Khi quan sát ta cần phối hợp các giác quan như tai nghe, mũi ngửi, tay sờ, da cảm nhận và cả cảm xúc của bản thân nữa.
+ Khi quan sát ta phải xác định một trình tự phù hợp với cảnh được tả. Quan sát từ trên xuống hay từ dưới lên, Quan sát từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong.
+ Mỗi bộ phận của cảnh chỉ nên chọn tả những nét tiêu biểu nhất đồng thời phải xác định đâu là cảnh chủ yếu để tập trung miêu tả.
+ Khi quan sát, giáo viên hướng dẫn học sinh chú ý đến đường nét, màu sắc của cảnh vật và ảnh hưởng của vật thể này đối với vật thể khác.
Ví dụ: Qua câu văn sau, các em sẽ thấy tác động của ánh trăng lên các vật: Ánh trăng phủ lên mọi vật một lớp màng mỏng tanh, lạnh mát và xuyên qua kẽ lá, đổ loang lổ xuống mặt sông.
+ Mỗi vật lại gắn với đặc điểm thiên nhiên, khí hậu, cây cỏ, hoa trái. của từng vùng nên khi tả ta phải làm toát lên màu sắc riêng biệt đó.
* Hướng dẫn học sinh ghi chép
+ Quan sát luôn đi liền ghi chép. Ghi chép làm giàu thêm cho trí nhớ, ghi chép giúp học sinh lựa chọn những chi tiết, những hình ảnh đặc sắc.Vậy thì phải ghi chép thế nào? Cần phải xây dựng cho học sinh thói quen ghi chép khi quan sát. Phải ghi được những đặc điểm cơ bản: hình dáng, màu sắc, hoạt động, của đối tượng, hãy cố tìm và viết được những điều mà người khác không nhìn thấy để bài viết của mình có cái mới, cái riêng, cái độc đáo
a các em còn nhiều hạn chế - đặc biệt là các em chưa biết cách dùng các biện pháp so sánh, nhân hoá để miêu tả mà đa số các em “nghĩ sao thì viết vậy” Có dùng thì nhiều hình ảnh cũng chưa phù hợp. Vì vậy, trong mỗi giờ Tập làm văn giáo viên cần thực hiện tốt các yêu cầu này. - Ở lớp 5, để viết bài văn tả cảnh, học sinh thường trải qua các khâu cơ bản là: + Tìm hiểu cấu tạo của bài văn tả cảnh. + Phân tích các bài văn mẫu. + Quan sát, lập dàn ý chi tiết. + Viết từng đoạn văn + Viết thành bài văn hoàn chỉnh. + Học tập, rút kinh nghiệm qua giờ trả bài. Để tiến hành mỗi hoạt động trong từng tiết học có hiệu quả, tôi thường hướng dẫn học sinh lần lượt giải quyết các yêu cầu sau: 3.2.1. Hướng dẫn tìm hiểu cấu tạo của bài văn tả cảnh. - Muốn dạy học sinh làm văn tả cảnh đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế nào là văn tả cảnh, đặc điểm thể loại văn tả cảnh, biết yếu tố nào là quan trọng và cần thiết để giúp học sinh làm được bài văn tả cảnh sinh động thông qua quan sát đối tượng miêu tả và tìm hiểu các bài văn mẫu trong sách giáo khoa lớp 5 rồi thực hiện các bước sau: + Rèn kĩ năng cho học sinh cảm thụ cái hay của một đoạn văn hay một bài văn mẫu thông qua việc đọc bài văn thật hay( GV hoặc HS đọc tốt trong lớp). + Giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu cấu tạo của bài văn tả cảnh. Ví dụ : Khi tìm hiểu bài: Cấu tạo của bài văn tả cảnh. - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài: “Hoàng hôn trên sông Hương” - Phân tích bài văn bằng hệ thống câu hỏi để khai thác nội dung bài. + Bài văn có mấy đoạn? ( 4 đoạn gồm một đoạn mở bài, hai đoạn thân bài và một đoạn kết bài) + Tìm phần mở bài, thân bài, kết bài và cho biết nội dung chính của từng đoạn. + Phần mở bài và kết bài tác giả viết theo cách nào? Vì sao? + Phần thân bài có mấy đoạn? Mỗi đoạn tác giả tả về cảnh vật nào? Tác giả quan sát sự vật đó vào thời gian nào, bằng giác quan nào? Khi tả sự vật đó tác giả đã sử dụng các từ ngữ nào? - Sau khi học sinh đã phân tích câu hỏi giáo viên có thể hướng dẫn các em tìm hiểu cấu tạo bài văn như sau: + Mở bài: (Cuối buổi chiều...yên tĩnh này): Cảnh hoàng hôn đang lắng xuống trên thành phố Huế yên tĩnh. + Thân bài: (Mùa thu.....chấm dứt) Xác định trong phần thân bài gồm có mấy đoạn, mỗi đoạn miêu tả những gì. (2 đoạn) Đoạn 1: Những biến đổi về màu sắc của sông Hương từ cuối buổi chiều đến lúc tối hẳn. Đoạn 2: Sinh hoạt của xóm Cồn Hến, của dân chài trên sông Hương và cảnh thành phố khi mới lên đèn. + Kết bài: (Huế thức dậy...ban đầu của nó): Huế đi vào cuộc sống buổi tối. Sau đó giáo viên cho học sinh đọc lại hai bài “Hoàng hôn trên sông Hương” và bài “ Quang cảnh làng mạc ngày mùa” nêu điểm giống nhau và khác nhau giữa hai bài: - Điểm giống nhau: + Cả hai bài đều là văn tả cảnh. + Có cấu tạo gồm 3 phần: mở bài, thân bài và kết bài. + Đều quan sát sự vật tinh tế, cách miêu tả giàu hình ảnh, có những cảm xúc sâu lắng... - Những điểm khác nhau: + Bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” chủ yếu miêu tả theo trình tự không gian: tả từng bộ phận của cảnh như màu trời, màu nắng, màu lúa, màu các loại cây trong vườn... + Bài “Hoàng hôn trên sông Hương” chủ yếu là miêu tả cảnh vật theo trình tự thời gian. - Từ việc phân biệt những điểm giống nhau và khác nhau của hai bài văn tả cảnh đã nêu, giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra nhận xét về cấu tạo của bài văn tả cảnh nói chung như sau: + Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả + Thân bài: Tả từng phần của cảnh hoặc sự biến đối của cảnh theo thời gian hoặc kết hợp cả không gian và thời gian. + Kết bài: Nêu lên nhận xét, cảm nghĩ của người viết hoặc kết thúc một cách tự nhiên. 3.2.2. Hướng dẫn tìm hiểu các bài văn tả cảnh sách giáo khoa a) Phân tích các bài văn mẫu. Sau khi học sinh hiểu được cấu tạo của bài văn giáo viên hướng dẫn các em cách chọn các sự vật và miêu tả sự vật. Ví dụ : Bài “Luyện tập tả cảnh” Sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 14. - Với bài này tôi tiến hành như sau: + Cho học sinh đọc bài văn “Buổi sớm trên cánh đồng”. + Tiếp đó hướng dẫn các em trả lời những câu hỏi đã nêu trong bài tập: - Tác giả đã tả những sự vật nào trong buổi sớm mùa thu? + Những sự vật trong buổi sớm mùa thu được tác giả miêu tả là: mây xám đục; vòm trời xanh vòi vọi; vài giọt mưa loáng thoáng rơi; những sợi cỏ thẫm nước; người trong làng gánh lên phố những gánh rau, gánh hoa; bầy sáo cánh đen mỏ vàng chấp chới liệng trên đồng lúa mùa thu đang kết đòng... - Tác giả đã quan sát sự vật bằng những giác quan nào ? + Cảm giác của da ( xúc giác): thấy sớm đầu thu mát lạnh, những sợi cỏ đẫm nước làm mát lạnh bàn chân. + Mắt (thị giác): thấy mây xám đục, vòm trời xanh vòi vọi, mưa loáng thoáng rơi, người gánh rau và hoa, bầy sáo liệng, mặt trời mọc... - Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả. + Một vài giọt mưa loáng thoáng rơi trên chiếc khăn quàng đỏ và mái tóc xoã ngang vai của Thuỷ; những sợi cỏ đẫm nước lùa vào dép Thuỷ làm bàn chân nhỏ bé của em ướt lạnh. - Sau khi tìm hiểu xong bài văn, Giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh thấy nghệ thuật quan sát với sự chọn lọc chi tiết và từ ngữ tả cảnh của tác giả bài văn. Sau khi học sinh chọn được các sự vật cần tả trong bài giáo viên hướng dẫn các em cách miêu tả các sự vật ấy như thế nào cho phù hợp. * Ví dụ: Bài “Luyện tập tả cảnh”- sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 21. - Yêu cầu của bài này là học sinh phân tích 2 văn bản “Rừng trưa” và “Chiều tối” để thấy được những hình ảnh đẹp trong mỗi bài văn. - Cách tiến hành bài này là: + Cho học sinh đọc lần lượt từng bài văn. + Giáo viên giới thiệu tranh, ảnh về rừng tràm cho học sinh quan sát. + Cho học sinh nêu ý kiến về hình ảnh mà các em thích trong mỗi bài văn. Có thể yêu cầu các em nêu lí do vì sao mình thích hình ảnh đó. Chẳng hạn: Bài“Rừng trưa” Những thân cây tràm vỏ trắng vươn lên trời, chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, đầu lá rủ phất phơ; Mùi hương ngòn ngọt nhức đầu của những loài hoa rừng không tên tuổi đắm vào ánh nắng ban trưa khiến con người dễ sinh buồn ngủ và sẵn sàng ngả lưng dưới một bóng cây nào đó, để cho thứ cảm giác mệt mỏi chốn rừng trưa lơ mơ đưa mình vào giấc ngủ chẳng đợi chờ. Bài “Chiều tối” Bóng tối như bức màn mỏng, như thứ bụi xốp, mờ đen...; ánh đom đóm chấp chới, lúc lên cao, lúc xuống thấp, lúc lại rơi xuống mặt cỏ... - Giáo viên cần tôn trọng ý kiến của học sinh, đặc biệt khen ngợi những em tìm được những hình ảnh đẹp. - Sau cùng, giáo viên chốt lại các hình ảnh đẹp ở từng bài văn và hướng cho học sinh nên đưa các hình ảnh đẹp kết hợp sử dụng các biện pháp tu từ vào bài văn miêu tả. - Tương tự các bài văn mẫu trong sách giáo khoa giáo viên cũng hướng dẫn như trên. Từ đó các em sẽ nắm được cách quan sát và cách dùng từ đặt câu để viết thành đoạn văn, bài văn. Sau khi học sinh đã biết tìm sự vật và miêu tả sự vật giáo viên tiếp tục hướng dẫn học sinh cách tìm hiểu câu mở đoạn và tác dụng của câu mở đoạn trong bài văn tả cảnh. Ví dụ Dạy bài Luyện tập tả cảnh Sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 70. Qua bài học trên giúp học sinh hiểu được mối quan hệ về nội dung giữa các câu trong một đoạn văn và biết cách viết câu mở đoạn cho một đoạn văn. + Đọc bài văn “ Vịnh Hạ Long” và trả lời các câu hỏi để tìm hiểu bố cục và bài văn tả cảnh sông nước. - Xác định các phần mở bài, thân bài, kết bài của bài văn. + Mở bài: (Vịnh Hạ Long...Việt Nam) : Vị trí của Hạ Long trong hệ thống thắng cảnh của Việt Nam. + Thân bài (Cái đẹp...ngân lên vang vọng.) Miêu tả vẻ đẹp kì vĩ, duyên dáng, riêng biệt và hấp dẫn của vịnh Hạ Long. + Kết bài: (Núi non... mãi mãi giữ gìn): Hạ Long là một bộ phận của non sông Việt Nam được nhân dân ta từ đời nọ tiếp đời kia mãi mãi giữ gìn. - Giáo viên cần cho học sinh tìm câu mở đoạn, tìm từ ngữ chính của câu mở đoạn và phân tích ý triển khai của tác giả cho từng đoạn đó. Ví dụ: Đoạn 1 đâu là câu mở đoạn? Câu mở đoạn đó có tác dụng gì? + Cái đẹp của Hạ Long trước hết là sự kì vĩ của thiên nhiên. - Nêu tác dụng của câu mở đoạn. + Đối với từng đoạn, câu văn in đậm là câu mở đoạn, thâu tóm ý chính của từng đoạn văn đó + Đối với cả bài, các câu văn in đậm có tác dụng chuyển đoạn, kết nối đoạn với nhau tạo thành một hệ thống thâu tóm ý chính của từng bài. Tương tự đoạn 2 và đoạn 3 giáo viên cũng hướng dẫn như trên. b) Hướng dẫn học sinh quan sát và ghi chép. (Phần này giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện ở nhà ) * Hướng dẫn quan sát văn tả cảnh + Trong văn miêu tả, quan sát rất quan trọng. Việc quan sát và vị trí quan sát tốt, góc quan sát phù hợp: xa hay gần, trong hay ngoài, ban ngày hay ban đêm, mùa xuân hay mùa hạ, sẽ giúp ta nắm được cái đẹp của đối tượng, cảm nhận đối tượng một cách rõ ràng, cụ thể và tinh tế hơn. Quan sát đối tượng không chỉ bằng thị giác như các em vẫn nghĩ, mà phải biết huy động mọi giác quan: thính giác (nghe), khứu giác (ngửi), xúc giác (sờ, nắm), vị giác (nếm). Những đoạn văn hay và hấp dẫn là những thành công của tác giả trong việc dùng nhiều giác quan để quan sát. Sự vật trong tự nhiên, mỗi sự vật có một đặc điểm riêng, chỉ khi nào ta nắm được đặc điểm riêng đó của sự vật thì khi viết ra mới có hình ảnh như thật. Thế nhưng, chỉ làm nổi bật đặc điểm bên ngoài thôi chưa đủ, cần nêu được cái đặc sắc ẩn chứa bên trong sự vật đó để nói lên những suy tư, những tình cảm không chỉ của người viết gửi gắm vào đó mà còn là của sự vật đó. Muốn làm được điều này, dứt khoát phải có sự quan sát tinh tế và phải có được những phát hiện rất riêng về đối tượng và rung cảm với nó. + Bên cạnh đó, giáo viên cần nhắc các em quan sát phải đi đôi với việc tìm từ ngữ để diễn tả đúng và sinh động điều đã quan sát được. + Cân nhắc để lựa chọn được một thứ tự sắp xếp các chi tiết sẽ tả mà mình coi là thích hợp hơn cả. + Khi viết bài, giáo viên luôn nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài văn cần có bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công việc đầu tiên của tôi là yêu cầu học sinh tìm hiểu đề bài; học sinh đọc kĩ đề bài nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề chính trong đề bài. - Đề bài thuộc thể loại gì ? Đề bài yêu cầu tả gì ? + Giáo viên gạch chân bằng phấn màu dưới các từ ngữ quan trọng để học sinh chú ý. + Nếu đối tượng miêu tả không thực tế và gần gũi với học sinh (tả cảnh con sông, tả cảnh ở công viên, ) thì giáo viên cần giới thiệu một số tranh ảnh minh họa cho học sinh quan sát. - Khi quan sát cần hướng dẫn học sinh lưu ý những điểm sau: + Mỗi cảnh đều được xác định bởi một phạm vi không gian và thời gian nhất định + Sau khi xác định được đối tượng miêu tả với một phạm vi không gian và thời gian cụ thể, các em cần xác định được vị trí để quan sát. + Khi xác định được vị trí quan sát rồi, ta nên có cái nhìn bao quát toàn cảnh đồng thời phải biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng phần để quan sát. + Khi quan sát ta cần phối hợp các giác quan như tai nghe, mũi ngửi, tay sờ, da cảm nhận và cả cảm xúc của bản thân nữa. + Khi quan sát ta phải xác định một trình tự phù hợp với cảnh được tả. Quan sát từ trên xuống hay từ dưới lên, Quan sát từ phải sang trái hay từ ngoài vào trong... + Mỗi bộ phận của cảnh chỉ nên chọn tả những nét tiêu biểu nhất đồng thời phải xác định đâu là cảnh chủ yếu để tập trung miêu tả. + Khi quan sát, giáo viên hướng dẫn học sinh chú ý đến đường nét, màu sắc của cảnh vật và ảnh hưởng của vật thể này đối với vật thể khác. Ví dụ: Qua câu văn sau, các em sẽ thấy tác động của ánh trăng lên các vật: Ánh trăng phủ lên mọi vật một lớp màng mỏng tanh, lạnh mát và xuyên qua kẽ lá, đổ loang lổ xuống mặt sông. + Mỗi vật lại gắn với đặc điểm thiên nhiên, khí hậu, cây cỏ, hoa trái.. của từng vùng nên khi tả ta phải làm toát lên màu sắc riêng biệt đó. * Hướng dẫn học sinh ghi chép + Quan sát luôn đi liền ghi chép. Ghi chép làm giàu thêm cho trí nhớ, ghi chép giúp học sinh lựa chọn những chi tiết, những hình ảnh đặc sắc.Vậy thì phải ghi chép thế nào? Cần phải xây dựng cho học sinh thói quen ghi chép khi quan sát. Phải ghi được những đặc điểm cơ bản: hình dáng, màu sắc, hoạt động, của đối tượng, hãy cố tìm và viết được những điều mà người khác không nhìn thấy để bài viết của mình có cái mới, cái riêng, cái độc đáo + Quan sát và biết ghi chép lại những gì đã quan sát một cách có chọn lựa, đó là một yếu tố rất quan trọng trong văn tả cảnh. Ví dụ : Tả cánh đồng lúa: - Để học sinh quen dần với việc khai thác tư liệu ghi chép được khi quan sát, tôi thường nêu những câu hỏi gợi mở như sau: + Cánh đồng em tả là ở vùng nào? + Em quan sát cánh đồng đó trong hoàn cảnh nào? Vào mùa nào? + Cánh đồng đó có rộng không? Chạy từ đâu tới đâu? + Cánh đồng lúa đang vào thời vụ nào? + Vùng trồng lúa là ruộng cạn hay ruộng sâu? Giống lúa gì? Lúa đang ở thời kì nào? + Từng thửa ruộng lớn hay nhỏ? + Có người làm việc ngoài đồng không ? Họ đang làm gì ? Có cây bóng mát không ? Có những con vật nào ? Chúng đang làm gì ? + Cảm nghĩ của em về cảnh vật và cuộc sống đó như thế nào? * Hướng dẫn xây dựng dàn ý: Ví dụ : * Quan sát trường em. Từ những điều đã quan sát được, lập dàn ý cho bài văn miêu tả ngôi trường ( sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 43 ). - Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý, nhắc học sinh một số điểm lưu ý: + Có thể tả ngôi trường vào một thời điểm nhất định ( sáng - trưa - chiều; mùa đông - mùa hè); Cũng có thể tả ngôi trường với cảnh sắc thay đổi theo thời gian ( Từ sáng đến chiều; từ mùa xuân đến mùa hè). + Nên tả theo trình tự quan sát sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong hoặc ngược lại, tả gần đến xa, từ trong ra ngoài + Ngôi trường nào cũng gắn với các hoạt động của thầy và trò. Tuy nhiên chỉ nên tả lướt qua hoạt động này để không biến bài văn tả cảnh thành bài văn tả cảnh sinh hoạt. + Sau khi nêu một số điểm lưu ý để học sinh nhớ, giáo viên hướng dẫn học sinh cách lập dàn bài. - Giúp học sinh nắm yêu cầu của bài: Tả ngôi trường. - Nhắc học sinh: Dàn ý cũng cần có đủ 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. - Phần mở bài cần giới thiệu bao quát: + Vị trí của ngôi trường: Ngôi trường nằm ở đâu ? Quay mặt về hướng nào? + Đặc điểm nổi bật của ngôi trường. - Phần thân bài gồm các ý: + Tả từng phần của cảnh trường: Cổng trường ( cổng như thế nào ? Bảng tên trường ra sao ? ). Sân trường ( sân trường ra sao ? Cột cờ, cây cối như thế nào? ). Lớp học ( các tòa nhà như thế nào? Các lớp học được trang trí ra sao?...). - Phần kết bài cần nêu cảm nghĩ của em về ngôi trường. Như vậy, mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng đều bảo đảm đủ ý chính. Từ những gợi ý trên giáo viên có thể yêu cầu học sinh lập thành dàn bài chi tiết như sau. + Mở bài: - Quê em đang sống là một vùng Tây Nguyên, mặc dù là Tây Nguyên nhưng cũng có một cánh đồng rộng thẳng cánh cò bay, người ta thường gọi là cánh đồng Krông Ana. - Một buổi sáng mùa hè, em cùng mẹ đi thăm. + Thân bài: - Tả cảnh bao quát toàn cánh đồng. + Cánh đồng làng em khá rộng, từ làng ra tới cánh đồng rộng gần hai cây số. + Đất đai màu mỡ và tinh thần lao động cần cù của con người khiến cho quanh năm cây cối xanh tốt, sản lượng thu hoạch cao. - Tả từng phần của cánh đồng + Mùa hè nhưng hôm nay trời nắng ấm và tạnh ráo. + Khỏi cuối làng là dòng sông quanh năm chảy nặng phù sa và những đầm sen. + Mùa này, vùng ruộng sâu trồng lúa, lúa đang thời con gái xanh mơn mởn. + Ngoài những thửa ruộng trồng lúa còn có những vùng ruộng cao trồng ngô, những bãi ngô bắt đầu thu hoạch. + Người làm việc rải rác trên cánh đồng. Xa xa lại có những cây bóng mát cao lớn. Chim chóc bay lượn... + Kết bài: + Đồng quê em đang chuyển mình theo đà đổi thay của đất nước + Em yêu tha thiết quê hương em. * Rèn kĩ năng trình bày miệng: + Sau khi học sinh đã quan sát và ghi chép các sự vật định tả trong đề bài, tôi thường tập cho học sinh trình bày miệng dựa theo dàn ý học sinh đã làm. + Sau khi học sinh đã trình bày miệng giáo viên tổ chức cho cả lớp nhận xét góp ý những câu văn hay, những câu văn chưa hay để các em rút kinh nghiệm bổ sung cho cách viết đoạn văn, bài văn sau này. * Hướng dẫn chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn: + Để học sinh diễn đạt được bài văn của mình một cách sinh động, có nghệ thuật, các em thường được trau dồi qua tiết học “Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn”. - Một phần của dàn ý có thể là mở bài, kết bài, cũng có thể là một phần của thân bài. - Phần này, giáo viên cần nhắc nhở các em vận dụng cách mở rộng câu đúng thành câu hay để đưa vào bài văn. * Phần mở bài: Các em có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp; có em mở bài chỉ bằng một câu nhưng cũng có em mở bài bằng cả một đoạn văn. Nhưng không ai được tách rời nội dung đã xây dựng được. Ở đây, tùy nghệ thuật vào bài của mỗi em mà giáo viên góp ý, không nên gò bó, áp đặt. Ví dụ: Đề bài “..Miêu tả một cảnh sông nước ( một vùng biển, một con sông, một con suối hay một hồ nước” ( Tiếng Việt 5 - Tập 1 – Trang 62) - Có em mở bài thẳng luôn vào đề: “Quê em có một con sông rất đẹp”. - Có em mở bài rất sinh động: “Mỗi miền quê có một vẻ đẹp riêng. Quê hương tôi có dòng sông hiền hoà quanh năm nước chảy”. Nhờ khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách khác nhau mà vẫn đảm bảo nội dung chính, các em đã viết được nhiều đoạn văn hay, có tính nghệ thuật. Ví dụ: Việt Nam ta có rất nhiều cảnh đẹp, nhiều di tích lịch sử được du khách biết đến. Chúng ta tự hào rằng có Vịnh Hạ Long, Phong Nha Kẻ Bàng, bãi biển Nha Trang...Nhưng có lẽ mỗi người đặt chân đến Buôn Trấp không thể không ngắm nhìn Hồ Sen lung linh trong ánh điện. Nơi mà người dân quê em ví như trái tim của thị trấn. Tuổi thơ em đã gắn liền với Hồ, với những chiều hè cùng ông ngồi mát câu cá... * Phần thân bài: - Đa phần các em học sinh rơi vào tình trạng liệt kê các chi tiết của cảnh. Ví dụ: “Con sông to. Con sông có nhiều thuyền đi lại.” Vì vậy giáo viên cần lưu ý việc cách mở rộng câu đúng thành câu hay để học sinh vận dụng thì đoạn văn sẽ hay hơn. Chẳng hạn: Con sông quê em từ bao đời nay đã gắn liền với cuộc sống của mỗi người dân. Ngày ngày, tiếng sóng vỗ ì oạp vào hai bên bờ như tiếng mẹ vỗ về yêu thương. Con sông hiền hoà, uốn quanh một dải đất trù phú. Nước sông bốn mùa, đục ngàu. Hình như trên mình nó chở nặng phù sa bồi đắp cho những bãi ngô quanh năm xanh tốt. Nước sông lững lờ chảy. Đứng ở bên bờ này có thể nhìn thấy khói bếp bay lên sau những rặng tre của làng bên. Đứng ở trên tàu nhìn xuống con sông như mái tóc dài óng ả của thiếu nữ. Mặt sông lăn tăn gợn sóng. Đâu đó vọng lại tiếng bác thuyền chài gỡ cá. Tuổi thơ ai cũng đã một lần được tắm mát trên sông quê mình. Con sông quê hương là một kỉ niệm êm đềm của tuổi thơ em. - Điều quan trọng là phải lưu ý cho học sinh bám vào các chi tiết đã lập ở dàn bài để chuyển thành đoạn văn, tránh một số trường hợp, học sinh viết bài văn một cách ngẫu hứng không bám theo dàn ý đã lập làm cho bài văn có thể sẽ mất đi tính logic hay tính cân đối do không chủ động được thời gian * Phần kết bài: Có nhiều cách kết bài khác nhau: Kết bài mở rộng, kết bài không mở rộng, nhưng tất cả đều phải xuất phát từ nội dung chính. Vì vậy, giáo viên cần giúp các em nêu cảm xúc một cách chân thực, tránh sáo rỗng. Đồng thời mở rộng thêm về ý thức, trách nhiệm giữ gìn đối với cảnh và nêu việc làm cụ thể để bày tỏ cảm xúc chân thực. Ví dụ: Hồ Sen là niềm tự hào của người dân quê em. Đây là điểm văn hoá của thị trấn. Hàng tuần, em vẫn cùng ông đi bộ quanh Hồ Sen, nước trong xanh, không khí nơi đây thật thoáng đãng, êm đềm. Mỗi người dân quê em đều có ý thức để giữ gìn cho cảnh quan nơi đây luôn sạch đẹp. - Muốn viết được đoạn văn hay thì người giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho học sinh viết câu, đoạn cho tốt sau đó mới có thể viết được bài văn. Ở đây học sinh đã được rèn luyện viết câu rất kĩ, kế đó là viết đoạn văn. Chính vì vậy trong lớp 5 giáo viên chú trọng vào viết đoạn văn cho học sinh. - Khi viết giáo viên cần chú ý rèn kĩ năng viết được câu mở đoạn cho học sinh, từ câu mở đoạn mới có thể t
Tài liệu đính kèm: