Đề tài Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học Toán lớp 5

Đề tài Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học Toán lớp 5

Học sinh ít tìm tòi tài liệu về môn toán mà chỉ dùng đơn thuần là cuốn sách giáo khoa dẫn đến tâm lí một số em sợ học môn này vì cho rằng nó khô và khó. Khô vì giờ học tẻ nhạt, đơn điệu và nhàm chán. Khó vì phải nhớ quá nhiều ghi nhớ, công thức. Từ đó học sinh không hướng thú, học vẹt, học chỉ để trả bài, để qua các lần kiểm tra chứ không hiểu và yêu thích môn Toán thì rất ít.

Năm học 2014-2015 tôi được Nhà trường phân công chủ nhiệm và dạy lớp 5C , lớp có 4 em là người dân tộc Ê- đê ( 4 em chiếm 15,4 %), nhiều em gia đình rất khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa không quan tâm được đến việc học hành của con cái. Ở lớp 5, môn Toán là môn mới mẻ đối với các em vì đây là năm đầu tiên sử dụng sách thử nghiệm, nhiều em còn bỡ ngỡ chưa có cách học để mang lại hiệu quả. Khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, khái quát các vấn đề còn yếu, khả năng ghi nhớ còn chậm nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc. Kĩ năng đọc và phân tích đề toán chưa nhanh do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến trình chung của môn học; Tinh thần hợp tác chưa cao, nhiều em chưa tự tin hợp tác trong nhóm, một số em còn học tập thụ động. Chính những điều đó tạo nên những khó khăn trong quá trình dạy và học.

Qua thực trạng nói trên cho thấy việc giải toán của học sinh lớp 5 nói riêng và học sinh cấp Tiểu học nói chung là vô cùng cần thiết vì đây là một môn học liên quan đến chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập đó là “Học mà chơi – chơi mà học” và đem lại chất lượng rất cao. Đối với tôi đây chính là việc “Tự học – Tự rèn” cho bản thân để nâng cao cả về kiến thức cũng như chuyên môn nghiệp vụ, cách sử dụng công nghệ thông tin.

 

doc 27 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 13037Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Vận dụng phương pháp tích cực trong dạy học Toán lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 như quan sát, và phân tích đề toán; kĩ năng đọc, phân tích sơ đồ; kĩ năng giải thích; sắp xếp hệ thống các số liệu...
 * Mặt yếu
Tài liệu hướng dẫn học môn toán là sách “ ba trong một”, nó vừa là sách giáo viên, vừa là sách học sinh, vừa là sách bài tập do đó giáo viên không có sách hướng dẫn để làm cơ sở định hướng cho tiết dạy.
Một số học sinh còn học một cách thụ động vì kiến thức ngày càng đòi hỏi người học phải có tư duy độc lập hơn. 
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Là một giáo viên trẻ được phân công dạy lớp cuối cấp tôi luôn trăn trở, tích cực học hỏi, tìm tòi phương pháp dạy học mạng lại hiệu quả. Bên cạnh đó tôi nhận được sự đồng lòng hưởng ứng cách dạy học mới từ phía phụ huynh, sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội giúp cho việc dạy học mạng lại kết quả cao hơn. Bên cạnh đó còn có những yếu tố tác động khác như: 
Thiết bị dạy học còn chưa phong phú ; giáo viên chưa đi sâu nghiên cứu tài liệu giảng dạy, chưa nhiệt tình trong giờ dạy. Các hình thức dạy học còn đơn điệu khô cứng chính vì thế khi tham gia các đợt hội giảng, thao giảng giáo viên rất dè dặt khi lựa chọn các bài dạy có tính diện tích các hình. 
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
 Về nội dung chương trình môn Toán lớp 5 theo mô hình trường học mới VNEN cũng giống như chương trình trước đây nhưng cách chia nội dung bài trong tài liệu Hướng dẫn học thì mỗi bài được tích hợp nhiều nội dung. Thời lượng dành cho mỗi bài học thường là 1 đến 2 tiết. 
 Ví dụ: Khi dạy bài Diện tích hình thang sách hiện hành có 3 tiết ( trong đó có 1 tiết luyện tập và 1 tiết luyện tập chung) nhưng sách thử nghiệm Hướng dẫn học chỉ có 2 tiết.
Như vậy việc chia nội dung bài học từng phần không tách bạch nội dung rõ ràng gây khó hiểu cho học sinh trong việc tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức.
 Năm học này cũng là năm thứ ba trường Tiểu học Nguyễn Thị Minh Khai Thực hiện chương trình VNEN. Với mô hình dạy học này cả giáo viên và học sinh phải chuyển đổi từ lối truyền thụ một chiều của giáo viên thầy giải trò nghe sang thầy đọc trò chép sang dạy học hợp tác học sinh học tập chủ động khám phá kiến thức. Bên cạnh đó giáo viên vẫn sử dụng phương pháp chủ yếu là giảng giải, vấn đáp chính vì thế giờ học trở nên khô khan, nhàm trán với những con số vô hồn ít đọng lại kiến thức trong tâm trí các em.
Học sinh ít tìm tòi tài liệu về môn toán mà chỉ dùng đơn thuần là cuốn sách giáo khoa dẫn đến tâm lí một số em sợ học môn này vì cho rằng nó khô và khó. Khô vì giờ học tẻ nhạt, đơn điệu và nhàm chán. Khó vì phải nhớ quá nhiều ghi nhớ, công thức. Từ đó học sinh không hướng thú, học vẹt, học chỉ để trả bài, để qua các lần kiểm tra chứ không hiểu và yêu thích môn Toán thì rất ít.
Năm học 2014-2015 tôi được Nhà trường phân công chủ nhiệm và dạy lớp 5C , lớp có 4 em là người dân tộc Ê- đê ( 4 em chiếm 15,4 %), nhiều em gia đình rất khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa không quan tâm được đến việc học hành của con cái. Ở lớp 5, môn Toán là môn mới mẻ đối với các em vì đây là năm đầu tiên sử dụng sách thử nghiệm, nhiều em còn bỡ ngỡ chưa có cách học để mang lại hiệu quả. Khả năng nắm bắt kiến thức, kĩ năng quan sát, khái quát các vấn đề còn yếu, khả năng ghi nhớ còn chậm nên các em chỉ có thể ghi nhớ một cách máy móc. Kĩ năng đọc và phân tích đề toán chưa nhanh do đó ảnh hưởng đến thời gian và tiến trình chung của môn học; Tinh thần hợp tác chưa cao, nhiều em chưa tự tin hợp tác trong nhóm, một số em còn học tập thụ động. Chính những điều đó tạo nên những khó khăn trong quá trình dạy và học.
Qua thực trạng nói trên cho thấy việc giải toán của học sinh lớp 5 nói riêng và học sinh cấp Tiểu học nói chung là vô cùng cần thiết vì đây là một môn học liên quan đến chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập đó là “Học mà chơi – chơi mà học” và đem lại chất lượng rất cao. Đối với tôi đây chính là việc “Tự học – Tự rèn” cho bản thân để nâng cao cả về kiến thức cũng như chuyên môn nghiệp vụ, cách sử dụng công nghệ thông tin.
Từ những vấn đề trên, tôi cũng như mọi giáo viên khác cần có sự thống nhất cao đó là luôn quan tâm, theo dõi giúp đỡ các em trong quá trình học của học sinh. 
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Đề tài đưa ra cách giải quyết những vấn đề, những mâu thuẫn thường gặp trong quá trình dạy học môn Toán lớp 5 dựa trên cơ sở thực tế đã đạt được trong quá trình nghiên cứu. Trong hệ thống giáo dục cấp tiểu học, nếu người dạy học không được phép coi nhẹ môn học nào và đặc biệt là môn Toán. Qua bao nhiêu năm công tác, không hẳn đã có học sinh yếu toàn diện, cái quan trọng là do người dạy khai thác tư duy học sinh như thế nào để các em tiếp nhận thông tin mà thôi. Vậy mới thấy được luôn đổi mới phương pháp dạy học là cực kì quan trọng. Với những biện pháp tích cực mà người viết đưa ra sẽ giải quyết mâu thuẫn đó, giúp người học chiếm lĩnh một cách trọn vẹn.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
a. Trước hết ta hiểu phương pháp dạy học tích cực là gì ?
- Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cá nhân học sinh trong quá trình học tập để tiếp thu kiến thức, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Với quan niệm trên phương pháp dạy học có ba đặc điểm:
Hoạt động: Hình thức tổ chức, đánh giá, kích thích học sinh xử lí tình huống giao tiếp.
Khoa học: Chính xác, hệ thống.
Nghệ thuật: Tính sáng tạo, năng lực kinh nghiệm.
- Tính tích cực thể hiện:
Hứng thú: Hăng hái tham gia vào quá trình học tập.
Có phương pháp tự học, tự phát hiện và tìm cách giải quyết vấn đề của giáo viên đưa ra.
Mạnh dạn nêu thắc mắc của bản thân.
Tính tích cực của học sinh đối lập với sự thụ động.
- Dấu hiệu nhận biết phương pháp dạy học tích cực:
Kích thích nhu cầu hứng thú học tập của học sinh, tạo cho học sinh tự giác học tập.
Việc cùng hoạt động cá thể với nhóm nhỏ.
Kết hợp với đánh giá của giáo viên với tự đánh giá của học sinh cho hợp lí.
Giáo viên có hệ thống câu hỏi phỏng vấn, có nghệ thuật ứng xử sư phạm thích hợp, biết tạo tình huống có vấn đề và tạo cho học sinh giải quyết vấn đề.
Tiết học diễn ra nhẹ nhàng hiệu quả, học sinh tiếp thu được những yêu cầu của bài.
b. Tìm hiểu một số phương pháp dạy học tích cực
Trong quá trình dạy học có rất nhiều phương pháp như: phương pháp trực quan, phương pháp gợi mở vấn đáp, . . . Nhưng hiện nay các phương pháp dạy học tích cực đang được khuyến khích sử dụng rộng rãi là phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm (nhóm tương tác); phương pháp vận dụng lý thuyết kiến tạo trong dạy học. 
* Tìm hiểu phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
Muốn nâng cao chất lượng dạy học thì cần thiết phải quan tâm nhiều tới mặt bên trong của phương pháp, tới hoạt động tự giác, tích cực, sáng tạo của người học với tư cách là chủ thể trong quá trình học tập. Đòi hỏi này xuất phát từ yêu cầu xã hội đối với sự phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Từ những đặc điểm của nội dung mới và bản chất của quá trình học tập. Vì vậy, phải giúp học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề của bài học.
Vấn đề: Là một yêu cầu đặt ra cho học sinh những khó khăn về mặt lí luận hay thực tiễn mà họ thấy cần thiết và có khả năng vượt qua nhưng không phải là ngay tức khắc nhờ một quy tắc có tính thuật toán mà phải trải qua một quá trình trực tiếp suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt động hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có.
Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học trong đó giáo viên là người đưa ra các tình huống sư phạm có vấn đề và tổ chức cho học sinh các hoạt động khám phá, phát hiện và tìm cách giải quyết vấn đề trên cơ sở những kiến thức và những kinh nghiệm đã biết.
“Vấn đề” được chứa đựng trong “tình huống” mà học sinh mong muốn được giải quyết. Nhưng để giải quyết phải vượt qua những khó khăn bằng sự cố gắng tự lực của bản thân một cách tự giác và hi vọng sẽ giải quyết được vấn đề đó.
Quá trình dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề có thể mô tả như sau:
Phân tích vấn đề, mở rộng vấn đề
Định hướng giải quyết vấn đề. Giải quyết vấn đề
Phát hiện vấn đề, tìm hiểu vấn đề
Tình huống có vấn đề
Trong dạy học phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề, giáo viên là người tạo ra tình huống có vấn đề, tổ chức, triển khai tình huống, gợi cho học sinh hướng đi, giúp đỡ học sinh thực hiện phương pháp để đạt mục đích học tập đặt ra. Học sinh là người tìm cách học, biết cách huy động kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm đã có bằng nỗ lực của chính mình, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh tri thức và sắp xếp nó vào hệ thống kiến thức sẵn có.
Dạy học toán phát hiện và giải quyết vấn đề là một định hướng xuyên suốt quá trình dạy học toán ở tiểu học. Do đặc điểm và nhận thức của học sinh tiểu học trong học tập toán, vấn đề được hướng tới thường đơn giản, việc phát hiện và giải quyết vấn đề không cần một quá trình suy luận dài.
Ví dụ 1: Khi dạy bài: “So sánh hai số thập phân” Toán 5. Giáo viên có thể hướng dẫn như sau:
Nêu ví dụ: So sánh 8,1m và 7,9m.
Các em có nhận xét gì về hai số thập phân này? (Hai số thập phân khác nhau, cùng đơn vị đo).
Giáo viên : So sánh 8,1m và 7,9m là so sánh hai số thập phân không bằng nhau. Vậy muốn so sánh hai số thập phân đó ta làm gì ? Các em có thể nói lên cách giải quyết của mình ? (Giáo viên gợi ý vấn đề cần giải quyết).
Giáo viên tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề:
Học sinh tự nhận thấy cần phải chuyển đổi 8,1m và 7,9m về đơn vị đo là dm.
So sánh hai số vừa tìm được (Giải thích).
Từ cách so sánh trên, suy ra 8,1m > 7,9m (Phần nguyên có 8 > 7).
Giáo viên tổ chức cho học sinh mở rộng vấn đề: Trường hợp khi so sánh hai số thập mà các số thập phân có các chữ số không bằng nhau, không có đơn vị đo (Phần nguyên khác nhau) thì ta so sánh như thế nào?
Giáo viên gợi mở học sinh tự nêu lên nhận xét để khắc sâu kiến thức: Khi so sánh hai số thập phân có phần nguyên khác nhau, số thập phân nào có phần nguyên lớn hơn thì số đó lớn hơn.
Tóm lại, khi so sánh hai số thập phân thì đòi hỏi học sinh phải biết liên hệ các kiến thức đã học: nắm chắc cấu tạo của một số thập phân (Phần nguyên, phần thập phân). Từ đó, học sinh vận dụng so sánh hai số thập phân trong mọi trường hợp. Như vậy, quá trình học sinh huy động các kiến thức đã học, có liên quan đến vấn đề cần giải quyết không chỉ tập dợt cho học sinh cách giải quyết một vấn đề của bài học mà còn giúp học sinh nhận ra sự cần thiết phải chuẩn bị kiến thức trước đó.
Ví dụ 2: Dạy bài “Diện tích hình tam giác” Toán 5
 Trước khi học bài này học sinh đã nắm được:
Biểu tượng về hình tam giác, nhận biết chúng dựa vào các đặc điểm “có ba cạnh, ba đỉnh, ba góc”.
Biết vẽ đường cao của một tam giác tương ứng với cạnh đáy.
Biết tính diện tích hình chữ nhật.
 Mục tiêu của bài học này là: Học sinh tự hình thành công thức tính diện tích hình tam giác. Biết vận dụng để giải các bài toán có liên quan.
Hoạt động 1: Hình thành công thức tính diện tích hình tam giác 
Bước 1: Tạo tình huống có vấn đề
Giáo viên tổ chức cho học sinh học tập bằng phiếu.
 PHIẾU HỌC TẬP
Họ và tên:
Tính diện tích hình tam giác (Hình 1)
 E	 	 A E B 	 	 1 2 	 
 D C 1 2 D H C
 Hình 1 Hình 2 Hình 3 (H.2 và H.1 cắt, ghép )
Bước 2: Tổ chức cho học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề (Thảo luận cặp đôi).
Học sinh tự đặt và tự trả lời câu hỏi, giáo viên hướng dẫn, gợi ý (nếu cần).
Hãy nêu tên các hình?
Hình nào đã biết cách tính diện tích? (Hình 3).
Vấn đề được đặt ra là gì? (Tính diện tích hình tam giác bằng cách nào?)
Bước 3: Tổ chức cho học sinh giải quyết vấn đề
Học sinh phân tích vấn đề (Khuyến khích học sinh tự đặt câu hỏi). Giáo viên có thể hướng dẫn: quan sát hình vẽ, hãy thiết lập mối quan hệ giữa hình tam giác với hình chữ nhật?
Học sinh đề xuất hướng giải quyết và cách thực hiện: 
Tính diện tích hình chữ nhật và nêu công thức tính. 
Tính diện tích hình tam giác dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật. Học sinh nêu lên được diện tích hình chữ nhật (Hình 3) gấp hai lần diện tích hình tam giác. (Hình 1)
Bước 4: Tổ chức cho học sinh phân tích vấn đề và mở rộng vấn đề
Hướng dẫn học sinh phân tích vấn đề: Diện tích hình tam giác là tích độ dài của hia cạnh nào trong hình tam giác? 
Mở rộng vấn đề: Có thể tìm được công thức tính diện tích hình tam giác bất kì hay không?
Giáo viên gợi mở, học sinh chính xác hoá công thức tính diện tích hình tam giác. Công thức: S = hay S= a x h : 2
(S là diện tích, a là độ dài đáy, h là chiều cao)
 Hoạt động 2: Thực hành
Bài 1: Học sinh tự làm bài và nêu kết quả
Học sinh khác nhận xét (cách tính và kết quả).
Giáo viên nhận xét và nêu thêm vấn đề: Diện tích hình tam giác có phụ thuộc vào vị trí của đường cao hay không?
Bài 2: Học sinh tự làm bài, đổi bài cho nhau, nêu ý kiến và nhận xét bài làm của bạn.
Phát hiện thêm vấn đề: Số đo độ dài đáy và chiều cao không cùng đơn vị đo (Phải đổi về cùng đơn vị đo).
Tóm lại, với cách dạy học như trên, từ những hiểu biết về“Diện tích hình chữ nhật”, bằng sự nỗ lực của bản thân (Sự hỗ trợ của giáo viên), sự hỗ trợ của hình ảnh trực quan, học sinh đã giải quyết được vấn đề mà trước đó được đặt ra và chưa được giải quyết đó là tính “Diện tích hình tam giác”.
Trên cơ sở tính diện tích hình chữ nhật, học sinh được mở rộng, khái quát thành công thức tính diện tích hình tam giác. Bây giờ trong kho tàng tri thức của các em có thêm kiến thức mới, nhưng điều quan trọng hơn là các em biết cách xây dựng công thức tính dịên tích hình tam giác dựa vào những kiến thức và kinh nghiệm đã có từ trước.
Đặc trưng của nghề dạy học được xác định không phải bằng hoạt động dạy mà là hoạt động học của người học. Giáo viên là người tạo điều kiện thuận lợi cho việc học của học sinh, giúp học sinh phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề và tự chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy, năng lực của người thầy là năng lực của người tạo tình huống có vấn đề.
* Dạy học theo nhóm tương tác
 Thế nào là dạy học theo nhóm tương tác?
Dạy học theo nhóm tương tác là một hình thức tổ chức dạy học mà người giáo viên chia lớp ra thành những nhóm nhỏ để thảo luận, bàn bạc những vấn đề được giáo viên đưa ra và mọi thành viên trong nhóm đều có hoạt động tương tác với nhau, các nhóm tương tác với nhau nhằm đạt được mục tiêu học tập.
Hoạt động nhóm là một hoạt động tích cực, đem lại cho học sinh cơ hội được sử dụng các kiến thức, kĩ năng mà các em được lĩnh hội và rèn luyện. Qua hoạt động nhóm các em được diễn đạt những ý tưởng, nêu lên những khám phá của mình, nhờ vậy mà các em mở rộng suy nghĩ và thực hành các kĩ năng tư duy.
Hoạt động nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ năng giao tiếp, tạo điều kiện cho các em học hỏi lẫn nhau, phát huy hết vai trò, trách nhiệm trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể cùng làm những công việc mà một mình các em không thể tự làm được trong một thời gian nhất định. Hình thức hoạt động theo nhóm góp phần hình thành và phát triển các mối quan hệ qua lại giữa học sinh, đem lại bầu không khí đoàn kết, giúp đỡ tin tưởng lẫn nhau trong học tập cũng như trong cuộc sống. Trong dạy học theo nhóm giúp các em nhút nhát, khả năng diễn đạt hạn chế, có điều kiện rèn luyện, học tập. Từ đó tự khẳng định bản thân trong sự hấp dẫn của hoạt động nhóm. Khi dạy học theo nhóm, giáo viên có dịp tận dụng các kinh nghiệm và sự sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập.
Như vậy, qua phân tích ở trên chúng ta thấy được ích lợi của dạy học theo nhóm. Vì vậy, trong dạy học Toán 5 (Giai đoạn học tập sâu). Giáo viên thường áp dụng hình thức dạy học này vào một vài hoạt động như sau:
Ví dụ: Khi dạy bài “Luyện tập về tính diện tích” - Toán 5. Bài tập 2: Tính diện tích của khu đất có kích thước theo hình vẽ dưới đây.
 Giáo viên nêu yêu cầu của bài. 
 - Hướng dẫn học sinh phân tích dữ liệu từ trừ tượng đến cụ thể hoặc ngược lại.
 * Gợi mở: Để tính diện tích hình trên trước hết ta cần có thao tác nào? ( chia hình hay cắt hình)
 - Theo em cắt hình ( chia hình) như thế nào cho khoa học?
 Giáo viên: Khoa học là dựa vào các kích thước cho trước sau khi chia không bắt buộc phải đi chia ra quá nhiều kích thước.
 - Xác định kích thước sau khi chia cắt hình.
Ví dụ: 
(1)
(2)
(1)
(3)
(2)
(3)
 Cách chia 1- Hình 1	Cách chia 2-Hình 2	
 - Đi tìm diện tích hình nhỏ sau đó đến diện tích hình lớn.
 Vậy trong 2 cách chia cách nào khoa học hơn. Cách nào giúp ta tránh được việc đi tìm nhiều kích thước.
 Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm: Từ hình vẽ ban đầu, hãy tìm cách chia hình và trình bày nhiều cách giải khác nhau, tìm ra cách giải thuận tiện.
 Tổ chức thành lập các nhóm (Mỗi nhóm 5 – 6 học sinh, bầu nhóm trưởng, thư ký).
 Các nhóm thực hiện nhiệm vụ (Vào phiếu khổ lớn A2).
 * Học sinh tự lựa chọn cách giải và giải bài toán
 * Học sinh nói lên cách giải bài toán
 Hoạt động chung cả lớp; giáo viên chốt lại các cách làm đúng, giúp học sinh nhận ra cách làm nhanh nhất. Dự kiến:
Cách 1: Cách chia 1- Hình 1
 Bài giải
 Diện tích hình chữ nhật lớn là:
(100,5 + 40,5) x (50 + 30) = 11280 (m2)
 Diện tích hai hình chữ nhật nhỏ là:
 (50 x 40,5) x 2 = 4050 (m2)
 Diện tích khu đất là:
 11280 – 4050 = 7230 (m2)
Đáp số: 7230 m2.
Cách 2: Cách chia 2- Hình 2
 Bài giải 
 Diện tích hai hình chữ nhật lớn là:
 (100,5 x 30) x 2 = 6030 (m2)
 Diện tích hình chữ nhật nhỏ là:
(100,5 – 40,5) x (50 – 30) = 1200 (m2)
 Diện tích khu đất là:
 6030 + 1200 = 7230 (m2)
 Đáp số: 7230 m2.
Như vậy, qua ví dụ trên với việc tổ chức dạy học theo nhóm cùng nhiệm vụ đã tạo ra sự thi đua giữa các nhóm. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, ngay từ khi lập kế hoạch bài dạy thì giáo viên đã dự kiến những kết quả và những khó khăn của học sinh có thể gặp phải qua hoạt động này. 
Ví dụ: Tất cả các nhóm học sinh đều tìm được cách giải khác nhau không?
Các nhóm học sinh đều biết từ hình vẽ ban đầu sẽ vẽ thành một hình mới (Hình 1) để tìm ra cách giải nhanh nhất, thuận tiện nhất hay không?
Vì vậy, người giáo viên có vai trò rất quan trọng, là người tổ chức, hướng dẫn, cố vấn và gợi mở để học sinh tìm được nhiều cách giải, từ đó lựa chọn được cách giải nhanh và thuận tiện. (Cách 1) 
* Vận dụng lí thuyết kiến tạo trong dạy học môn Toán
Để vận dụng lí thuyết kiến tạo trong dạy học toán giai đoạn này, trước hết giáo viên phải hiểu kiến tạo gì? 
 Kiến tạo: Trên cơ sở dựa vào những kiến thức sẵn có của mình, học sinh xây dựng kiến thức mới.
Theo quan điểm của lí thuyết kiến tạo thì mục đích của dạy học không chỉ là truyền thụ kiến thức mà chủ yếu làm thay đổi hoặc phát triển các quan niệm của học sinh, qua đó học sinh kiến tạo kiến thức mới đồng thời phát triển trí tuệ và nhân cách của mình.
 Dạy học kiến tạo là cách thức giáo viên tổ chức các hoạt động cho học sinh, trong đó học sinh là chủ thể tích cực trong việc tiếp thu kiến thức cho bản thân mình dựa trên kiến thức và kinh nghiệm đã có từ trước.
 Mô hình dạy học theo lối kiến tạo:
Ôn tập: Hệ thống kiến thức và kinh nghiệm cần thiết để chuẩn bị cho việc tiếp thu kiến thức mới.
Nêu vấn đề: Xác định mục tiêu cần đạt tới.
Tập hợp các ý tưởng: Đưa ra các giả thiết có thể hướng tới mục tiêu.
Dự đoán: Lựa chọn trong số các giả thiết để tiến hành kiểm tra.
Kiểm tra giả thiết: Trong số các giả thiết vừa lựa chọn ở bước trước ta kiểm tra để xác định tính chính xác, khoa học đã có và cần bổ sung.
Điều chỉnh, loại bỏ giả thiết không có tính khoa học, những điều kiện, giả thiết còn thiếu.
Rút ra kết luận.
Vận dụng: Dạy học theo lối kiến tạo phù hợp với một số hoạt động sau:
Một số hoạt động về giải toán.
Một số hoạt động về ôn tập.
Phù hợp với dạy kiến thức mới trên cơ sở đảm bảo tính vừa sức của học sinh.
Ví dụ: Dạy bài “Hình thang” Toán 5.
Bước 1: Nêu vấn đề
+ Trong các hình dưới đây, hình nào là hình thang?
+ Nêu nhận xét về đặc điểm các cạnh của hình thang?
Bước 2: Tập hợp các ý tưởng của học sinh và đề xuất một ý tưởng chung của cả lớp.
+ Để nhận biết đặc điểm các cạnh của hình thang, cần quan sát xem hình thang có bao nhiêu cạnh.
+ Để nhận biết đặc điểm về các căp cạnh của hìn

Tài liệu đính kèm:

  • docth_93_5525_2021966.doc