp, từ đây trên thế giới cũng như đất nước ta bắt đầu đặt ra nhiều vấn đề mới như kinh tế, tri thức, sự phát triển của công nghệ thông tin, hội nhập vào nền kinh tế - văn hóa của thế giới. Học sinh nắm được chương trình mới đạt được kết quả tốt là vấn đề nan giải vì chương trình cũ Tập làm văn đưa ra kiến thức có sẵn, học sinh dựa vào kiến thức đã đưa ra để học sinh điền vào, hoạt động tích cực của học sinh còn rất ít, học sinh chưa có sự sáng tạo trong học tập, giao tiếp nghi thức tối thiểu như: chào hỏi, lời động viên, an ủi là rất xa lạ đối với trẻ. Khi khách đến nhà, học sinh chưa biết có lời chào như thế nào, khi bố mẹ bảo "Con chào bác đi!" con trẻ chỉ đáp lại với lời chào chưa gãy gọn, ngượng ngùng. Lời cảm ơn, xin lỗi đối với trẻ là rất viễn vông. Nhưng đối với chương trình mới tôi rất hài lòng và hứng thú, học sinh nắm được nghi thức sử dụng chúng trong mọi tình huống giao tiếp ở gia đình, trong trường học và nơi công cộng. Qua đó bồi dưỡng và hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế trong hệ thống giáo dục quốc dân Tiểu học là bậc học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngày nay với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, bậc Tiểu học đã coi trọng và đầu tư rất nhiều cả về cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học, con người, trang thiết bị và sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy. Bậc Tiểu học được coi là bậc nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng này phụ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở Tiểu học. Người giáo viên Tiểu học phải chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên, đồng thời có trách nhiệm xây dựng một nền móng dân trí tối thiểu cho cả dân tộc thực hiện tốt Luật giáo dục phổ cập Tiểu học và các mục tiêu chương trình đề ra. Phân môn Tập làm văn có tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo, sử dụng toàn bộ các kỹ năng được hình thành và phát triển do nhiều phân môn khác của môn Tiếng Việt đảm nhiệm (kỹ năng đọc, nghe nói, viết chữ, viết chính tả, dùng từ đặt câu..). Tập làm văn còn đòi hỏi học sinh huy động với kiến thức nhiều mặt (Từ hiểu biết về cuộc sống đến tri thức về văn học, khoa học thường thức...) có liên quan đến đề bài. Bài Tập làm văn là sản phẩm tổng hợp của vốn sống, vốn văn học, năng lực tư duy, năng lực giao tiếp, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, sự sáng tạo của cá nhân học sinh. Qua bài Tập làm văn (kết quả học tập phân môn Tập làm văn) ta sẽ thấy được trình độ sử dụng Tiếng Việt, những tri thức và hiểu biết về cuộc sống của học sinh. Là môn học công cụ, phân môn Tập làm văn lớp 2 giúp cho học sinh nắm vững đơn vị tri thức cơ bản của khoa học Việt ngữ. Trên cơ sở hình thành kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết đạt đến trình độ đúng, tạo điều kiện học sinh nắm được tri thức khoa học mới. Vì vậy, dạy học sinh tiếp thu được chương trình mới, kiến thức Tập làm văn là góp phần không nhỏ vào việc hình thành mục tiêu giáo dục và đào tạo. 2. Cơ sở thực tiễn: Năm học 2011 – 2012, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2/1 trường Tiểu học Minh Hòa – Dầu Tiếng – Bình Dương. Lớp 2/1 do tôi chủ nhiệm có tổng số là 37 học sinh trong đó có 21 học sinh nữ. Trong năm học, tôi có những thuận lợi và gặp những khó khăn như sau: * Thuận lợi: - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường và các cấp chính quyền địa phương. - Là giáo viên giảng dạy nhiều năm nên có nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm. - Được đào tạo chuẩn hoá về chuyên môn. - Được sự giúp đỡ của đồng chí, đồng nghiệp trong công tác giảng dạy. - Cơ sở vật chất cũng như đồ dùng dạy học cũng được nhà trường trang bị tương đối đầy đủ phục vụ cho việc dạy và học. - Sách vở và đồ dùng học tập của học sinh được phụ huynh mua sắm đầy đủ. * Khó khăn: - Học sinh trường tiểu học Minh Hòa - Dầu Tiếng - Bình Dương thuộc vùng sâu, vùng xa của huyện Dầu Tiếng ít nhiều còn khó khăn về điều kiện học tập. - Phụ huynh đa số là nông dân ít có điều kiện quan tâm đến việc học tập sinh hoạt của con em. - Môi trường sống ở vùng sâu, xa ít nhiều ảnh hưởng đến quá trình tiếp thu kiến thức của trẻ . - Là lớp đầu cấp (sau lớp 1) nên các em còn hạn chế khả năng giao tiếp, ngôn ngữ còn hạn hẹp về vốn từ. B. PHẦN THỨ HAI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI DẠY PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN 1.Về phía học sinh: * Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tìm tòi sưu tầm những tài liệu phục vụ cho kiến thức có liên quan đến môn học dẫn đến nghèo vốn từ, nghèo vốn sống để có thể đưa bài văn vào viết. * Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh. * Học sinh chỉ quan tâm đến những sở thích không phục vụ cho môn học như: đọc sách báo, truyện tranh nhảm nhí, chơi điện tử, xem phim ảnh không phù hợp với lứa tuổi nên vốn văn học rất hạn chế. 2/ Về phía giáo viên: Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập Làm Văn: Lập dàn bài rập khuôn dẫn đến bài làm của học sinh giống nhau về ý tưởng, nội dung. Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý hay, tai hại thay một số giáo viên cho học sinh thuộc những bài văn mẫu điều đó đã làm mất đi sự sáng tạo và óc tưởng tượng phong phú của học sinh. Giáo viên chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hình thức tổ chức dạy học đơn điệu: giáo viên hỏi - học sinh trả lời, chỉ những em khá giỏi mới có thể tham gia trả lời còn những học sinh trung bình hoặc yếu thì cảm thấy lo sợ nếu bị gọi đến tên! Từ đó, học sinh cảm thấy nhàm chán, mất hứng thú học tập. Chưa xử lí kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tình trạng giáo viên đánh giá chưa đúng ý kiến của học sinh. Trên đây là những tồn tại mà tôi thường thấy ở nhiều giáo viên khi dạy Tập làm văn. Thế thì làm thế nào để khắc phục hiện trạng trên. Bản thân tôi sau nhiều lần thực nghiệm tại lớp mình và nhân rộng ở một số lớp khác đã thấy rất khả thi. II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1/ Đối với giáo viên; a. .Dạy học sinh nắm bắt được kiến thức được tốt, tôi cần tìm hiểu kỹ nội dung chương trình: Lớp 2: Số tiết: 1 tiết/tuần; cả năm 31 bài, 31 tiết. Nội dung: - Thực hành về một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, như: viết tự thuật, lập danh sách tổ, lập mục lục, lập thời gian biểu, gọi điện, viết nhắt tin, bưu thiếp... - Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu, như: Học sinh được học cách chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi, khẳng định, phủ định, mời, nhờ, đềnghị, chia vui, chia buồn, an ủi, thể hiện sự đồng ý, không đồng ý, ngạc nhiên, thán phục, cáp đáp lại lời chào, lời tự giới thiệu , lời cảm ơn, xin lỗi.. qua các hình thức đọc thoại và hội thoại trong các tình huống giao tiếp đơn giản trong gia đình, trường học. - Thực hành, rèn luyện về kỹ năng diễn đạt ( nói, viết ), như: kể về người thân trong gia đình, sự vật hay sự việc được chứng kiến, tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc câu hỏi - Thực hành rèn luyện về kỹ năng nghe: dựa vào câu hỏi gợi ý để kể lại hoặc nêu được ý chính của mẫu chuyện ngắn đã nghe. b. Để thực hiện tốt những nội dung chương trình phân môn Tập làm văn lớp 2, tôi đã thực hiện như sau: Người giáo viên có vai trò rất quan trọng và ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với học sinh vì họ là những người chủ đạo tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, chính vì thế bản thân người giáo viên cần phải : - Luôn học hỏi đồng nghiệp và tự học để nâng cao trình độ bản thân và nâng cao tay nghề. - Phải đầu tư thật kĩ bài dạy trước khi lên lớp. - Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi giảng dạy bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của học sinh khi các em phát biểu để tìm ra ưu khuyết điểm chính của các em, sau đó nhận xét sửa chữa, góp ý đánh giá. - Giáo viên cũng cần rèn cho học sinh kĩ năng nhận xét bài của bạn để từ đó nhận biết được những chỗ hay hoặc chưa hay trong làm bài của mình.. Điều này vừa động viên được những em làm bài hay, vừa khơi dậy cho học sinh những ý tưởng, sáng tạo mới. Học sinh cảm thấy có thêm nguồn động lực để thi đua học tập, để bài của mình được cô và các bạn đọc trước lớp. Bên cạnh đó những hạn chế trong bài làm của học sinh, giáo viên cũng cần tế nhị khi nhận xét. Tuyệt đối không dùng những câu đại loại: ý nghèo nàn quá, bài chưa đủ ý, bài yếu hoặc em không có chuẩn bị bài sao... Điều đó sẽ làm cho em như bị dội gáo nước lạnh vào mặt. Người giáo viên cần thận trọng, trước tiên cần tìm cho bằng được những ưu điểm trong bài làm của học sinh dù chỉ nhỏ nhoi để tuyên dương trước lớp rồi từ từ cho các em chỉnh sửa, bổ sung cho câu văn hay hơn, hoàn chỉnh hơn. F Người giáo viên cần thay đổi nhiều hình thức học tập để tạo cơ hội cho nhiều học sinh cùng được tham gia trình bày ý kiến của mình, như: Tổ chức học chung toàn lớp; Tổ chức học theo nhóm (tổ chức lớp thành viên nhiều nhóm, các nhóm cùng đóng vai, trao đổi bàn bạc để thực hiện nội dung bài học); Tổ chức để từng cá nhân làm việc độc lập nhằm thực hiện nhiệm vụ học tập. * Ví dụ: Ông em (hoặc bà em) bị mệt. Em hãy nói với ông (hoặc bà) 2-3 câu để tỏ rõ sự quan tâm của mình. (Bài tập 1 tiết Tập làm văn - tuần 11) SGK Tiếng Việt lớp 2 trang 94. Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh nắm yêu cầu của bài tập, định hướng cho học sinh giao tiếp. Giáo viên dùng câu hỏi: Bài tập yêu cầu làm gì? nói gì? nói với ai, nói với hình ảnh nào? Nói để làm gì? Thái độ, tình cảm của các nhân vật khi nói với nhau như thế nào? Hoạt động 2: Hướng dẫn mẫu: Giáo viên hướng dẫn, tổ chức cho một học sinh nói thử. Hoạt động 3: Hướng dẫn, tổ chức cho học sinh nói. Căn cứ tình huống giao tiếp được đặt ra trong đề bài. Giáo viên tổ chức cho nói theo hướng. Chia lớp thành các nhóm nhỏ để luyện tập. Mỗi nhóm nhỏ hoạt động dưới hình thức trò chơi sắm vai (1 em đóng vai bà, 1 em đóng vai cháu). Trong khi học sinh thực hành: Giờ học tạo không khí hào hứng, tôn trọng học sinh, kích thích học sinh muốn nói, mạnh dạn nói bằng những lời động viên khen ngợi. - Sử dụng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt học sinh nói khi các em gặp khó khăn. - Chú trọng rèn học sinh diễn đạt đúng, đủ, rõ ý bằng lời văn tự nhiên, chân thành, giàu cảm xúc. Khi học sinh diễn đạt cần phải thể hiện nét mặt, ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ... để làm tăng sức biểu cảm của lời nói. - Định hướng cho học sinh khác nghe và nhận xét kết quả trình bày của bạn về nội dung nói, về cách thể hiện nội dung đó để học sinh thấy rõ ưu khuyết điểm. Hoạt động 4: Tổ chức nhận xét, rút kinh nghiệm. Từng bạn đã đóng góp đúng vai chưa: các câu nói của vai bạn đã đúng nghi thức lời nói chưa? (mở đầu, kết thúc cuộc gặp, cách trò chuyện, cách xưng hô...). - Nội dung lời nói đã thực hiện đúng yêu cầu và đạt mục đích đề ra chưa? - Cách dùng từ ngữ, diễn đạt ngữ điệu, thể hiện được nét mặt, ánh mắt chỗ nào cần học và cần sửa. Qua đó giáo viên nhấn mạnh những nghi thức lời nói cần thực hiện (với đề bài trên là nghi thức lời nói khi chia buồn, an ủi). - Khi chấm bài giáo viên cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai của HS để định hướng cho HS khắc phục trong lần sau. - Nên tập cho các em có thói quen học tập các ý hay các đoạn văn hay hoặc từ bài làm của bạn, từ sách báo tham khảo và tạo thói quen ghi chép lại trong sổ tay văn học của mình. - Phân môn Tập làm văn có tính tổng hợp (đòi hỏi học sinh phải bộc lộ cả năng lực tư duy, năng lực giao tiếp, năng lực Tiếng Việt lẫn khả năng cảm thụ, thái độ, cảm xúc cá nhân) phân môn Tập làm văn hơn bất kỳ một phân môn nào khác đặt lên hàng đầu yêu cầu phát huy tính chủ động, sáng tạo, bản lĩnh, cá nhân của học sinh. Do đó, dạy Tập làm văn phải tích cực hoá được hoạt động học tập của học sinh, phải tạo điều kiện để học sinh chủ động, tự do thể hiện cái "tôi" của mình một cách rõ ràng, bộc bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn. 2. Đối với học sinh: - Hết sức chú ý nghe giảng, có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp. - Cụ thể hoá những ý nghĩ chung của bạn thành ý riêng của mình bằng cách tự lập một hệ thống dàn bài riêng của mình phù hợp với yêu cầu của chủ đề. - Mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến để các bạn xây dựng cho mình. - Tập cho mình có thói quen đọc sách báo hàng ngày để cập nhật thông tin bổ sung cho bài làm của mình thêm sâu sắc hơn. Tuyệt đối tránh máy móc rập khuôn theo bài mẫu. III . GIÁO ÁN MẪU Sau đây tôi xin trình bày một giáo án cụ thể để các đồng chí cùng tham khảo: Tập làm văn (Tuần 15): Chia vui. Kể về anh, chị, em. (Giáo dục bảo vệ mội trường- Giáo dục kỹ năng sống ) I. Mục tiêu: 1 - Rèn kỹ năng nghe và nói: -Biết nói lời chia vui (chúc mừng) hợp tình huống giao tiếp (BT1, BT2); Biết được những tình cảm đẹp đẽ trong gia đình. 2 - Rèn kỹ năng viết: - Viết được đoạn văn ngắn kể về anh, chị, em .(BT3); Hiểu được tình cảm tốt đẹp trong gia đình; Thể hiện sự cảm thông, xác định giá trị, tự nhận thức về bản thân. - Có ý thức trân trọng tình cảm anh chị em trong gia đình. II. Chuẩn bị - GV: Tranh minh họa bài tập 1, một bó hoa. Bảng phụ, bút dạ. Một số tình huống để HS nói lời chia vui. III. Các hoạt động dạy học: Hoạt động của Giáo viên Hoạt động của Học sinh 1. Khởi động : 2. Bài cũ : Quan sát tranh – Trả lời câu hỏi.. Viết nhắn tin. -Gọi HS đọc bài tập 2 của mình. -Nhận xét, ghi điểm từng HS. 3. Bài mới a. Khám phá: -Khi ai đó gặp chuyện buồn, chúng ta phải làm gì? -Vậy khi người khác hạnh phúc, chúng ta sẽ nói gì? Bài học hôm nay sẽ giúp các em biết điều đó. b. Kết nối: Bài 1 -Treo bức tranh và hỏi bức tranh vẽ cảnh gì? -Gọi 1 HS đọc yêu cầu. -Chị Liên có niềm vui gì? -Khi chị Liên vui , Nam cũng cảm thấy như thế nào? -Nam chúc mừng chị Liên như thế nào? -Nếu là em trong trường hợp của Nam, em có cảm nghĩ như thế nào? Kết luận: Chị em trong gia đình phải biết thương yêu, cảm thông, chia sẻ với nhau những buồn vui trong cuộc sống. Bài 2: - Gọi HS đọc yêu cầu bài -Nếu là em, em sẽ nói gì với chị Liên để chúc mừng chị. - Tổ chức cho HS thực hành sắm vai theo cặp. -Nhận xét. Bài 3 -Gọi 1 HS đọc yêu cầu. -GV nhận xét. - Anh, chị, em trong gia đình phải có tình cảm như thế nào? -Yêu cầu HS tự làm. - Gọi HS đọc. - Chấm điểm 3 – 5 vở của HS. -Nhận xét. c.Thực hành - Yêu cầu HS nói lời chia vui trong một số tình huống sau: - Em sẽ nói gì khi bbạn đạt thành tích cao trong học tập? - Khi bạn em được cô giáo khen? -Nhận xét. Hoạt động nối tiếp: - Nhận xét tiết học. - Chuẩn bị bài sau. - Hát -3 HS đọc tin nhắn . -Bạn nhận xét. - Nói lời chia buồn hay an ủi. - Bé trai ôm hoa tặng chị. - Bạn Nam chúc mừng chị Liên được giải nhì trong kì thi học sinh giỏi của tỉnh. Hãy nhắc lại lời của Nam. - Đạt giải nhì trong kì thi học sinh giỏi của tỉnh. - Nam cũng thấy rất là vui. - Tặng hoa và nói: Em chúc mừng chị. Chúc chị sang năm được giải nhất. - Em sẽ thấy rất là vui, em cũng sẽ chúc mừng chị của mình như bạn Nam. - 3 đến 5 HS nhắc lại. - HS nói lời của mình. - Em xin chúc mừng chị./ Chúc chị học giỏi hơn nữa./ Mong chị đạt thành tích cao hơn./ Em rất khâm phục chị./ - HS thực hành sắm vai theo cặp nói lời chúc mừng chị Liên. -HS thể hiện. -Nhận xét. - Hãy viết từ 3 đến 4 câu kể về anh, chị, em ruột (hoặc anh, chị, em họ) của em. - HS thực hiện kể về anh, chị, em của mình cho các bạn cùng nghe. - Phải biết thương yêu, đoàn kết, cảm thông, chia sẻ với nhau những buồn vui trong cuộc sống. - 2 dãy HS thi đua thực hiện. - Em rất yêu bé Nam năm nay hai tuổi. Môi bé Nam đỏ hồng, da trắng. Nam luôn tươi cười ngộ nghĩnh. Em rất yêu bé Nam. - Anh trai em tên là Minh. Anh Minh cao và gầy. Năm nay anh học lớp 4 Trường Tiểu học Ngô Thì Nhậm. Anh Nam học rất giỏi. Em rất yêu thương anh trai của mình. Tổ chức cho HS thực hành theo nhóm đôi. - Từng nhóm HS thể hiện sắm vai theo tình huống trên. - Nhận xét. IV. KẾT QUẢ Trong năm học vừa qua, khi vận dụng những phương pháp trên vào giảng dạy cho học sinh, tôi nhận thấy rất khả quan khi dạy phân môn này. Thành tích học tập của các em cao hơn, chất lượng hơn và học sinh học tập cũng tích cực hơn. Bảng thống kê dưới đây đã chứng minh được điều đó: Điểm Thời gian Tổng số học sinh Giỏi (9 – 10) Khá (7 – 8) Trung bình (5 – 6) Dưới Trung bình (1 - 4) Đầu năm 37 3 11 19 3 Giữa HKI 37 16 10 10 1 Cuối HKI 37 20 11 6 0 Qua thời gian thực học, giáo viên và học sinh đã được rèn giũa và thực hành qua các tiết dạy Tập làm văn. Tôi thấy kết quả đạt được rất khả quan, học sinh tự làm bài tập, tự chiếm lĩnh tri thức qua hình thức tổ chức dạy học của giáo viên, các em làm việc rất hào hứng, thành thạo với mỗi bài, mức độ yêu cầu khác nhau. Tôi đã nắm được vấn đề cơ bản của chương trình về nội dung đổi mới phương pháp, kiến thức, kỹ năng trong giảng dạy phân môn Tập làm văn. Chính vì thế kết quả học tập của các em không ngừng đi lên. Tôi hy vọng với một chút kinh nghiệm nhỏ bé này sẽ phần nào giúp cho đồng nghiệp gỡ rối trong công tác giảng dạy của mình (nhất là với phân môn Tập làm văn). C. PHẦN THỨ BA I . BÀI HỌC KINH NGHIỆM. Muốn đạt kết quả cao trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 2 nói riêng và phân môn Tập làm văn các lớp khác nói chung không phải là khó song cũng không đơn giản một chút nào. Trong quá trình đó, tôi đã rút ra được một vài kinh nghiệm để dạy tốt phân môn Tập làm văn như sau: - Giáo viên cần đặc biệt chú ý sử dụng phối hợp tốt phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với trình độ học sinh, phù hợp với yêu cầu từng loại bài sao cho tiết học được tổ chức thành chuỗi hoạt động sôi nổi, nhẹ nhàng, nhằm lôi cuốn học sinh tham gia thực hành luyện tập các kỹ năng. - Giáo viên luôn học hỏi các đồng chí đồng nghiệp, đọc thêm tài liệu để nâng cao chất lượng dạy và học theo phương pháp đổi mới. - Người giáo viên phải là người mẫu mực trong mọi giao tiếp, cử chỉ... là tiếng nói chuẩn mực để học sinh học tập. - Thường xuyên trao đổi phụ huynh để thông báo và cùng bàn bạc khắc phục những nhược điểm của học sinh. - Tập trung đầu tư nghiên cứu soạn giảng các tiết dạy, áp dụng những sáng kiến kinh ngiệm của đồng chí, đồng nghiệp vào bài dạy, sử dụng các tài liệu, đồ dùng dạy học phù hợp, sinh động nhằm kích thích học sinh học tập. - Tạo mối quan hệ giữa thầy và trò, quan tâm, yêu thương, gần gũi với các em, hiểu biết về tâm sinh lý trẻ, tận tình giúp đỡ, hướng dẫn các em nhằm tạo động lực giúp các em hoàn thành mục tiêu của bài học (nhất là học sinh yếu kém). - Dạy học phân môn Tập làm văn nên lồng ghép, tích hợp với các môn học khác để mở rộng thế giới kiến thức cho học sinh và vừa có tính ôn tập vừa cung cấp thêm cho các em vốn kiến thức để hỗ trợ đắc lực cho phân môn Tập làm văn. II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT Năm học 2011– 2012 là năm thứ mười áp dụng chương trình Tiểu học 2000. * Đối với cấp trên: - Tổ chức nhiều chuyên đề “Đổi mới phương pháp dạy học” hơn nữa cho các lớp giáo viên cùng học tập. - Khuyến khích giáo viên sử dụng giáo án điện tử trong quá trình giảng dạy.
Tài liệu đính kèm: