1.1 Lí do chọn đề tài
Việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy học và kiểm tra, đánh giá theo
định hướng phát triển năng lực học sinh đã được triển khai từ hơn 30 năm qua.
Hầu hết giáo viên hiện nay đã được trang bị lí luận về các phương pháp và kĩ
thuật dạy học tích cực trong quá trình đào tạo tại các trường sư phạm cũng như
quá trình bồi dưỡng, tập huấn hằng năm. Tuy nhiên, việc thực hiện các phương
pháp dạy học tích cực trong thực tiễn còn chưa thường xuyên và chưa hiệu quả.
Nguyên nhân là chương trình hiện hành được thiết kế theo kiểu "xoáy ốc"
nhiều vòng nên trong nội bộ mỗi môn học, có những nội dung kiến thức được chia
ra các mức độ khác nhau để học ở các cấp học khác nhau (nhưng không thực sự
hợp lý và cần thiết); việc trình bày kiến thức trong sách giáo khoa theo định
hướng nội dung, nặng về lập luận, suy luận, diễn giải hình thành kiến thức; cùng
một chủ đề/vấn đề nhưng kiến thức lại được chia ra thành nhiều bài/tiết để dạy
học trong 45 phút không phù hợp với phương pháp dạy học tích cực; có những
nội dung kiến thức được đưa vào nhiều môn học; hình thức dạy học chủ yếu trên
lớp theo từng bài/tiết nhằm "truyền tải" hết những gì được viết trong sách giáo
khoa, chủ yếu là "hình thành kiến thức", học sinh ít được thực hành, vận dụng
kiến thức.
Để khắc phục những hạn chế trên, từ kinh nghiệm tham gia bồi dưỡng
chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học trong những năm qua tôi đề xuất
giải pháp “Dạy học chủ đề và vận dụng các hình thức tổ chức dạy học nhằm
phát huy phát huy năng lực học sinh trong dạy học môn Lịch sử ở trường
THCS”.
nh yêu quê hương, đất nước và ý thức trách nhiệm công dân. Trên cơ sở tri thức lịch sử dân tộc và hiểu biết Quốc tế, bộ môn Lịch sử có ưu thế đặc biệt trong các hoạt động giáo dục ấy. Mục tiêu đào tạo môn Lịch sử ở trường THCS: *Về kiến thức: - Cung cấp kiến thức lịch sử ở chương trình phổ thông THCS, học sinh được học những sự kiện cơ bản trong quá trình phát triển của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc - Tiếp tục bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Lịch sử về kiến thức và kĩ năng, tạo hứng thú say mê học tập, tìm hiểu lịch sử cho học sinh. * Về năng lực: - Hình thành năng lực tư duy lịch sử và tư duy logic, nâng cao năng lực xem xét, đánh giá sự kiện, hiện tượng trong mối quan hệ không gian, thời gian và nhân vật lịch sử. - Rèn luyện kĩ năng học tập bộ môn một cách độc lập, thông minh như làm việc sách giáo khoa, sưu tầm và sử dụng các loại tư liệu lịch sử, làm bài thực hành. - Phát triển khả năng phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp, .v.v. - Vận dụng kiến thức vào thực tiễn. - Biết đặt vấn đề và giải quyết vấn đề trong quá trình học tập. 2. Cơ sở thực tiễn *Thuận lợi: - Công tác dạy học các bộ môn trong đó có môn Lịch sử, được sự quan tâm của Phòng Giáo dục và Đào tạo Đan Phượng và Ban giám hiệu, giáo viên nhiều trường THCS trong huyện. - Một bộ phận học sinh yêu thích và quyết tâm học tập môn Lịch sử như thi vào đội tuyển học sinh giỏi cấp trường, cấp Thành phố. 4/13 * Khó khăn: Thực trạng nhận thức của học sinh THCS trong việc học môn Lịch sử hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế.Thực tế hiện nay, ở các trường THCS trên cả nước nói chung và Trung học cơ sở Phương Đình nói riêng do điều kiện khách quan và chủ quan chi phối nên phần lớn học sinh nghiêng về học các môn Toán, Ngữ văn, Tiếng Anh. Hiện trạng học sinh quan niệm môn Lịch sử là "môn phụ" diễn ra khá phổ biến nên ít có sự đầu tư học tập theo đúng yêu cầu bộ môn. 3. Các biện pháp tiến hành giải quyết vấn đề 3.1. Định hướng chung Căn cứ vào những đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực, khi xây dựng các bài học theo chủ đề cần dựa trên một phương pháp dạy học tích cực cụ thể được lựa chọn để hình dung chuỗi hoạt động học sẽ tổ chức cho học sinh thực hiện. Nhìn chung các phương pháp dạy học tích cực đều dựa trên việc tổ chức cho học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề thông qua các nhiệm vụ học tập. Chuỗi hoạt động học trong mỗi chủ đề, chuyên đề vì thế đều tuân theo con đường nhận thức chung như sau: - Hoạt động khởi động ( mở đầu): Mục đích của hoạt động này là tạo tâm thế học tập cho học sinh, giúp học sinh ý thức được nhiệm vụ học tập, hứng thú học bài mới. Giáo viên sẽ tạo tình huống học tập dựa trên việc huy động kiến thức, kinh nghiệm của bản thân học sinh có liên quan đến vấn đề xuất hiện trong tài liệu hướng dẫn học; làm bộc lộ "cái" học sinh đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân học sinh còn thiếu, giúp học sinh nhận ra "cái" chưa biết và muốn biết. - Hoạt động tìm tòi, khám phá, lĩnh hội được kiến thức, kỹ năng mới hoặc/vàthực hành, luyện tập, củng cố, hoàn thiện kiến thức, kỹ năng vừa lĩnh hội được nhằm giải quyết tình huống/vấn đề học tập. - Hoạt động vận dụng được các kiến thức, kĩ năng để phát hiện và giải quyết các tình huống/vấn đề thực tiễn. Dựa trên con đường nhận thức chung đó và căn cứ vào nội dung chương trình, sách giáo khoa hiện hành, tổ/nhóm chuyên môn tổ chức cho giáo viên thảo luận, lựa chọn nội dung để xây dựng các chủ đề dạy học phù hợp. 3.2. Quy trình xây dựng bài học theo chủ đề Mỗi bài học theo chủ đề phải giải quyết một vấn đề học tập. Vì vậy, việc xây dựng mỗi bài học cần thực hiện theo quy trình như sau: a) Bước 1: Xác định vấn đề cần giải quyết trong bài học. 5/13 Vấn đề cần giải quyết có thể là một trong các loại sau: - Vấn đề tìm kiếm, xây dựng kiến thức mới. - Vấn đề kiểm nghiệm, ứng dụng kiến thức. - Vấn đề tìm kiếm, xây dựng, kiểm nghiệm và ứng dụng kiến thức mới. Căn cứ vào nội dung chương trình, sách giáo khoa của môn học và những ứng dụng kĩ thuật, hiện tượng, quá trình trong thực tiễn, tổ/nhóm chuyên môn xác định các nội dung kiến thức liên quan với nhau được thể hiện ở một số bài/tiết hiện hành, từ đó xây dựng thành một vấn đề chung để tạo thành một chuyên đề dạy học đơn môn. Trường hợp có những nội dung kiến thức liên quan đến nhiều môn học, lãnh đạo nhà trường giao cho các tổ chuyên môn liên quan cùng nhau lựa chọn nội dung để thống nhất xây dựng các chủ đề tích hợp, liên môn. Ví dụ: Một bài học Lịch sử được xây dựng theo tiến trình dạy học giải quyết vấn đề có thể được xây dựng như sau: Theo sách giáo khoa Lịch sử lớp 6 trung học cơ sở, nội dung xã hội nguyên thủy được trình bày trong 2 bài riêng biệt, Bài 3. Xã hội nguyên thủy (đề cập đến xã hội nguyên thủy của lịch sử thế giới); Bài 8. Thời nguyên thủy trên đất nước Việt Nam (nội dung đề cập đến xã hội nguyên thủy ở Việt Nam) với thời lượng mỗi bài 1 tiết. Như vậy, nội dung của 2 bài học đều giải quyết một vấn đề chung là Xã hội nguyên thủy trên thế giới và Việt Nam và mối quan hệ giữa xã hội nguyên thủy thế giới với xã hội nguyên thủy ở Việt Nam và ngược lại. Vì vậy, cần phải cấu trúc lại nội dung dạy học thành chủ đề (bài học) "Xã hội nguyên thủy". Khi cấu trúc xây dựng lại thành bài học mới sẽ giúp học sinh học tập một cách thuận lợi hơn. Đó là: - Tránh được việc học tập rời rạc giữa xã hội nguyên thủy thế giới và xã hội nguyên thủy ở Việt Nam. - Học sinh được học xã hội nguyên thủy thế giới như thế nào qua đó biết được xã hội nguyên thủy Việt Nam có những điểm chung gì, điểm gì khác biệt. - Biết được sự phát triển của xã hội nguyên thủy ở Việt Nam là một bộ phận của sự phát triển chung của lịch sử xã hội loài người, đồng thời khẳng định Việt Nam là một trong những cái nôi của xã hội loài người. - Tránh được tình trạng học sinh phải học nhiều lần: học nội dung xã hội nguyên thủy trước (có thể là học kì I) sau đó học sang cả lịch sử thế giới cổ đại mới quay lại học lịch sử Việt Nam thời nguyên thủy (có thể là ở học kì II), qua đó 6/13 không thấy được mối liên hệ giữa lịch sử thế giới, lịch sử khu vực và lịch sử Việt Nam trong cùng một thời kì. Hoặc một ví dụ khác về nội dung các quốc gia cổ đại; trong sách giáo khoa hiện hành các quốc gia cổ đại gồm các bài: các quốc gia cổ đại phương Đông, các quốc gia cổ đại phương Tây, các quốc gia cổ đại trên đất nước ta đang được học riêng rẽ, độc lập ở các bài học và thời gian khác nhau, chúng ta có thể cấu trúc xây dựng thành chủ đề (bài học) về “Các quốc gia cổ đại trên thế giới”. b) Bước 2: Xây dựng nội dung chủ đề bài học Căn cứ vào tiến trình sư phạm của phương pháp dạy học tích cực được sử dụng để tổ chức hoạt động học cho học sinh, từ tình huống xuất phát đã xây dựng, dự kiến các nhiệm vụ học tập cụ thể tiếp theo tương ứng với các hoạt động học của học sinh, từ đó xác định các nội dung cần thiết để cấu thành chủ đề bài học. Lựa chọn các nội dung của chủ đề từ các bài/tiết trong sách giáo khoa của một môn học hoặc/và các môn học có liên quan để xây dựng chuyên đề dạy học. Thông thường cùng nội dung, hay vấn đề các bài học trong sách giáo khoa Lịch sử hiện hành được đặt gần nhau, trong cùng một chương, hoặc một số chương gồm: Lịch sử thế giới, lịch sử khu vực và lịch sử dân tộc. Về thực chất, mỗi bài học này tương ứng với 1 loại hoạt động học theo tiến trình sư phạm của phương pháp dạy học tích cực. Ví dụ: Đối với bài học về “Các quốc gia cổ đại trên thế giới” nói trên, nội dung bài học gồm: - Các quốc gia cổ đại phương Đông. - Các quốc gia cổ đại phương Tây. - Các quốc gia cổ đại trên đất nước ta (Văn Lang, Âu Lạc, Cham-pa) c) Bước 3: Xác định mục tiêu bài học Xác định chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực, từ đó xác định các năng lực và phẩm chất có thể hình thành cho học sinh trong chuyên đề sẽ xây dựng. Ví dụ: Đối với bài học “Các quốc gia cổ đại trên thế giới”, Chương trình giáo dục phổ thông Lịch sử quy định mức độ cần đạt của học sinh như sau: + Về mức độ cần đạt (kiến thức): - Hiểu biết tình hình phát triển sớm ở Ai Cập, Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ cổ đại và sự hình thành các quốc gia cổ đại ở phương Đông. 7/13 - Phân tích kết cấu xã hội và chế độ chuyên chế cổ đại ở phương Đông. - Trình bày một số thành tựu văn hoá của phương Đông cổ đại (lịch, chữ viết, toán học, kiến trúc). +Về năng lực: Qua việc thực hiện các hoạt động học trong bài học, học sinh được rèn luyện về năng lực tự học, phát hiện và giải quyết vấn đề. d) Bước 4: Xác định và mô tả mức độ yêu cầu (nhận biết, thông hiểu, vận dụng, vận dụng cao) của mỗi loại câu hỏi/bài tập có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá năng lực và phẩm chất của học sinh trong dạy học. đ) Bước 5: Biên soạn các câu hỏi/bài tập cụ thể theo các mức độ yêu cầu đã mô tả để sử dụng trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy học và kiểm tra, đánh giá, luyện tập theo chủ đề đã xây dựng. Ví dụ: Đối với bài học nói trên, việc kiểm tra, đánh giá như sau: - Đánh giá bằng nhận xét: Với tiến trình dạy học như trên, chúng ta có thể hình dung các hoạt động học của học sinh được diễn ra trong 3 tuần với 3 tiết học trên lớp. Thông qua quan sát, trao đổi và các sản phẩm học tập của học sinh, giáo viên có thể nhận xét, đánh giá được sự tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh trong học tập - Đánh giá kết quả học tập của học sinh: Căn cứ vào các mức độ yêu cầu của câu hỏi, bài tập được mô tả trong bảng trên, giáo viên có thể xây dựng các câu hỏi, bài tập tương ứng để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh. Căn cứ vào mức độ phát triển năng lực của học sinh ở từng học kỳ và từng khối lớp, giáo viên và nhà trường xác định tỷ lệ các câu hỏi, bài tập theo 4 mức độ yêu cầu trong các bài kiểm tra trên nguyên tắc đảm bảo sự phù hợp với đối tượng học sinh. e) Bước 6: Thiết kế tiến trình dạy học Thiết kế tiến trình dạy học chủ đề thành các hoạt động học được tổ chức cho học sinh có thể thực hiện ở trên lớp và ở nhà, mỗi tiết học trên lớp có thể chỉ thực hiện một số hoạt động trong tiến trình sư phạm của phương pháp và kĩ thuật dạy học được sử dụng. Trong chuỗi hoạt động học, đặc biệt quan tâm xây dựng tình huống xuất phát. - Tình huống xuất phát phải gần gũi với đời sống mà học sinh dễ cảm nhận và đã có ít nhiều những quan niệm ban đầu về chúng. - Việc xây dựng tình huống xuất phát cần phải chú ý tạo điều kiện cho học sinh có thể huy động được kiến thức ban đầu để giải quyết, qua đó hình thành 8/13 mâu thuẫn nhận thức, giúp học sinh phát hiện được vấn đề, đề xuất được các giải pháp nhằm giải quyết vấn đề. Tiếp theo tình huống xuất phát là các hoạt động học như: đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề; thực hiện giải pháp để giải quyết vấn đề; báo cáo, thảo luận; kết luận, nhận định, hợp thức hóa kiến thức... 3.3. Tổ chức hoạt động học theo định hướng phát triển năng lực HS * Hoạt động cá nhân - Là hoạt động yêu cầu học sinh thực hiện các bài tập/nhiệm vụ một cách độc lập. Loại hoạt động này nhằm tăng cường khả năng làm việc độc lập của học sinh. Nó diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là với các bài tập/nhiệm vụ có yêu cầu khám phá, sáng tạo hoặc rèn luyện đặc thù. Giáo viên cần đặc biệt coi trọng hoạt động cá nhân vì nếu thiếu nó, nhận thức của học sinh sẽ không đạt tới mức độ sâu sắc và chắc chắn cần thiết, cũng như các kĩ năng sẽ không được rèn luyện một cách tập trung. - Lưu ý: GV phải bao quát được việc học của HS cả lớp và hỗ trợ HS kịp thời, cần ưu tiên giúp đỡ cho HS yếu, kém. GV cần nói nhỏ khi hướng dẫn cho cá nhân HS và nhẹ nhàng khi di chuyển trong lớp. * Hoạt động theo cặp đôi - Là những hoạt động nhằm giúp học sinh phát triển năng lực hợp tác, tăng cường sự chia sẻ và tính cộng đồng. Thông thường, hình thức hoạt động cặp đôi được sử dụng trong những trường hợp các bài tập/ nhiệm vụ cần sự chia sẻ, hợp tác trong nhóm nhỏ gồm 2 em. Ví dụ: kể cho nhau nghe, nói với nhau một nội dung nào đó, đổi bài cho nhau để đánh giá chéo, - Tùy theo hoạt động học tập, có lúc học sinh sẽ làm việc theo cặp trong nhóm. Giáo viên lưu ý cách chia nhóm sao cho không học sinh nào bị lẻ khi hoạt động theo cặp. Nếu không, giáo viên phải cho đan chéo giữa các nhóm để đảm bảo tất cả học sinh đều được làm việc. Làm việc theo cặp rất phù hợp với các công việc như: kiểm tra dữ liệu, giải thích, chia sẻ thông tin; thực hành kĩ năng giao tiếp cơ bản (ví dụ như nghe, đặt câu hỏi, làm rõ một vấn đề), đóng vai. Làm việc theo cặp sẽ giúp học sinh tự tin và tập trung tốt vào công việc nhóm. Quy mô nhỏ này cũng là nền tảng cho sự chia sẻ và hợp tác trong nhóm lớn hơn sau này. * Hoạt động theo nhóm - Nhóm là hình thức học tập phát huy rất tốt khả năng sáng tạo nên hình thức này dễ phù hợp với các hoạt động cần thu thập ý kiến và phát huy sự sáng 9/13 tạo. Điều quan trọng là học sinh cần phải biết mình làm gì và làm như thế nào khi tham gia làm việc nhóm. - Khi tổ chức cho HS học nhóm, GV cần nhận thức và hướng dẫn đúng nhiệm vụ của các thành viên trong hoạt động nhóm và vai trò của GV đối với việc tổ chức cho HS học nhóm. Để tránh việc tổ chức hoạt động nhóm mang tính hình thức. Trong khi thảo luận nhóm, cần phân rõ vai trò của cá nhân, nhóm trưởng, thư kí nhóm và giáo viên. Cụ thể là: + Cá nhân: tự đọc, suy nghĩ, giải quyết nhiệm vụ, có thể hỏi các bạn trong nhóm về những điều mình chưa hiểu; khi các bạn cũng gặp khó khăn như mình thì yêu cầu sự trợ giúp của giáo viên; thực hiện các yêu cầu của nhóm trưởng và yêu cầu của giáo viên. + Nhóm trưởng: thực hiện các nhiệm vụ của cá nhân như những bạn khác; bao quát nhóm xem các bạn có khó khăn gì không; phân công các bạn giúp đỡ nhau; tổ chức cho cả nhóm thảo luận những vấn đề khó khăn; thay mặt nhóm để liên hệ với giáo viên và xin trợ giúp; báo cáo tiến trình học tập nhóm; điều hành chốt kiến thức trong nhóm. Giáo viên lưu ý phân công học sinh luân phiên nhau làm nhóm trưởng. + Thư kí của nhóm: thực hiện các nhiệm vụ của cá nhân như các bạn khác; là người ghi chép hoặc vẽ lại những nội dung trao đổi hoặc kết quả công việc của nhóm. Việc ghi chép này giúp nhóm tổng hợp công việc mình đã thực hiện, trao đổi với các nhóm khác hoặc chia sẻ trước cả lớp. Để việc tổng hợp ý kiến, công việc của nhóm được thú vị và hấp dẫn. Giáo viên phân công học sinh luân phiên nhau làm thư kí. + Vai trò của giáo viên trong hoạt động nhóm Chọn luân phiên các nhóm trưởng, thư kí nhóm để giúp giáo viên triển khai các hoạt động học tập. Xác định và phân công nhiệm vụ cho các nhóm một cách cụ thể và rõ ràng. Đứng ở vị trí thuận lợi để dễ dàng quan sát các nhóm học sinh làm việc và có thể hỗ trợ kịp thời cho các nhóm. Không nên dành thời gian làm việc ở một nhóm quá lâu, đứng một chỗ ở khu vực bàn giáo viên. Giúp đỡ học sinh, gợi mở để học sinh phát huy tìm tòi kiến thức mới, hỗ trợ cho cả lớp, hướng dẫn học sinh báo cáo sản phẩm. Khi cần tạo tình huống để học tập, giáo viên có thể gọi học sinh còn yếu; khi cần biểu dương khích lệ học tập, giáo viên có thể gọi học sinh khá giỏi thay mặt nhóm để báo cáo; giao thêm nhiệm vụ cho những học sinh hoàn thành trước nhiệm vụ (giao thêm bài tập hoặc yêu cầu hướng dẫn các bạn khác...). 10/13 - GV cần hướng dẫn thực hiện đúng tiến trình hoạt động nhóm + Trước khi tham gia phối hợp với bạn học trong nhóm, cá nhân luôn có một khoảng thời gian với các hoạt động để tự lĩnh hội kiến thức, chuẩn bị cho các hoạt động thảo luận trong nhóm. Cá nhân làm việc độc lập trong nhóm, nhưng vẫn có thể tranh thủ hỏi hay trả lời bạn trong nhóm, vẫn thực hiện các yêu cầu của của nhóm trưởng (nếu có) để phục vụ cho các hoạt động nhóm. - Khi HS chưa quen tự động tạo nhóm, GV hướng dẫn tạo nhóm theo dãy bàn. Có thể cho HS xếp bàn trên, bàn dưới ghép với nhau để từ 4 đến 6 HS ngồi quay mặt vào nhau. Không nên xếp nhóm quá dài theo chiều ngang hoặc dọc, HS sẽ khó giao tiếp với nhau. Nếu nhóm làm việc ít hiệu quả, nên bố trí lại nhóm để HS có thể giao tiếp thuận lợi và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Mỗi nhóm cần bầu nhóm trưởng, thư kí, một số em có nhiệm vụ chuẩn bị nguồn tư liệu, ghi chép, theo dõi thời gian, Các nhóm cùng đồng thời làm việc nên HS cần giữ trật tự, không nói quá to, không chạy đi, chạy lại trong lớp khi không cần thiết (như đi lấy nguồn tài liệu, lấy thiết bị dạy học cho nhóm,). Nhóm trưởng đề nghị một vài bạn nêu lại yêu cầu để tất cả các thành viên trong nhóm nhận biết được nhiệm vụ chung của nhóm. Các việc làm cần tuần tự thực hiện: + HS đọc thầm yêu cầu. + Các thành viên trong nhóm suy nghĩ cá nhân hoặc có thể chia sẻ với bạn bên cạnh theo yêu cầu của hoạt động. + Nhóm trưởng mời lần lượt các thành viên hoặc một vài bạn trong nhóm chia sẻ hoặc đưa ra ý kiến. GV lưu ý để nhóm trưởng dành thời gian cho các bạn giải quyết nhiệm vụ. Sau khoảng thời gian nhất định, nếu bạn nào muốn trình bày, nhóm trưởng nên mời lên đầu tiên. + Thống nhất kết quả hoạt động của nhóm. Nhóm trưởng có nhiệm vụ tổ chức tập hợp ý kiến các thành viên để có thể cử đại diện nhóm trình bày kết quả của nhóm trước lớp. + Báo cáo kết quả với thày/cô giáo hoặc trao đổi với nhóm bạn bên cạnh. GV nên tạo điều kiện để đại diện nhóm trình bày kết quả. Có thể để 1 nhóm trình bày, các nhóm khác bổ sung, bình luận. GV chú ý tổng hợp kết quả của HS để cuối cùng có thể chốt lại những nội dung cơ bản của bài học. GV nên yêu cầu HS nêu lại kết quả cuối cùng đó. GV không nên tự chốt lại kết qủa do HS thực hiện. Nếu GV thấy HS không lúng túng, thắc mắc về kết quả làm việc của nhóm thì nên để các nhóm trao đổi kết quả với nhau trước khi chọn một nhóm đại diện báo cáo mang tính chốt vấn đề được tìm hiểu, giải quyết trước lớp. 11/13 Lưu ý: Vai trò của nhóm trưởng là quan trọng. Vì vậy, GV cần hình thành kĩ năng điều khiển nhóm cho các em HS và tạo cơ hội để mọi HS đều có thể làm nhóm trưởng. *Hoạt động cả lớp - Khi học sinh có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh một vấn đề hoặc có những khó khăn mà nhiều học sinh không thể vượt qua, giáo viên có thể dừng công việc của các cá nhân, cặp, nhóm lại để tập trung cả lớp làm sáng tỏ các vấn đề còn băn khoăn hoặc bàn cãi (Lưu ý rằng những tình huống như vậy không xuất hiện thường xuyên trong lớp học). - Hoạt động cả lớp còn được sử dụng trong tình huống GV nêu yêu cầu cho HS, hướng dẫn HS thực hiện nhiệm vụ, HS hoặc nhóm HS trình bày kết quả làm việc, GV đánh giá kết quả làm việc của HS, Cụ thể như sau: + GV hướng dẫn HS thực hiện yêu cầu, có thể là đọc đoạn văn, phân tích biểu đồ, liên hệ thực tiễn,. Từng cá nhân HS cần biết mình phải làm gì ở bước tiếp theo. + GV dành thời gian cho HS thực hiện yêu cầu. Trong lúc HS làm việc, GV quan sát thái độ HS. Nếu thấy HS còn lúng túng, GV cần hỗ trợ HS về nguồn tài liệu, về cách xử lý thông tin, cách ghi chép kết quả, + GV kiểm tra kết quả học tập của HS bằng cách yêu cầu HS trình bày trước lớp hoặc GV quan sát kết quả làm việc của các em (bản ghi chép, vẽ, bài tập được giải quyết,.). + GV chính xác hóa kiến thức, chỉnh lại kĩ năng. Nếu quan sát thấy HS chưa đạt được kết quả mong muốn, GV yêu cầu một vài em trình bày kết quả. GV cần nhận xét, chỉnh sửa những kết quả đó và yêu cầu các em khác so sánh với kết quả được chỉnh sửa để tự chỉnh sửa kết quả làm việc của mình. + GV mở rộng, nâng cao (nếu thấy cần thiết). Như vậy, việc lựa chọn hình thức làm việc nào: cá nhân, cặp đôi, nhóm hay cả lớp đều phụ thuộc vào yêu cầu của các loại hình hoạt động và luyện tập. Tài liệu Hướng dẫn học chỉ là một gợi ý cho việc tổ chức các hình thức hợp tác này, giáo viên cần lưu ý là không phải luôn tuân theo một cách máy móc thiết kế có sẵn của tài liệu. Tùy vào tình hình chung của cả lớp và thiết kế của cá
Tài liệu đính kèm: