- Thường ngày học sinh đa số ngại nói chuyện với nhau bằng Tiếng Anh.
Đặc biệt là học sinh khối lớp 10 khi mà kiếm thức về từ vựng của các em ở các lớp dưới vô cùng ít ỏi. các em lại là học sinh ở vùng sâu vùng xa chủ yếu là com em dân tộc ít có dịp tiếp xúc với các loại sách báo đặc biệt là sách báo Tiếng Anh . Các em cũng không có dịp được tiếp xúc với người nước ngoài để giao tiếp, tích lũy các kiến thức về Tiếng Anh. Nhiều em học sinh sau kết thúc năm học lớp 9 bước vào học lớp 10 ở trường phổ thông, các em không có những kiến thức cơ bản về môn tiếng Anh để đảm bảo kiến thức cho các em tiếp tục học chương trình tiếng Anh ở các lớp tiếp theo.
- Mặt khác, phần lớn học sinh không hiểu được tầm quan trọng của việc học từ vựng nên rất lười học hoặc học cho có để kiểm tra rồi không sử dụng được lâu. Qua thời gian giảng dạy tôi đã gặp không ít học sinh nhút nhát e ngại khi nói Tiếng Anh vì không biết cách phát âm, sợ nghe Tiếng Anh vì không nhận dạng được từ, còn các tiết đọc hiểu thì tra từ điển liên tục hoặc hỏi nghĩa của từ này đến từ khác, phần bài tập áp dụng ngữ pháp thì bắt chước câu mẫu hoặc đoán chừng đáp án chứ không làm được chính xác mặc dù vẫn hiểu được cách dùng của cấu trúc câu đó, những khó khăn này đã tạo nên sự chán nản, uể oải cho một số học sinh làm cho những tiết học thụ động, kém hiệu quả.
së gd&®t lµo cai Trêng THPT sè 2 huyÖn sa pa Họ và tên: Nguyễn Đức Hiển Chức vụ: Giáo viên Tổ chuyên môn: Ngoại ngữ - Sinh – TD - Tin Đơn vị: Trường THPT số 2 Sa Pa Sa Pa, ngày 10 tháng 5 năm 2014 MỤC LỤC 1. Đặt vấn đề (Lý do chọn đề tài) 2. Giải quyết vấn đề (Nội dung SKKN) 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề 2.2. Thực trạng của vấn đề 2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề a. Cách lựa chọn từ để dạy b. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới: c. Biện pháp tổ chức thực hiện: d. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới: 2.4. Hiệu quả của SKKN 3. Kết luận 1. Đặt vấn đề (Lý do chọn đề tài) a. Đặt vấn đề - Hiện nay, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ phổ biến trên toàn thế giới. Ở Việt Nam, tiếng anh được giảng dạy ở khắp các trường trong cả nước. Là giáo viên dạy bộ môn Tiếng Anh, chúng tôi luôn mong muốn học sinh của mình có thể hiểu bài một cách nhanh nhất, chủ động nhất, đặc biệt các em có thể vận dụng những kiến thức đã học vào giao tiếp thực tế. Muốn vậy, chúng ta cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy sao cho mỗi tiết lên lớp học sinh đều hứng thú học tập tích cực rèn luyện và nhớ được bài ngay tại lớp. - Chúng ta đều biết bất cứ một thứ tiếng nào trên thế giới, muốn giao tiếp được với nó, đòi hỏi chúng ta phải có một vốn từ bởi vì từ vựng là một thành phần không thể thiếu được trong ngôn ngữ. Trong tiếng Anh chúng ta không thể rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết của học sinh mà không dựa vào nền tảng của từ vựng. - Mục đích cuối cùng của việc học ngoại ngữ là giao tiếp. Để giao tiếp tốt trước hết đòi hỏi ở học sinh có vốn từ vựng nhất định, vốn từ vựng càng nhiều giúp học sinh càng hiểu ngôn ngữ giao tiếp nhanh chóng và có hiệu quả. - Hơn thế nữa với đặc thù hơn 90% học sinh là người dân tộc thiểu số, ngay từ nhỏ các em sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình trong giao tiếp. Khi đi học các em mới bắt đầu học tiếng Việt và hình thành cách giao tiếp( nghe, nói, đọc, viết ) bằng Tiếng Việt. Vì vậy việc học thêm một ngôn ngữ khác là rất khó khăn đối với các em. Một số học sinh khi bắt đầu vào học lớp 10 các em có những vốn kiến thức về từ vựng Tiếng anh vô cùng ít ỏi, gây khó khăn trong quá trình học tập môn tiếng anh đối với các em. - Việc phát triển các kiến thức từ vựng cho học sinh khối 10 rất quan trọng cho quá trình học tập, tích lũy các kiến thức sau này, là tiền đề cho các em tiếp tục nghiên cứu, học tập Tiếng Anh ở lớp 11, 12. - Do vậy, giúp học sinh nắm vững các từ đã học để vận dụng vào việc rèn luyện các kỹ năng là việc làm rất quan trọng khiến tôi quyết định thực hiện đề tài “ Cách thức dạy từ vựng cho học sinh lớp 10” . b. Đối tượng nghiên cứu: - Các tiết học môn Tiếng Anh 10 - Học sinh lớp 10, Trường THPT số 2 Sa Pa c. Phạm vi nghiên cứu : Do thời gian và điều kiện giảng dạy nên đề tài này tôi chỉ áp dụng giảng dạy cho các học sinh lớp 10A1, 10A2 ở Trường THPT số 2 Sa Pa d. Phương pháp nghiên cứu : - Tham khảo sách giáo viên, sách bồi dưỡng thường xuyên và các loại tài liệu tham khảo khác. - Kết hợp dự giờ, thực nghiệm, kiểm tra đối chiếu các kết quả học tập của học sinh, hầu rút ra được phương pháp dạy tốt nhất cho các em. 2. Giải quyết vấn đề 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề - Tiếng Anh là một ngôn ngữ thông dụng trên quốc tế và nó đã được đưa vào chương trình giảng dạy, trở thành một trong những bộ môn chính khóa ở các bậc học phổ thông. Để dạy tốt môn Tiếng Anh, mỗi một giáo viên đứng lớp luôn phải thực hiện tốt công tác bồi dưỡng và tự bồi dưỡng thường xuyên, nghiên cứu, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, khoa học và phù hợp với từng đối tượng học sinh. - Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục hiện nay đang tập trung hướng vào việc phát triển tính năng động, sáng tạo, tích cực của học sinh trong hoạt động học tập nhằm tạo khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề cho học sinh. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học là giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. - Dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện năng lực giao tiếp cần có môi trường với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trường này chủ yếu do giáo viên tạo ra dưới dạng những tình huống giao tiếp và học sinh phải tìm cách ứng xử bằng ngoại ngữ cho phù hợp với tình huống giao tiếp cụ thể. - Mục đích cuối cùng của việc học ngoại ngữ là giao tiếp. Để giao tiếp tốt trước hết đòi hỏi ở học sinh có vốn từ vựng nhất định, vốn từ vựng càng nhiều giúp học sinh càng hiểu ngôn ngữ giao tiếp nhanh chống và có hiệu quả. - Với mục đích dạy tốt môn Tiếng Anh và giúp cho học sinh khắc phục được những khó khăn trong việc học từ mới và học từ mới có hiệu quả. Tôi đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu viết về phương pháp cộng với những trải nghiệm trong quá trình giảng dạy. Tôi đã rút ra được một vài kinh nghiệm trong việc gây hứng thú cho học sinh học Tiếng Anh qua các giờ dạy. Đây là kinh nghiệm mà tôi tâm đắc nhất và tôi đã chọn nó để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm cho mình. 2.2. Thực trạng của vấn đề - Thường ngày học sinh đa số ngại nói chuyện với nhau bằng Tiếng Anh. Đặc biệt là học sinh khối lớp 10 khi mà kiếm thức về từ vựng của các em ở các lớp dưới vô cùng ít ỏi. các em lại là học sinh ở vùng sâu vùng xa chủ yếu là com em dân tộc ít có dịp tiếp xúc với các loại sách báo đặc biệt là sách báo Tiếng Anh . Các em cũng không có dịp được tiếp xúc với người nước ngoài để giao tiếp, tích lũy các kiến thức về Tiếng Anh. Nhiều em học sinh sau kết thúc năm học lớp 9 bước vào học lớp 10 ở trường phổ thông, các em không có những kiến thức cơ bản về môn tiếng Anh để đảm bảo kiến thức cho các em tiếp tục học chương trình tiếng Anh ở các lớp tiếp theo. - Mặt khác, phần lớn học sinh không hiểu được tầm quan trọng của việc học từ vựng nên rất lười học hoặc học cho có để kiểm tra rồi không sử dụng được lâu. Qua thời gian giảng dạy tôi đã gặp không ít học sinh nhút nhát e ngại khi nói Tiếng Anh vì không biết cách phát âm, sợ nghe Tiếng Anh vì không nhận dạng được từ, còn các tiết đọc hiểu thì tra từ điển liên tục hoặc hỏi nghĩa của từ này đến từ khác, phần bài tập áp dụng ngữ pháp thì bắt chước câu mẫu hoặc đoán chừng đáp án chứ không làm được chính xác mặc dù vẫn hiểu được cách dùng của cấu trúc câu đó, những khó khăn này đã tạo nên sự chán nản, uể oải cho một số học sinh làm cho những tiết học thụ động, kém hiệu quả. - Hơn nữa, nhu cầu không thể thiếu được của học Tiếng Anh là để vận dụng vào giao tiếp, nhưng người học không có vốn từ vựng cao sẽ gặp nhiều khó khăn trong vấn đề này. 2.3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề a. Cách lựa chọn từ để dạy: - Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú. - Ở môi trường phổ thông hiện nay, khi nói đến ngữ liệu môi là chủ yếu nói đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng là ngữ pháp luôn có mối quan hệ khắng khích với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề: + Từ chủ động (active vocabulary) + Từ bị động (passive vocabulary) - Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến bốn kỹ năng (nghe - nói - đọc - viết). Đối với loại từ này giáo viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn. Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. - Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là: + Form. + Meaning. + Use. - Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ. - Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ. - Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau: + Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ? + Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ? - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó phải dạy cho học sinh. - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay. - Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì nên yêu cầu học sinh đoán. b. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới: Giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới, giúp các em học sinh tiếp thu từ một cách chủ động như: * Visual (nhìn) : - Cho học sinh nhìn tranh ảnh hoặc vẽ phác hoạ cho các em nhìn, giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng. Ví dụ : Lesson 18( Tiếng anh hệ 3 năm) : I’m hungry, mum! Để dạy các từ như: milk, sugar, potato, banana giáo viên nên sưu tầm tranh ảnh thực tế để minh họa cho bài giảng của mình. banana sugar Potato milk * Mine (điệu bộ): - Thể hiện qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ. Ví dụ : Lesson 19: On a farm Để dạy từ “to read Teacher takes a book then read, then T asks Sts: “ What am I doing ?” Sts: You are reading a book * Realia (vật thật) - Dùng những dụng cụ trực quan mà thực tế có được. Ví dụ : Lesson 5 : My School - Để dạy các từ như : pen, pencil, book, key.giáo viên nên sưu tầm vật thật để minh họa cho bài giảng của mình . Pen pencil Key book * Situation / Explanation: - Dùng tình huống và giải thích để học sinh nắm bắt từ mới một cách hiệu quả. Ví dụ : Để dạy từ “honest”, giáo viên có thể đưa ra một vài tình huống để học sinh tự đoán nghĩa. T. explains, “I don’t tell lies. I don’t cheat in the exams. I tell the truth.” T. asks, “What am I? Tell me the word in Vietnamese.” * Synonym / antonym:( từ đồng nghĩa / trái nghĩa) - Giáo viên dùng những từ đã học rồi có nghĩa tương đương để giúp học sinh nhận biết nghĩa cuả từ sắp được học. Ví dụ : Lesson 9 : I’m bored Để dạy từ “old, intelligent, expensive “giáo viên có thể yêu cầu học sinh tự đoán nghĩa thông qua từ đã học trước đó. - intelligent: T. asks “What’s another word for clever?” Sts answer “ intelligent” - expensive: T. asks “What’s opposite of cheap? ” Sts answer “expensive”. T. asks “What’s opposite of new? ” Sts answer “old”. * Translation (dịch): - Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để cung cấp nghĩa từ trong tiếng Anh. Ví dụ : Lesson 11: David’s house Để dạy các từ “house, flat” giáo viên giáo viên có thể hỏi học sinh : - How do you say “house” in Vietnamese ? - How do you say “ căn hộ” in English ? * True or False statements: - Giáo viên cung cấp một số câu và yêu cầu học sinh chọn lựa câu trả lời đúng nhất có liên quan đến từ sắp được học. Ví dụ : Lesson 5: My school Để dạy từ “teacher” giáo viên có thể đưa ra một số câu để học sinh chọn lựa như: - A teacher teaches the children.. - A teacher takes care of our teeth. - A teacher works in a factory. Học sinh sẽ chọn phương án thứ nhất. c. Biện pháp tổ chức thực hiện: * Các bước tiến hành giới thiệu từ mới: Để giới thiệu từ mới, giáo viên dạy cho học sinh theo bốn kỹ năng : + Nghe: Giáo viên đọc mẫu, học sinh lắng nghe. + Nói: Giáo viên đọc từ, học sinh đọc lại. + Đọc: Giáo viên viết từ lên bảng, học sinh đọc từ bằng mắt, bằng miệng. + Viết: Học sinh viết từ vào vở. * Các bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ đề: - Đây là bước khá quan trọng trong việc dạy từ vựng. Bước này sẽ quyết định sự thành công của tiết học, nó sẽ gợi mở cho học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm vừa mới được giới thiệu. Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự: nghe, nói, đọc, viết. - Bước 1: “nghe” cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu. - Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần giáo viên mới yêu cầu học sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại , giáo viên cần chú ý cho cả lớp nhắc lại trước, sau đó mới gọi cá nhân. - Bước 3: “đọc”, giáo viên viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để đọc. Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một chừng mực mà bạn cho là đạt yêu cầu. - Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi giáo viên mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở. - Bước 5: hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không và yêu cầu một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt. - Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm tiết có trọng âm và đánh dấu. - Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học. d. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới: Chúng ta biết rằng chỉ giới thiệu từ mới thôi chưa đủ, mà chúng ta còn phải thực hiện các bước kiểm tra và củng cố từ mới ngay tại lớp. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố sẽ khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. * Hangman , Shark attact : - Giáo viên gợi ý số chữ của từ cần đoán bằng số gạch ngắn trên bảng. ( _ _ _ _ _ _ _ ) : Mỗi chỗ gạch ngang biểu thị cho một chữ cái - Yêu cầu học sinh đoán các chữ có trong từ.(Đọc các chữ cái theo cách đọc bảng chữ cái tiếng Anh) - Nếu học sinh đoán sai , giáo viên gạch một gạch (theo thứ tự trong hình vẽ “Hangman”), hoặc bước xuống một bậc “Shark attact” - Học sinh đoán sai 5 lần thì bị thua, sau đó giáo viên giải đáp từ. * Slap the board : - Giáo viên viết một số từ mới hoặc dán tranh lên bảng. - Gọi 2 nhóm học sinh lên bảng (mỗi nhóm từ 2 đến 4 học sinh) - Yêu cầu 2 nhóm đứng cách bảng một khoảng cách bằng nhau. - Giáo viên hô to từ tiếng Việt nếu trên bảng là từ tiếng Anh và ngược lại. - Lần lượt học sinh ở 2 nhóm chạy lên bảng và vỗ vào từ mà cô giáo vừa đọc. - Nhóm nào vỗ được nhiều từ hơn ( ghi được nhiều điểm hơn) thì thắng. * Rub out and remember : - Giáo viên viết từ mới hoặc dán tranh lên bảng, cho học sinh đọc vài lần để ghi nhớ. - Xoá dần từng từ tiếng Anh và yêu cầu học sinh nhìn từ tiếng việt để đọc lại các từ bị xoá. - Khi các từ đã bị xoá hết, yêu cầu học sinh lên viết lại. * Bingo : - Giáo viên chuẩn bị một dãy số hoặc từ vựng. - Yêu cầu học sinh vẽ một bảng gồm 9 ô vuông. - Học sinh tự viết vào 9 ô vuông 9 con số hoặc 9 từ bất kỳ. - Giáo viên đọc to lần lượt các con số hoặc từ trong dãy số, tữ vựng mà mình đã chuẩn bị sẵn. - Học sinh lắng nghe và đánh dấu vào ô có con số, từ mà giáo viên vừa đọc. - Học sinh nào có 3 ô liên tiếp ở hàng ngang, dọc hoặc chéo thì hô lớn : BINGO, học sinh nào hô BINGO trước sẽ thắng. * Jumbled letters: - Để kiểm tra mức độ nhớ từ của học sinh giáo viên viết một số từ là các chữ cái đã bị xáo trộn lên bảng.(có thể chuẩn bị sẵn trên bìa) - Chia học sinh làm 2 nhóm chơi để tính điểm. - Từng em đại diện nhóm lên sắp xếp lại các chữ cái để tạo thành từ có nghĩa. - Nhóm nào sắp xếp được nhiều từ hơn sẽ thắng. * Wordsquare : - Giáo viên viết ô chữ lên bảng hoặc chuẩn bị sẵn lên bìa. - Nêu chủ điểm của các từ và số lượng từ cần tìm trong ô chữ. - Chia lớp thành 2 nhóm. Mỗi nhóm cử đại diện lên bảng khoanh tròn các từ đã tìm thấy( theo hàng dọc, ngang, chéo) - Nhóm nào tìm được nhiều từ hơn sẽ thắng. * Brainstorming, Networks : - Giáo viên viết chủ đề từ vựng lên bảng. - Chia lớp thành 2 nhóm. Mỗi nhóm có khoảng 2 phút chuẩn bị để liệt kê các từ liên quan đến chủ điểm của nhóm. -Mỗi nhóm cử đại diện luân phiên nhau lên bảng viết từ theo chủ điểm của nhóm mình. - Nhóm nào viết được nhiều từ hơn và nhanh hơn sẽ thắng. * Matching: - Giáo viên viết các từ mới hoặc từ muốn ôn lại cho học sinh thành cột. Cột khác viết ý nghĩa, từ tiếng Việt , hoặc vẽ thành một cột khác không theo thứ tự của các từ ở cột kia. - Yêu cầu học sinh nối các từ tương ứng ở 2 cột với nhau.( có thể ghép từ với tranh) - Sau đó giáo viên kiểm tra lại kết quả của học sinh. 2.4. Hiệu quả của SKKN Qua quá trình áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh ngày càng có nhiều tiến bộ về học tập: - Học sinh có hứng thú và tích cực hơn trong các hoạt động. - Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. - Học sinh hầu như đã thuộc gần hết các từ mới ngay tại lớp học. - Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt. - Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn. Sau đây là bảng thống kê chất lượng học tập cuả học sinh ở lớp áp dụng đề tài và lớp học không áp dụng đề tài: Lớp Học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu 10A1 31 2 12 8 7 10A2 25 2 6 7 8 10A3 28 1 5 10 12 Với kết quả cụ thể trên chúng ta đều thấy rằng chất lượng học tập của học sinh ở lớp 10A1 va lớp 10A2 hơn hẳn so với lớp còn lại. Điều đó cho thấy đề tài mà tôi đang nghiên cứu phần nào đã mang lại hiệu quả trong quá trình giảng dạy thực tế . 3. Kết luận - Trên đây là phương pháp dạy học cùng với thực tế giảng dạy của bản thân tôi. Tôi nhận thấy rằng trong quá trình dạy học, giáo viên cần cố gắng áp dụng các phương pháp một cách linh hoạt sao cho phù hợp với nội dung bài và phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần khéo léo sử dụng các thủ thuật sư phạm nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh và giúp cho các em học tập có kết quả. - Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình. - Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh chỉ học qua loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều nên giáo viên cần khuyến khích và hướng các em tích cực tham gia vào quá trình học tập. - Để các em học sinh có thể lĩnh hội kiến thức của bào học một cách tốt nhất ngoài những yếu tố ngoại cảnh như chương trình, thời gian, trình độ của học sinh, khả năng chuyên môn của giáo viên. Điều quan trọng nhất là phương thức tổ chức của giáo viên trong một tiết dạy. - Để hưởng ứng phong trào đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông, với tư cách là một giáo viên dạy bộ môn ngoại ngữ tôi rất mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình cùng với các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp xây dựng phương pháp dạy học mới ngày càng chuẩn mực, có hiệu quả hơn giúp cho các em học sinh ngày càng thích học ngoại ngữ, có thể học tập chủ động, giao tiếp tự tin bằng chính khả năng của mình. Sa Pa, ngày 10 tháng 5 năm 2014 Xác nhận của lãnh đạo đơn vị: Bùi Văn Huân Người viết sáng kiến kinh nghiệm: Nguyễn Đức Hiển TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo viên Tiếng Anh 10 ( hệ 3 năm) - Nhà xuất bản Giáo dục 2. Phương pháp dạy học môn Tiếng Anh 3. Techniqiues in Teaching Vocabulary 4. Sổ tay người dạy Tiếng Anh ( Tác giả: Pahn Hà, Tứ Anh, Mai Vi Phương, Hồ Tấn)
Tài liệu đính kèm: