Từ nhiều nghĩa: Là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng Việt 5- Trang 67).
VD: Từ “mắt” trong câu “quả na mở mắt” là nghĩa chuyển.
Đối với giáo viên có thể hiểu. Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế khách quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so sánh từ nhiều nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật, hiện tượng biểu đạt một khái niệm thì từ ấy chỉ có một nghĩa.
VD: Từ “xe đạp” chỉ loại xe người đi có hai bánh hoặc ba bánh, dùng sức người đạp cho quay bánh.
Đó là nghĩa duy nhất thông dụng của từ “xe đạp” vậy, có thể nói, từ “xe đạp” là từ chỉ có một nghĩa.
dụng các biện pháp một cách nhẹ nhàng, phù hợp với đối tượng và sự tiến bộ của học sinh. Việc lồng ghép một số trò chơi học tập hay nêu gương nhận biết, phân biệt trước lớp đã góp phần tạo cho các em hứng thú khi làm bài, ý thức học bài của các em tốt hơn. * Mặt yếu Hệ thống biện pháp chưa phong phú, giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ nội dung, biện pháp và hình thức tổ chức trước khi lên lớp. d) Các nguyên nhân, các yếu tố tác động * Về phía học sinh Nhiều năm liền trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ cùng nghĩa, gần nghĩa cũng không mấy vất vả, tuy nhiên khi học xong từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt các từ đồng âm với từ nhiều nghĩa của học sinh không được như mong đợi của cô giáo. kể cả một số học sinh khá, giỏi đôi khi cũng làm thiếu chính xác. Một số học sinh ý thức vươn lên trong học tập vẫn còn chưa cao. Kỹ năng nghe - hiểu, kỹ năng viết của học sinh nhìn chung là chậm, khả năng hiểu và xác định nghĩa của từ tiếng Việt còn yếu nên dùng sai từ trong khi nói và viết. Do ảnh hưởng thói quen nói tiếng địa phương Thừa Thiên Huế, khả năng nhận diện con chữ chậm. Dẫn đến khả năng đọc của các em chậm, việc đọc liền mạch từ, câu gặp rất nhiều khó khăn. Khả năng đọc biểu cảm còn hạn chế. Khả năng tiếp nhận thông tin, tư duy để xử lý, tái tạo nội dung thông tin của học sinh còn chậm. * Về phía giáo viên Việc sử dụng phương tiện dạy học và đồ dùng chưa phong phú, đa dạng nên chưa hấp dẫn học sinh một cách tuyệt đối trong việc tập trung vào luyện đọc. - Một số giáo viên chưa đánh giá đúng mức vai trò, vị trí và tầm quan trọng của việc dạy – học phân môn Luyện từ & câu; chưa sâu sát việc nắm bắt tâm lí của học sinh và phụ huynh. - Ở một số tiết dạy, giáo viên chưa thể hiện sự quan tâm đúng mức đến đối tượng học sinh yếu; đặt yêu cầu chưa cao vào việc tìm và phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đối với học sinh và cuốn hút học sinh vào hoạt động này Qua thực tiễn dự giờ thăm lớp, tìm hiểu đối tượng, thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề và các tiết dự giờ cũng như các chuyên đề ở tổ khối; trong quy mô toàn cấp trường, tôi luôn coi trọng và chú ý lắng nghe, đề xuất ý kiến về các giải pháp nâng cao chất lượng cho các em học sinh nhằm nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng Việt cho các em. Đồng thời, tôi luôn tìm tòi sáng kiến để cải tiến phương pháp dạy học làm sao cho các em đọc đạt hiệu quả cao hơn. e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Nội dung dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ở lớp 5 * Từ đồng âm: Được dạy trong 2 tiết ở tuần 5 và tuần 6. Ơ tuần 5 các em được học khái niệm về từ đồng âm. Các bài tập về từ đồng âm chủ yếu giúp học sinh phân biệt nghĩa các từ đồng âm, đặt câu phân biệt các từ đồng âm. Tuần 6, các em được học cách dùng từ đồng âm để chơi chữ, bài tập thực hành ở phần này chủ yếu là tìm các từ đồng âm chơi chữ và đặt câu với từ đồng âm. * Từ nhiều nghĩa: được dạy trong 3 tiết ở tuần 7 và tuần 8. Tiết 1 của tuần 7 các em được học khái niệm về từ nhiều nghĩa. Các bài tập thực hành chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa gốc và các từ mang nghĩa chuyển. Hai tiết còn lại học sinh được luyện tập về từ nhiều nghĩa với các dạng bài tập như giới thiệu nghĩa của một từ và yêu cầu học sinh tìm hoạt động đúng với nghĩa cho trước, đặt câu phân biệt nghĩa chuyển, nghĩa gốc, nêu nét nghĩa khác nhau của một từ. Duy nhất có 1 bài tập (bài 1 trang 82 - TV5 – tập 1) có dạng phân biệt, nhận diện từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Như vậy số lượng bài tập thực hành giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn ít. trong khi đó khả năng tư duy trìu tượng của các em còn hạn chế. Việc dạy và học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của học sinh. * Về dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của giáo viên Theo các trình tự nội dung được biện soạn trong sách giáo khoa và trình tự dạy học luyện từ và câu, nhìn chung các đòng chí giáo viên lớp 5 đều làm đúng vai trò là người hướng dẫn, tổ chức cho học sinh nắm kiến thức về hai nội dung từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết có hạn, nên giáo viên chưa lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong các bài học được. Do đó ,sau các bài học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội dung học trên một cách tách bạch, đôi khi trong giảng dạy các nội dung này, giáo viên còn có lúc “bí từ” khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể ngoài SGK để giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. * Về học từ đồng âm, tư nhiều nghĩa của học sinh Một thực tế cho thấy khi học và làm bài tập về từ đồng âm học sinh tiếp thu và làm bài nhanh hơn khi học và làm bài tập về từ nhiều nghĩa, có lẽ bởi từ nhiều nghĩa trừu tượng hơn. Đặc biệt, khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ có quan hệ đồng âm, các từ có quan hệ nhiều nghĩa với nhau trong một số văn cảnh thì đa số học sinh lúng túng và làm bài chưa đạt yêu cầu. Lúc đầu, khi đang còn dạy tách bạch từng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi thấy phần lớn các em làm bài trong vở bài tập tơng đối đạt yêu cầu. Để kiểm tra khả năng phân biệt chính xác từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi đã cho học sinh lớp 5B ( năm học 2013-2014) làm bài tập 1(trang 82 – sgk TV5- tập 1). Đề bài: Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là từ nhiều nghĩa? a) chín. Lúa ngoài đồng đã chín vàng. Tổ em có chín học sinh. Nghĩ cho chín rồi hãy nói. b) đường. Bát chè này nhiều đường nên rất ngọt. Các chú công nhân đang chữa đường dây điện thoại. Ngoài đường,mọi người đang đi lại nhộn nhịp. c) vạt. Những vạt nương màu mật. Lúa chín ngập lòng thung. ( Nguyễn Đình Anh) Chú Tư láy dao vạt nhọn đầu chiếc gậy tre. Những người Giáy, người Dao Đi tìm măng, hái nấm. Vạt áo chàm thấp thoáng Nhuộm xanh cả nắng chiều ( Nguyễn Đình Anh) * Kết quả: Sau khi thu bài chấm bài, kết quả là học sinh làm bài tập trên được tổng hợp như sau: Tổng số học sinh Điểm 9, 10 Điểm 7,8 Điểm 5,6 Điểm dưới 5 18 1 = 5,6% 3 = 16,7% 8 = 44,4% 6 = 33,3% Nếu học sinh trả lời đúng mỗi ý a, b, c được 3 điểm, trình bày khoa học sạch đẹp cho 1 điểm. - Số học sinh chưa làm đúng 1/3 ý của bàn còn tới 6 em, như vậy việc phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của những học sinh này còn yếu. Trăn trở với kết quả trên tôi đã nghiên cứu, học hỏi và tự rút kinh nghiệm cho việc dạy học sinh phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và mạnh dạn ứng dụng trong giảng dạy năm học 2014 – 2015. II.3. Giải pháp, biện pháp a) Mục tiêu của giải pháp, biện pháp - Nắm vững kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, phương pháp dạy từ đồng âm , từ nhiều nghĩa. - Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. - Tổ chức dạy học trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở các kiến thức. - Tập hợp một số dạng bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để có tư liệu dạy học. - Tự tích luỹ một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong cuộc sống hàng ngày để có thêm vốn từ trong dạy học. b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp - Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và phương pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. + Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: * Từ đồng âm: Là những từ giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa (theo SGK TV5- tập 1- trang 51) Đây là kiến thức cô đọng, xúc tích nhất dành cho học sinh tiểu học ghi nhớ,vận dụng khi làm bài tập, thực hành. - Trong chương trình ngữ văn lớp 7, các em cũng sẽ được học về từ đồng âm. Trên cơ sở kiến thức về từ đồng âm đã học ở cấp I, các em cũng được nắm bắt từ đồng âm là những từ giống nhau về âm thanh nhưng nghĩa khác xa nhau, không liên quan gì với nhau. - Đối với giáo viên tiểu học, cần chú ý thêm từ đồng âm được nói tới trong sách giáo khoa. Tiếng Việt 5 bao gồm cả từ đồng âm ngẫu nhiên (nghĩa là có 2 hay hơn 2 từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau nhưng giữa chúng không có mối quan hệ nào, chúng vốn là những từ hoàn toàn khác nhau) như trường hợp “câu” trong "câu cá", và “câu” trong "đoạn văn có 5 câu" là từ đồng âm ngẫu nhiên và cả từ đồng âm chuyển loại (nghĩa là các từ giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa, đây là kết quả của hoạt động chuyển hoá từ loại của từ). - VD: a) + cuốc (danh từ), đá ( danh từ ) cái cuốc, hòn đá + cuốc(động từ) ,đá ( động từ ) cuốc đất, đá bóng b) + thịt (danh từ) miếng thịt + thịt (động từ) thịt con gà Trong giao tiếp cần chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ hoặc dùng từ với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm. VD: Đem cá về kho Câu trên có thể hiểu là hai cách Cách 1: Đem cá về kho cất để dự trữ Cách 2: Đem cá về để kho lên ăn * Từ nhiều nghĩa: Là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng Việt 5- Trang 67). VD: Từ “mắt” trong câu “quả na mở mắt” là nghĩa chuyển. Đối với giáo viên có thể hiểu. Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế khách quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có mối liên hệ mật thiết với nhau. Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so sánh từ nhiều nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật, hiện tượng biểu đạt một khái niệm thì từ ấy chỉ có một nghĩa. VD: Từ “xe đạp” chỉ loại xe người đi có hai bánh hoặc ba bánh, dùng sức người đạp cho quay bánh. Đó là nghĩa duy nhất thông dụng của từ “xe đạp” vậy, có thể nói, từ “xe đạp” là từ chỉ có một nghĩa. Từ nào là tên gọi của nhiều sự vât, hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm thì từ ấy là từ nhiều nghĩa. VD: Từ ăn có các nghĩa sau đây: + ăn cơm: tự cho vào cơ thể thức ăn để nuôi sống cơ thể + ăn cưới: ăn uống nhân dịp cưới + Tàu ăn hàng: tiếp nhận hàng để chuyên trở + ăn hoa hồng: nhận lấy để hưởng + ăn con xe: giành về mình phần hơn, phần thắng + Da ăn nắng: hấp thụ cho thấm vào, nhiễm vào + Sơn ăn mặt: làm huỷ hoại dần dần từng phần + ăn ảnh: vẻ đẹp được tôn lên (trong ảnh). + sông ăn ra biển: lan ra hoặc hướng đến nơi nào đó + Đám đất này ăn về xã bên: Thuộc về + Một đola ăn mấy đồng tiền Việt Nam: Có thể đổi ngang giá. Như vậy từ " ăn" là một từ nhiều nghĩa. Trong chương trình môn tập đọc lớp 5 từ “trông” trong bài ca dao "đi cấy" là một từ nhiều nghĩa. Chương trình phân môn luyện từ và câu không đề cập tới nghĩa đen và nghĩa bóng của từ nhiều nghĩa mà đề cập tới nghĩa chuyển và nghĩa gốc. Nghĩa đen chính là nghĩa gốc của từ còn được gọi là nghĩa trực tiếp, là nghĩa đầu tiên của từ, là cơ sở để tạo ra các nghĩa khác. Trong từ điển, nghĩa đen dược nói tới đầu tiên. Nghĩa bóng cũng chính là nghĩa chuyển, là loại nghĩa được hình thành từ nghĩa đen (hoặc nghĩa chuyển này được hình thành từ nghĩa chuyển khác), có mối liên hên mật thiết với nghĩa đen. Nghĩa bóng (nghĩa chuyển) là sản phẩm của hoạt động chuyển nghĩa của từ theo các phương thức như ẩn dụ, hoán dụ Trong từ điển, nghĩa bóng được nói đến sau nghĩa đen... Nghĩa bóng (nghĩa chuyển) cũng mang tính cố định, ổn định, bền vững, tính xã hội và tính dân tộc như nghĩa đen. * Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm. Giáo viên tổ chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp học sinh phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được những kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.Bước tiếp theo GV tổng hợp và chốt kiến thức như nội dung phần ghi nhớ. Đến đây, nếu là HS khá, giỏi, GV có thể cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ. Chuyển sang phần luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Sau mỗi bài tập giáo viên lại cũng cố, khắc sâu kiến thức liên quan đến nội dung bài học, liên hệ thực tế và liên hệ tới các kiến thức đã học của phân môn LTVC nói riêng và tất cả các môn học nói chung. c) Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp - Cho học sinh nhận biết ngữ liệu để phát hiện những dấu hiệu bản chất của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. - Học sinh rút ra các đặc điểm của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và nêu định nghĩa. - Luyện tập để nắm khái niệm trong ngữ liệu mới . Việc dạy hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung khi dạy luyện từ và câu và vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học như: - Phương pháp hỏi đáp - Phương pháp giảng giải -Phương pháp trực quan - Phương pháp luyện tập thực hành. - Hình thức học cá nhân - Thảo luận nhóm . - Tổ chức trò chơi. Ngoài ra giáo viên có thể vận dụng cách liên tưởng, liên hệ trong từng bài tập cụ thể. VD: Bài tập 2 – Tiếng việt 5- trang 67: yêu cầu học sinh tìm một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của các từ: lưỡi, miệng, cổ, tay, lưng. Giáo viên gợi ý bằng cách đưa ra một số câu hỏi gợi ý có nội dung liên tưởng như: lưỡi của những đồ vật gì có tính sắc, sáng (học sinh dễ tìm được lưới dao, lưỡi kiếm, lưỡi gươm, lưỡi lê, lưỡi lam , lưỡi hái). Các từ còn lại giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, trình bày bằng trò chơi ai nhanh hơn. Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên chủ yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh cũng cố, nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa * Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa Quay lại với bài kiểm tra ở phần thực trạng, tôi muốn đề cập đến một số lỗi HS mắc phải khi phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa . Đó là : Các em không xác định được nghĩa cuả từ trong từng câu. Không tìm được mối quan hệ giữa từ mang nghĩa gốc với từ mang nghĩa chuyển. Không dựa vào văn cảnh để hiểu nghĩa của từ trong mối quan hệ với các từ khác của câu. Không thuộc định nghĩa ( tức phần ghi nhớ) của mỗi bài học. hi học sinh làm bài xong, tôi hỏi một học sinh có số điểm bài kiểm tra dưới 5 (em Kiên) về nghĩa của từ “vạt” trong câu :“ Chú Tư lấy dao vật nhọn đầu chiếc gậy tre” nghĩa là gì? úc đầu em im lặng, không trả lời, sau tôi động viên mãi, bảo em hiểu thế nào cứ nói cho cô nghe thì em trả lời “vạt” trong câu văn đó là một phần đầu nhọn của con dao. Tôi không nói nhưng thầm nghĩ, em Kiên hiểu sai nghĩa của từ "vạt" và nội dung ý nghĩa thông báo của câu văn nên trong bài làm của mình em cho rằng từ “vạt” trong câu : “Những vạt nương màu mật Lúa chín ngập lòng thung” và từ 'vạt' trong câu văn trên đều là những từ cùng nghĩa. Tìm hiểu và nắm được một số sại lầm của học sinh như trên, tôi đã thử nghiệm một số biện pháp phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa như sau: * Yêu cầu học sinh thuộc ghi nhớ Tâm lí học sinh thích làm những bài tập đơn giản, để lộ kiến thức, ngại học thuộc lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư duy. Biết vậy, tôi thường cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại cho đọc toàn phần, đọc theo nhóm đôi, có lúc thi đua xem ai nhanh nhất, ai đọc tốt. Cách làm này tôi đã cho các em thực hiện ở các tiết học trước đó (về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa) do đó dạy đến từ đồng âm, từ nhiều nghĩa các em cứ sẵn cách tổ chức như trước mà thực hiện. Và kết quả có tới 16/18 học sinh thuộc ghi nhớ một cách trôi chảy tại lớp chỉ còn 2 em có thuộc song còn ấp úng, ngắc ngứ. * Giúp học sinh học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau, (nói đọc giống nhau viết cũng giống nhau). Ta thấy rõ ràng là “đường”(1) trong “đường rất ngọt”, "đường"(2) trong "đường dây điện thoại" và “đường”(3) trong “ngoài đường xe cộ đi lại nhộn nhịp” đều phát âm, viết giống nhau. Vậy mà “đường” (1) với “đường” (2) và “đường” (1 ) với "đưòng' (3) lại có quan hệ đồng âm , còn " đường" (2) với "đường" (3 ) lại có quan hệ nhiều nghĩa. Để có được kết luận trên đây, trước hết học sinh phải hiểu rõ nghĩa của các từ đường (1), đường(2), đường (3) là gì? Đường (1) : (đường rất ngọt): chỉ một chất có vị ngọt. Đường (2) :(đường dây điện thoại )chỉ dây dẫn,truyền điện thoại phục vụ cho việc thông tin liên lạc. Đường (3) :(ngoài đường, xe cộ đi lại nhộn nhịp) chỉ lối đi cho các phương tiện, người, động vật. Để có thể giải nghĩa chính xác các từ "đường" như trên, các em phải có vốn từ phong phú. có vốn sống. vì vậy trong dạy học tất cả các môn, giáo viên luôn chú trọng trau dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh, nhắc học sinh có ý thức tích lũy cho mình vốn sống và yêu cầu mỗi học sinh phải có được một cuốn từ điển Tiếng Việt, biết cách tra từ điển Tiếng Việt đồng thời nắm được một số biện pháp giải nghĩa từ. Tiếp đó học sinh căn cứ vào định nghĩa, khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để xác định mối quan hệ giữa các từ "đường". Xét nghĩa của 3 từ "đường" trên ta thấy: Từ (đường(1) và từ đường (2) có nghĩa hoàn toàn khác nhau không liên quan đến nhau- kết luận. hai từ đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự như trên từ 'đường (2) và từ 'đường" (3) cũng có mối quan hệ đồng âm. Từ đường (2) và từ đường (3) có mối quan hệ mật thiết về nghĩa trên cơ sở của từ đường (3)- chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ 'đường' (2) (truyền đi) theo vệt dài (dây dẫn). như vậy từ đường (3) là nghĩa gốc, còn từ đường (2) là nghĩa chuyển – kết luận: từ 'đường' (2) và từ 'đường' (3) có quan hệ nhiều nghĩa với nhau. * Dựa vào yếu tố từ loại cũng có thể giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa Biện pháp này thực ra ít khi tôi vận dụng bởi nếu học sinh đã hiểu đúng nghĩa của từ. thuộc được khi nhớ thì không cần thiết phải dùng đến cách dựa vào yếu tố từ loại, tuy nhiên đối với một số học sinh trung bình và yếu giáo viên có thể kết hợp cả 3 biên pháp. Nếu trong thực tế đời sống hàng ngày học sinh có thể bắt gặp hiện tượng một từ nào đó phát âm gần nhau nhưng xét về từ loại khác nhau thì kết luận đó là hiện tượng đồng âm. chẳng hạn khi chơi đùa học sinh hò reo đồng thanh để cổ vũ cho một học sinh được mệnh danh là “ cụ cố” vì em này nhỏ, yếu: "Cố lên cụ cốơi!" “Cố” thứ nhất là tính từ, “cố” thứ 2 là danh từ. đây là hiện tượng đồng âm dễ nhận diện. Tùy trường hợp những từ phát âm giống nhau nhưng cùng từ loại (cùng loaị danh từ, động từ, tính từ) thì phải vận dụng biện pháp giải nghĩa từ trong văn cảnh đồng thời xét xem các từ đó có mối quan hệ về nghĩa hay không để tránh nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa hoặc quan hệ đồng nghĩa nếu có. Trong trường hợp này thông thường ta dựa vào ngữ cảnh để nhận biết nghĩa của từ đồng âm, nói cách khác là dựa vào các từ cùng đi với nó trong câu .Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hóa nghĩa của từ và giúp con người sử dụng ngôn ngữ tránh sự nhầm lẫn. VD: - đồng tiền – cánh đồng - Vạc dầu - con vạc - Con cò – cò súng - Xe đạp – con xe(quân cờ). Xét câu văn sau:"Hôm nay tôi đánh rơi mười nghìn đồng ngay đoạn cánh đồng làng. Các từ trong câu có mối quan hệ vơí từ 'đồng' thứ nhất gồm” đánh rơi”, “ mười nghìn”, nếu chỉ dừng lại ở đánh rơi 10 nghìn đồng thì người đọc chưa rõ mười nghìn đồng tiền Việt Nam hay tiền nước nào và chưa xác định rõ giá trị số tiền đánh rơi . Có từ "đồng ngay sau cụm từ 'đánh rơi mười nghìn đồng' thì ta hiểu rõ số tiền đánh rơi ở đây là tiền Việt và xác định được giá trị của nó.Vậy từ 'đồng" thứ nhất là đơn vị tiền Việt nam, từ "đồng" thứ 2 nằm trong mối quan hệ với từ" qua', "cánh', 'làng'.Đồng trong “cánh đồng”là khoảng đất rộng bằng phẳng trồng lúa hoạc hoa màu. Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với từ nhiều nghĩa hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại.Trong quá trình dạy học , tôi gặp phần lớn các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại .Từ 'đi' trong các trường hợp sau đều là động từ đi bộ VD: đi: đi chơi đi ngủ đi máy bay Vì vậy khi gặp những từ có cùng vỏ âm thanh giống nhau thì học sinh không được vội vàng phán
Tài liệu đính kèm: