Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học chủ đề và vận dụng các hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy phát huy năng lực học sinh trong dạy học môn Lịch sử ở trường THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học chủ đề và vận dụng các hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy phát huy năng lực học sinh trong dạy học môn Lịch sử ở trường THCS

1.1 Lí do chọn đề tài

Việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy học và kiểm tra, đánh giá theo

định hướng phát triển năng lực học sinh đã được triển khai từ hơn 30 năm qua.

Hầu hết giáo viên hiện nay đã được trang bị lí luận về các phương pháp và kĩ

thuật dạy học tích cực trong quá trình đào tạo tại các trường sư phạm cũng như

quá trình bồi dưỡng, tập huấn hằng năm. Tuy nhiên, việc thực hiện các phương

pháp dạy học tích cực trong thực tiễn còn chưa thường xuyên và chưa hiệu quả.

Nguyên nhân là chương trình hiện hành được thiết kế theo kiểu "xoáy ốc"

nhiều vòng nên trong nội bộ mỗi môn học, có những nội dung kiến thức được chia

ra các mức độ khác nhau để học ở các cấp học khác nhau (nhưng không thực sự

hợp lý và cần thiết); việc trình bày kiến thức trong sách giáo khoa theo định

hướng nội dung, nặng về lập luận, suy luận, diễn giải hình thành kiến thức; cùng

một chủ đề/vấn đề nhưng kiến thức lại được chia ra thành nhiều bài/tiết để dạy

học trong 45 phút không phù hợp với phương pháp dạy học tích cực; có những

nội dung kiến thức được đưa vào nhiều môn học; hình thức dạy học chủ yếu trên

lớp theo từng bài/tiết nhằm "truyền tải" hết những gì được viết trong sách giáo

khoa, chủ yếu là "hình thành kiến thức", học sinh ít được thực hành, vận dụng

kiến thức.

Để khắc phục những hạn chế trên, từ kinh nghiệm tham gia bồi dưỡng

chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học trong những năm qua tôi đề xuất

giải pháp “Dạy học chủ đề và vận dụng các hình thức tổ chức dạy học nhằm

phát huy phát huy năng lực học sinh trong dạy học môn Lịch sử ở trường

THCS”.

pdf 15 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 05/03/2022 Lượt xem 1693Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học chủ đề và vận dụng các hình thức tổ chức dạy học nhằm phát huy phát huy năng lực học sinh trong dạy học môn Lịch sử ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh yêu quê hương, đất nước và ý thức trách nhiệm công dân. 
Trên cơ sở tri thức lịch sử dân tộc và hiểu biết Quốc tế, bộ môn Lịch sử có ưu 
thế đặc biệt trong các hoạt động giáo dục ấy. 
 Mục tiêu đào tạo môn Lịch sử ở trường THCS: 
 *Về kiến thức: 
 - Cung cấp kiến thức lịch sử ở chương trình phổ thông THCS, học sinh 
được học những sự kiện cơ bản trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới và 
lịch sử dân tộc 
 - Tiếp tục bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Lịch sử về kiến thức và kĩ 
năng, tạo hứng thú say mê học tập, tìm hiểu lịch sử cho học sinh. 
 * Về năng lực: 
 - Hình thành năng lực tư duy lịch sử và tư duy logic, nâng cao năng lực 
xem xét, đánh giá sự kiện, hiện tượng trong mối quan hệ không gian, thời gian 
và nhân vật lịch sử. 
 - Rèn luyện kĩ năng học tập bộ môn một cách độc lập, thông minh như 
làm việc sách giáo khoa, sưu tầm và sử dụng các loại tư liệu lịch sử, làm bài 
thực hành. 
 - Phát triển khả năng phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp, .v.v. 
 - Vận dụng kiến thức vào thực tiễn. 
 - Biết đặt vấn đề và giải quyết vấn đề trong quá trình học tập. 
2. Cơ sở thực tiễn 
 *Thuận lợi: 
 - Công tác dạy học các bộ môn trong đó có môn Lịch sử, được sự quan 
tâm của Phòng Giáo dục và Đào tạo Đan Phượng và Ban giám hiệu, giáo viên 
nhiều trường THCS trong huyện. 
 - Một bộ phận học sinh yêu thích và quyết tâm học tập môn Lịch sử như 
thi vào đội tuyển học sinh giỏi cấp trường, cấp Thành phố. 
4/13 
 * Khó khăn: 
 Thực trạng nhận thức của học sinh THCS trong việc học môn Lịch sử hiện 
nay còn nhiều bất cập và hạn chế.Thực tế hiện nay, ở các trường THCS trên cả 
nước nói chung và Trung học cơ sở Phương Đình nói riêng do điều kiện khách 
quan và chủ quan chi phối nên phần lớn học sinh nghiêng về học các môn Toán, 
Ngữ văn, Tiếng Anh. Hiện trạng học sinh quan niệm môn Lịch sử là "môn phụ" 
diễn ra khá phổ biến nên ít có sự đầu tư học tập theo đúng yêu cầu bộ môn. 
 3. Các biện pháp tiến hành giải quyết vấn đề 
 3.1. Định hướng chung 
 Căn cứ vào những đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực, khi xây 
dựng các bài học theo chủ đề cần dựa trên một phương pháp dạy học tích cực cụ 
thể được lựa chọn để hình dung chuỗi hoạt động học sẽ tổ chức cho học sinh 
thực hiện. Nhìn chung các phương pháp dạy học tích cực đều dựa trên việc tổ 
chức cho học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề thông qua các nhiệm vụ học 
tập. Chuỗi hoạt động học trong mỗi chủ đề, chuyên đề vì thế đều tuân theo con 
đường nhận thức chung như sau: 
 - Hoạt động khởi động ( mở đầu): Mục đích của hoạt động này là tạo tâm 
thế học tập cho học sinh, giúp học sinh ý thức được nhiệm vụ học tập, hứng thú học 
bài mới. Giáo viên sẽ tạo tình huống học tập dựa trên việc huy động kiến thức, kinh 
nghiệm của bản thân học sinh có liên quan đến vấn đề xuất hiện trong tài liệu 
hướng dẫn học; làm bộc lộ "cái" học sinh đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân học 
sinh còn thiếu, giúp học sinh nhận ra "cái" chưa biết và muốn biết. 
- Hoạt động tìm tòi, khám phá, lĩnh hội được kiến thức, kỹ năng mới 
hoặc/vàthực hành, luyện tập, củng cố, hoàn thiện kiến thức, kỹ năng vừa lĩnh hội 
được nhằm giải quyết tình huống/vấn đề học tập. 
- Hoạt động vận dụng được các kiến thức, kĩ năng để phát hiện và giải 
quyết các tình huống/vấn đề thực tiễn. 
 Dựa trên con đường nhận thức chung đó và căn cứ vào nội dung chương 
trình, sách giáo khoa hiện hành, tổ/nhóm chuyên môn tổ chức cho giáo viên thảo 
luận, lựa chọn nội dung để xây dựng các chủ đề dạy học phù hợp. 
 3.2. Quy trình xây dựng bài học theo chủ đề 
 Mỗi bài học theo chủ đề phải giải quyết một vấn đề học tập. Vì vậy, việc 
xây dựng mỗi bài học cần thực hiện theo quy trình như sau: 
 a) Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học. 
5/13 
 Vấn đề cần giải quyết có thể là một trong các loại sau: 
 - Vấn đề tìm kiếm, xây dựng kiến thức mới. 
 - Vấn đề kiểm nghiệm, ứng dụng kiến thức. 
 - Vấn đề tìm kiếm, xây dựng, kiểm nghiệm và ứng dụng kiến thức mới. 
 Căn cứ vào nội dung chương trình, sách giáo khoa của môn học và những 
ứng dụng kĩ thuật, hiện tượng, quá trình trong thực tiễn, tổ/nhóm chuyên môn 
xác định các nội dung kiến thức liên quan với nhau được thể hiện ở một số 
bài/tiết hiện hành, từ đó xây dựng thành một vấn đề chung để tạo thành một 
chuyên đề dạy học đơn môn. Trường hợp có những nội dung kiến thức liên quan 
đến nhiều môn học, lãnh đạo nhà trường giao cho các tổ chuyên môn liên quan 
cùng nhau lựa chọn nội dung để thống nhất xây dựng các chủ đề tích hợp, liên 
môn. 
 Ví dụ: Một bài học Lịch sử được xây dựng theo tiến trình dạy học giải quyết 
vấn đề có thể được xây dựng như sau: 
 Theo sách giáo khoa Lịch sử lớp 6 trung học cơ sở, nội dung xã hội nguyên 
thủy được trình bày trong 2 bài riêng biệt, Bài 3. Xã hội nguyên thủy (đề cập đến 
xã hội nguyên thủy của lịch sử thế giới); Bài 8. Thời nguyên thủy trên đất nước 
Việt Nam (nội dung đề cập đến xã hội nguyên thủy ở Việt Nam) với thời lượng 
mỗi bài 1 tiết. Như vậy, nội dung của 2 bài học đều giải quyết một vấn đề chung là 
Xã hội nguyên thủy trên thế giới và Việt Nam và mối quan hệ giữa xã hội nguyên 
thủy thế giới với xã hội nguyên thủy ở Việt Nam và ngược lại. Vì vậy, cần phải cấu 
trúc lại nội dung dạy học thành chủ đề (bài học) "Xã hội nguyên thủy". Khi cấu 
trúc xây dựng lại thành bài học mới sẽ giúp học sinh học tập một cách thuận lợi 
hơn. Đó là: 
- Tránh được việc học tập rời rạc giữa xã hội nguyên thủy thế giới và xã hội 
nguyên thủy ở Việt Nam. 
- Học sinh được học xã hội nguyên thủy thế giới như thế nào qua đó biết 
được xã hội nguyên thủy Việt Nam có những điểm chung gì, điểm gì khác biệt. 
- Biết được sự phát triển của xã hội nguyên thủy ở Việt Nam là một bộ phận 
của sự phát triển chung của lịch sử xã hội loài người, đồng thời khẳng định Việt 
Nam là một trong những cái nôi của xã hội loài người. 
- Tránh được tình trạng học sinh phải học nhiều lần: học nội dung xã hội 
nguyên thủy trước (có thể là học kì I) sau đó học sang cả lịch sử thế giới cổ đại mới 
quay lại học lịch sử Việt Nam thời nguyên thủy (có thể là ở học kì II), qua đó 
6/13 
không thấy được mối liên hệ giữa lịch sử thế giới, lịch sử khu vực và lịch sử Việt 
Nam trong cùng một thời kì. 
Hoặc một ví dụ khác về nội dung các quốc gia cổ đại; trong sách giáo 
khoa hiện hành các quốc gia cổ đại gồm các bài: các quốc gia cổ đại phương 
Đông, các quốc gia cổ đại phương Tây, các quốc gia cổ đại trên đất nước ta đang 
được học riêng rẽ, độc lập ở các bài học và thời gian khác nhau, chúng ta có thể 
cấu trúc xây dựng thành chủ đề (bài học) về “Các quốc gia cổ đại trên thế giới”. 
 b) Bước 2: Xây dựng nội dung chủ đề bài học 
 Căn cứ vào tiến trình sư phạm của phương pháp dạy học tích cực được sử 
dụng để tổ chức hoạt động học cho học sinh, từ tình huống xuất phát đã xây 
dựng, dự kiến các nhiệm vụ học tập cụ thể tiếp theo tương ứng với các hoạt 
động học của học sinh, từ đó xác định các nội dung cần thiết để cấu thành chủ đề 
bài học. Lựa chọn các nội dung của chủ đề từ các bài/tiết trong sách giáo khoa 
của một môn học hoặc/và các môn học có liên quan để xây dựng chuyên đề dạy 
học. Thông thường cùng nội dung, hay vấn đề các bài học trong sách giáo khoa 
Lịch sử hiện hành được đặt gần nhau, trong cùng một chương, hoặc một số 
chương gồm: Lịch sử thế giới, lịch sử khu vực và lịch sử dân tộc. Về thực chất, 
mỗi bài học này tương ứng với 1 loại hoạt động học theo tiến trình sư phạm của 
phương pháp dạy học tích cực. 
 Ví dụ: Đối với bài học về “Các quốc gia cổ đại trên thế giới” nói trên, nội 
dung bài học gồm: 
 - Các quốc gia cổ đại phương Đông. 
- Các quốc gia cổ đại phương Tây. 
- Các quốc gia cổ đại trên đất nước ta (Văn Lang, Âu Lạc, Cham-pa) 
c) Bước 3: Xác định mục tiêu bài học 
 Xác định chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và 
các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học 
tích cực, từ đó xác định các năng lực và phẩm chất có thể hình thành cho học 
sinh trong chuyên đề sẽ xây dựng. 
 Ví dụ: Đối với bài học “Các quốc gia cổ đại trên thế giới”, Chương trình 
giáo dục phổ thông Lịch sử quy định mức độ cần đạt của học sinh như sau: 
+ Về mức độ cần đạt (kiến thức): 
- Hiểu biết tình hình phát triển sớm ở Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ cổ 
đại và sự hình thành các quốc gia cổ đại ở phương Đông. 
7/13 
- Phân tích kết cấu xã hội và chế độ chuyên chế cổ đại ở phương Đông. 
- Trình bày một số thành tựu văn hoá của phương Đông cổ đại (lịch, chữ viết, 
toán học, kiến trúc). 
 +Về năng lực: Qua việc thực hiện các hoạt động học trong bài học, học 
sinh được rèn luyện về năng lực tự học, phát hiện và giải quyết vấn đề. 
 d) Bước 4: Xác định và mô tả mức độ yêu cầu (nhận biết, thông hiểu, 
vận dụng, vận dụng cao) của mỗi loại câu hỏi/bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, 
đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học. 
 đ) Bước 5: Biên soạn các câu hỏi/bài tập cụ thể theo các mức độ yêu 
cầu đã mô tả để sử dụng trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học và kiểm 
tra, đánh giá, luyện tập theo chủ đề đã xây dựng. 
 Ví dụ: Đối với bài học nói trên, việc kiểm tra, đánh giá như sau: 
 - Đánh giá bằng nhận xét: Với tiến trình dạy học như trên, chúng ta có thể 
hình dung các hoạt động học của học sinh được diễn ra trong 3 tuần với 3 tiết học 
trên lớp. Thông qua quan sát, trao đổi và các sản phẩm học tập của học sinh, giáo 
viên có thể nhận xét, đánh giá được sự tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh 
trong học tập 
 - Đánh giá kết quả học tập của học sinh: Căn cứ vào các mức độ yêu cầu 
của câu hỏi, bài tập được mô tả trong bảng trên, giáo viên có thể xây dựng các 
câu hỏi, bài tập tương ứng để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. 
Căn cứ vào mức độ phát triển năng lực của học sinh ở từng học kỳ và từng khối 
lớp, giáo viên và nhà trường xác định tỷ lệ các câu hỏi, bài tập theo 4 mức độ 
yêu cầu trong các bài kiểm tra trên nguyên tắc đảm bảo sự phù hợp với đối 
tượng học sinh. 
 e) Bước 6: Thiết kế tiến trình dạy học 
 Thiết kế tiến trình dạy học chủ đề thành các hoạt động học được tổ chức 
cho học sinh có thể thực hiện ở trên lớp và ở nhà, mỗi tiết học trên lớp có thể chỉ 
thực hiện một số hoạt động trong tiến trình sư phạm của phương pháp và kĩ 
thuật dạy học được sử dụng. Trong chuỗi hoạt động học, đặc biệt quan tâm xây 
dựng tình huống xuất phát. 
 - Tình huống xuất phát phải gần gũi với đời sống mà học sinh dễ cảm 
nhận và đã có ít nhiều những quan niệm ban đầu về chúng. 
 - Việc xây dựng tình huống xuất phát cần phải chú ý tạo điều kiện cho học 
sinh có thể huy động được kiến thức ban đầu để giải quyết, qua đó hình thành 
8/13 
mâu thuẫn nhận thức, giúp học sinh phát hiện được vấn đề, đề xuất được các giải 
pháp nhằm giải quyết vấn đề. 
 Tiếp theo tình huống xuất phát là các hoạt động học như: đề xuất giải 
pháp giải quyết vấn đề; thực hiện giải pháp để giải quyết vấn đề; báo cáo, thảo 
luận; kết luận, nhận định, hợp thức hóa kiến thức... 
3.3. Tổ chức hoạt động học theo định hướng phát triển năng lực HS 
* Hoạt động cá nhân 
- Là hoạt động yêu cầu học sinh thực hiện các bài tập/nhiệm vụ một cách 
độc lập. Loại hoạt động này nhằm tăng cường khả năng làm việc độc lập của 
học sinh. Nó diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là với các bài tập/nhiệm vụ có yêu 
cầu khám phá, sáng tạo hoặc rèn luyện đặc thù. Giáo viên cần đặc biệt coi trọng 
hoạt động cá nhân vì nếu thiếu nó, nhận thức của học sinh sẽ không đạt tới mức 
độ sâu sắc và chắc chắn cần thiết, cũng như các kĩ năng sẽ không được rèn luyện 
một cách tập trung. 
- Lưu ý: GV phải bao quát được việc học của HS cả lớp và hỗ trợ HS kịp 
thời, cần ưu tiên giúp đỡ cho HS yếu, kém. GV cần nói nhỏ khi hướng dẫn cho 
cá nhân HS và nhẹ nhàng khi di chuyển trong lớp. 
* Hoạt động theo cặp đôi 
- Là những hoạt động nhằm giúp học sinh phát triển năng lực hợp tác, 
tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng. Thông thường, hình thức hoạt động 
cặp đôi được sử dụng trong những trường hợp các bài tập/ nhiệm vụ cần sự chia 
sẻ, hợp tác trong nhóm nhỏ gồm 2 em. Ví dụ: kể cho nhau nghe, nói với nhau 
một nội dung nào đó, đổi bài cho nhau để đánh giá chéo, 
- Tùy theo hoạt động học tập, có lúc học sinh sẽ làm việc theo cặp trong 
nhóm. Giáo viên lưu ý cách chia nhóm sao cho không học sinh nào bị lẻ khi hoạt 
động theo cặp. Nếu không, giáo viên phải cho đan chéo giữa các nhóm để đảm 
bảo tất cả học sinh đều được làm việc. Làm việc theo cặp rất phù hợp với các 
công việc như: kiểm tra dữ liệu, giải thích, chia sẻ thông tin; thực hành kĩ năng 
giao tiếp cơ bản (ví dụ như nghe, đặt câu hỏi, làm rõ một vấn đề), đóng vai. Làm 
việc theo cặp sẽ giúp học sinh tự tin và tập trung tốt vào công việc nhóm. Quy mô 
nhỏ này cũng là nền tảng cho sự chia sẻ và hợp tác trong nhóm lớn hơn sau này. 
* Hoạt động theo nhóm 
- Nhóm là hình thức học tập phát huy rất tốt khả năng sáng tạo nên hình 
thức này dễ phù hợp với các hoạt động cần thu thập ý kiến và phát huy sự sáng 
9/13 
tạo. Điều quan trọng là học sinh cần phải biết mình làm gì và làm như thế nào 
khi tham gia làm việc nhóm. 
- Khi tổ chức cho HS học nhóm, GV cần nhận thức và hướng dẫn đúng 
nhiệm vụ của các thành viên trong hoạt động nhóm và vai trò của GV đối với 
việc tổ chức cho HS học nhóm. Để tránh việc tổ chức hoạt động nhóm mang 
tính hình thức. Trong khi thảo luận nhóm, cần phân rõ vai trò của cá nhân, nhóm 
trưởng, thư kí nhóm và giáo viên. Cụ thể là: 
+ Cá nhân: tự đọc, suy nghĩ, giải quyết nhiệm vụ, có thể hỏi các bạn 
trong nhóm về những điều mình chưa hiểu; khi các bạn cũng gặp khó khăn như 
mình thì yêu cầu sự trợ giúp của giáo viên; thực hiện các yêu cầu của nhóm 
trưởng và yêu cầu của giáo viên. 
+ Nhóm trưởng: thực hiện các nhiệm vụ của cá nhân như những bạn 
khác; bao quát nhóm xem các bạn có khó khăn gì không; phân công các bạn giúp 
đỡ nhau; tổ chức cho cả nhóm thảo luận những vấn đề khó khăn; thay mặt nhóm 
để liên hệ với giáo viên và xin trợ giúp; báo cáo tiến trình học tập nhóm; điều 
hành chốt kiến thức trong nhóm. Giáo viên lưu ý phân công học sinh luân phiên 
nhau làm nhóm trưởng. 
+ Thư kí của nhóm: thực hiện các nhiệm vụ của cá nhân như các bạn 
khác; là người ghi chép hoặc vẽ lại những nội dung trao đổi hoặc kết quả công 
việc của nhóm. Việc ghi chép này giúp nhóm tổng hợp công việc mình đã thực 
hiện, trao đổi với các nhóm khác hoặc chia sẻ trước cả lớp. Để việc tổng hợp ý 
kiến, công việc của nhóm được thú vị và hấp dẫn. Giáo viên phân công học sinh 
luân phiên nhau làm thư kí. 
+ Vai trò của giáo viên trong hoạt động nhóm 
Chọn luân phiên các nhóm trưởng, thư kí nhóm để giúp giáo viên triển 
khai các hoạt động học tập. Xác định và phân công nhiệm vụ cho các nhóm một 
cách cụ thể và rõ ràng. Đứng ở vị trí thuận lợi để dễ dàng quan sát các nhóm học 
sinh làm việc và có thể hỗ trợ kịp thời cho các nhóm. Không nên dành thời gian 
làm việc ở một nhóm quá lâu, đứng một chỗ ở khu vực bàn giáo viên. 
Giúp đỡ học sinh, gợi mở để học sinh phát huy tìm tòi kiến thức mới, hỗ 
trợ cho cả lớp, hướng dẫn học sinh báo cáo sản phẩm. Khi cần tạo tình huống để 
học tập, giáo viên có thể gọi học sinh còn yếu; khi cần biểu dương khích lệ học 
tập, giáo viên có thể gọi học sinh khá giỏi thay mặt nhóm để báo cáo; giao thêm 
nhiệm vụ cho những học sinh hoàn thành trước nhiệm vụ (giao thêm bài tập 
hoặc yêu cầu hướng dẫn các bạn khác...). 
10/13 
- GV cần hướng dẫn thực hiện đúng tiến trình hoạt động nhóm 
+ Trước khi tham gia phối hợp với bạn học trong nhóm, cá nhân luôn có 
một khoảng thời gian với các hoạt động để tự lĩnh hội kiến thức, chuẩn bị cho 
các hoạt động thảo luận trong nhóm. Cá nhân làm việc độc lập trong nhóm, 
nhưng vẫn có thể tranh thủ hỏi hay trả lời bạn trong nhóm, vẫn thực hiện các yêu 
cầu của của nhóm trưởng (nếu có) để phục vụ cho các hoạt động nhóm. 
- Khi HS chưa quen tự động tạo nhóm, GV hướng dẫn tạo nhóm theo dãy 
bàn. Có thể cho HS xếp bàn trên, bàn dưới ghép với nhau để từ 4 đến 6 HS ngồi 
quay mặt vào nhau. Không nên xếp nhóm quá dài theo chiều ngang hoặc dọc, 
HS sẽ khó giao tiếp với nhau. Nếu nhóm làm việc ít hiệu quả, nên bố trí lại 
nhóm để HS có thể giao tiếp thuận lợi và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Mỗi nhóm 
cần bầu nhóm trưởng, thư kí, một số em có nhiệm vụ chuẩn bị nguồn tư liệu, ghi 
chép, theo dõi thời gian, Các nhóm cùng đồng thời làm việc nên HS cần giữ 
trật tự, không nói quá to, không chạy đi, chạy lại trong lớp khi không cần thiết 
(như đi lấy nguồn tài liệu, lấy thiết bị dạy học cho nhóm,). Nhóm trưởng đề 
nghị một vài bạn nêu lại yêu cầu để tất cả các thành viên trong nhóm nhận biết 
được nhiệm vụ chung của nhóm. Các việc làm cần tuần tự thực hiện: 
+ HS đọc thầm yêu cầu. 
+ Các thành viên trong nhóm suy nghĩ cá nhân hoặc có thể chia sẻ với bạn 
bên cạnh theo yêu cầu của hoạt động. 
+ Nhóm trưởng mời lần lượt các thành viên hoặc một vài bạn trong nhóm 
chia sẻ hoặc đưa ra ý kiến. GV lưu ý để nhóm trưởng dành thời gian cho các bạn 
giải quyết nhiệm vụ. Sau khoảng thời gian nhất định, nếu bạn nào muốn trình 
bày, nhóm trưởng nên mời lên đầu tiên. 
+ Thống nhất kết quả hoạt động của nhóm. Nhóm trưởng có nhiệm vụ tổ 
chức tập hợp ý kiến các thành viên để có thể cử đại diện nhóm trình bày kết quả 
của nhóm trước lớp. 
+ Báo cáo kết quả với thày/cô giáo hoặc trao đổi với nhóm bạn bên cạnh. 
GV nên tạo điều kiện để đại diện nhóm trình bày kết quả. Có thể để 1 nhóm 
trình bày, các nhóm khác bổ sung, bình luận. GV chú ý tổng hợp kết quả của HS 
để cuối cùng có thể chốt lại những nội dung cơ bản của bài học. GV nên yêu cầu 
HS nêu lại kết quả cuối cùng đó. GV không nên tự chốt lại kết qủa do HS thực 
hiện. Nếu GV thấy HS không lúng túng, thắc mắc về kết quả làm việc của nhóm 
thì nên để các nhóm trao đổi kết quả với nhau trước khi chọn một nhóm đại diện 
báo cáo mang tính chốt vấn đề được tìm hiểu, giải quyết trước lớp. 
11/13 
Lưu ý: Vai trò của nhóm trưởng là quan trọng. Vì vậy, GV cần hình thành 
kĩ năng điều khiển nhóm cho các em HS và tạo cơ hội để mọi HS đều có thể làm 
nhóm trưởng. 
*Hoạt động cả lớp 
- Khi học sinh có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh một vấn đề hoặc có 
những khó khăn mà nhiều học sinh không thể vượt qua, giáo viên có thể dừng 
công việc của các cá nhân, cặp, nhóm lại để tập trung cả lớp làm sáng tỏ các vấn 
đề còn băn khoăn hoặc bàn cãi (Lưu ý rằng những tình huống như vậy không 
xuất hiện thường xuyên trong lớp học). 
- Hoạt động cả lớp còn được sử dụng trong tình huống GV nêu yêu cầu 
cho HS, hướng dẫn HS thực hiện nhiệm vụ, HS hoặc nhóm HS trình bày kết quả 
làm việc, GV đánh giá kết quả làm việc của HS, Cụ thể như sau: 
+ GV hướng dẫn HS thực hiện yêu cầu, có thể là đọc đoạn văn, phân tích 
biểu đồ, liên hệ thực tiễn,. Từng cá nhân HS cần biết mình phải làm gì ở bước 
tiếp theo. 
+ GV dành thời gian cho HS thực hiện yêu cầu. Trong lúc HS làm việc, 
GV quan sát thái độ HS. Nếu thấy HS còn lúng túng, GV cần hỗ trợ HS về 
nguồn tài liệu, về cách xử lý thông tin, cách ghi chép kết quả, 
+ GV kiểm tra kết quả học tập của HS bằng cách yêu cầu HS trình bày 
trước lớp hoặc GV quan sát kết quả làm việc của các em (bản ghi chép, vẽ, bài 
tập được giải quyết,.). 
+ GV chính xác hóa kiến thức, chỉnh lại kĩ năng. Nếu quan sát thấy HS 
chưa đạt được kết quả mong muốn, GV yêu cầu một vài em trình bày kết quả. 
GV cần nhận xét, chỉnh sửa những kết quả đó và yêu cầu các em khác so sánh 
với kết quả được chỉnh sửa để tự chỉnh sửa kết quả làm việc của mình. 
+ GV mở rộng, nâng cao (nếu thấy cần thiết). 
Như vậy, việc lựa chọn hình thức làm việc nào: cá nhân, cặp đôi, nhóm 
hay cả lớp đều phụ thuộc vào yêu cầu của các loại hình hoạt động và luyện tập. 
Tài liệu Hướng dẫn học chỉ là một gợi ý cho việc tổ chức các hình thức hợp tác 
này, giáo viên cần lưu ý là không phải luôn tuân theo một cách máy móc thiết kế 
có sẵn của tài liệu. Tùy vào tình hình chung của cả lớp và thiết kế của cá 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_day_hoc_chu_de_va_van_dung_cac_hinh_th.pdf