Đề bài: Hãy tả ngôi trường thân yêu gắn bó với em trong nhiều năm qua.
Với đối tượng học sinh như đã nêu, tôi dẫn dắt học sinh thực hiện lập dàn ý từ hệ thống câu hỏi khá tỉ mỉ sau:
+ Đề bài yêu cầu chúng ta làm gì? (Tả ngôi trường của em)
+ Đề bài thuộc dạng văn miêu tả nào? (tả cảnh)
+ Hãy nêu cấu tạo của bài văn tả cảnh? (Hs nêu)
+ Em quan sát vào thời gian nào? (buổi sáng khi học sinh chưa đến trường, buổi chiều khi học sinh đã ra về hay trong giờ học,.)
+ Em quan sát bằng những giác quan nào? ( mắt nhìn, tai nghe các âm thanh như tiếng giảng bài của cô, tiếng trống,.tiếng cảnh vật xung quanh như tiếng ve kêu, chim hót,.)
+ Phần mở bài em cần giới thiệu như thế nào? (Hs nêu)
+ Phần thân bài em tả những cảnh nào của trường? ( HS nêu)
+ Phần kết bài, em nêu cảm nghĩ của mình đối với ngôi trường như thế nào?
*Lưu ý: Các em có thể tả cảnh trường vào một thời điểm nhất định hoặc theo thứ tự thời gian trong ngày như sáng đến chiều hay theo mùa. Khi quan sát, các em nên quan sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, nắm được điểm chung và riêng của cảnh, chú ý vào những điểm nổi bật nhất của cảnh. Sự liên quan của cảnh vật đó với cảnh vật xung quanh như con người, chim chóc, thiên nhiên,.
- Tổ chức nhận xét, bổ sung hoàn thiện dàn ý: Để giúp học sinh có một dàn ý hoàn chỉnh, giáo viên cho học sinh đọc dàn ý của mình cho cả lớp nhận xét, bổ sung, giáo viên giúp đỡ để các em hoàn chỉnh dàn ý.
hất lượng học sinh của lớp mình phụ trách. Xác định rõ Tập làm văn là môn học hết sức quan trọng nhưng lại rất khó khăn đối với các em. Điều đó làm tôi suy nghĩ, mày mò tìm các giải pháp để cải thiện chất lượng học phân môn Tập làm văn, đặc biệt là văn miêu tả cho học sinh. Với một số kinh nghiệm của tôi trong những năm dạy học, tôi đã tìm ra những giải pháp, biện pháp sau: 2.1. Bồi dưỡng khả năng cảm thụ văn, thơ của giáo viên: Để học sinh biết viết một bài văn miêu tả hay thì trước hết người giáo viên phải có khả năng cảm thụ, viết văn miêu tả có cảm xúc, giàu trí liên tưởng, khả năng biểu đạt,... Có như vậy mới giúp học sinh cảm thụ và viết ra được những câu văn hay, giàu hình ảnh và cảm xúc. Giáo viên phải thổi được hồn của các sự vật vào trong tâm hồn của các em và truyền cảm hứng cho các em viết văn qua các tiết dạy. Giáo viên phải làm chủ được kiến thức, ngôn từ để diễn đạt trong mọi tình huống ở trong các tiết Tập đọc,...và trong các bài văn của các em viết ra, từ đó mới định hướng, hướng dẫn các em cách tìm ý, dùng từ, đặt câu hay nhận xét, hướng dẫn các em chỉnh sửa trong các tiết trả bài. Để thực hiện được điều đó, giáo viên phải thường xuyên tự bồi dưỡng, tìm tòi, sưu tầm những bài văn hay, tìm hiểu cách viết văn ở các bài văn hay, đọc sách báo nhiều,... 2.2. Hướng dẫn học sinh nắm cấu tạo từng dạng văn miêu tả: Với mỗi dạng văn miêu tả, để giúp học sinh biết cách viết, điều kiện cần đầu tiên là học sinh phải biết được cấu tạo của từng dạng văn miêu tả. Bởi văn tả đồ vật, khác với văn tả con vật, cây cối, tả cảnh,...Thông thường trước khi vào mỗi dạng văn miêu tả thì theo chương trình trong SGK sẽ có một bài tập đọc hay bài chính tả có nội dung viết về văn miêu tả ở dạng này, đây là ngụ ý của SGK, giáo viên cần linh động tích hợp giới thiệu cho học sinh làm quen dần, sẽ giúp các em bớt bỡ ngỡ khi vào tìm hiểu dạng văn này và giúp các em học bài tốt hơn. Ví dụ: Trước khi vào bài “Cấu tạo bài văn tả cảnh”, đầu tuần GSK đã giới thiệu bài: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”,... Để học sinh viết được bài văn miêu tả đảm bảo về cấu trúc và nội dung, giáo viên cần hình thành và giúp học sinh nắm được cấu tạo của từng dạng văn miêu tả. Khi dạy từng dạng cấu tạo của bài văn miêu tả của mỗi bài, ở phần nhận xét đều có một bài văn tả tương ứng. Giáo viên cần cho học sình tìm hiểu kĩ và đưa ra nhận xét về cấu tạo của từng dạng văn. Sau đó cho học sinh nêu cấu tạo của dạng văn miêu tả. Nội dung này đối với học dân tộc thiểu số phải được nhắc đi nhắc lại nhiều lần và được củng cố liên tục ở các tiết sau đó. Ví dụ: Cấu tạo của bài văn miêu tả cảnh Bài văn miêu tả cảnh thường có ba phần: Mở bài: Giới thiệu cảnh sẽ tả Thân bâì: - Tả bao quát (Nhìn từ xa, trông cảnh đó như thế nào?) - Tả chi tiết từng phần của cảnh (Ví dụ: Tả dòng sông thì chọn tả hình dáng: dài, uốn khúc, thẳng tắp,...Màu sắc sông: màu đỏ nặng phù sa...Cảnh hai bên bờ sông : những lũy tre xanh, những rặng dừa trĩu nặng, nhà cửa ven sông Cảnh trên dòng sông: thuyền, ghe, bạn nhỏ tắm sông, lục bình trôi,...Hoạt động của con người trên dòng sông) hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian. 3. Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết. 3. Chọn đề tài gần gũi và có nhiều lựa chọn đối với học sinh. Là đối tượng học sinh dân tộc thiểu số vùng khó khăn nên khả năng tư duy liên tưởng của các em gặp nhiều hạn chế. Vì đời sống sinh hoạt của các em chưa phong phú, khả năng diễn đạt bằng tiếng Việt cũng vậy. Do đó, giáo viên cần phải cân nhắc, lựa chọn đề tài gần gũi với các em thường ngày mà các em hay tiếp xúc và nên đưa ra nhiều dạng đề để các em có nhiều lựa chọn. Ví dụ: Tả cảnh: Cảnh trên sân trường, cảnh nơi em ở,... Tả người : Nên yêu cầu các em tả người thân, bạn bè, thầy cô,.. Có lẽ khó khăn nhất đối với học sinh là viết văn tả cảnh. Chẳng hạn, với đề bài sau: Lập dàn ý bài văn tả cảnh một buổi sáng (trưa, chiều) trong vườn cây (trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy) Đối với đề bài này, giáo viên cần xem xét, định hướng cho các em lựa chọn. Đối với trường tôi, tôi sẽ lựa chọn một trong hai cách: trên cánh đồng hoặc trên nương rẫy. Sau đó tôi tập trung hướng dẫn học sinh cách lập dàn ý: Tả cánh một buổi sáng trên cánh đồng (vì trường tôi nằn gần cánh đồng, học sinh được tiếp xúc nhiều và học sinh cũng vừa được làm quen với bài “Buổi sớm trên cánh đồng” trong SGK). Sau đó tôi mới khuyến khích học sinh có thể chọn và lập dàn ý tả cảnh trên nương rẫy,... tùy vào ý thích và sự hiểu biết của mình. Hay với dạng đề bài tả cảnh sông nước, tôi sẽ hướng dẫn học sinh chọn và tả cảnh bờ hồ nằm ngay cạnh trường,... Lúc đầu, để giúp cho mọi đối tượng học sinh có nhiều cơ hội lựa chọn bài viết và viết được bài tránh để giấy trắng, tôi thường đưa ra dạng đề có nhiều lựa chọn và gần gũi với học sinh. Mức độ đi từ dễ đến khó. Ví dụ: Dạy văn tả người, ban đầu cần đưa ra đề “Tả một người mà em yêu quý”. Sau đó mới nâng dần lên Tả người bạn, tả thầy cô, 2.4. Hướng dẫn quan sát, bồi dưỡng vốn từ và cách dùng từ đặt câu, dùng dấu câu cho học sinh: a. Hướng dẫn quan sát: Trong dạy học học sinh dân tộc thiểu số, muốn học sinh nắm được bài, hiểu được bài thì trực quan là yêu cầu đầu tiên cần phải có. Bởi các em phần lớn chỉ biết tư duy trực quan, chỉ cần lắt léo, trừu tượng một tí là rất khó khăn đối với các em. Các em có quan sát, có nhìn thấy thì mới tìm ra được từ và hiểu đúng nghĩa từ đó. Mặt khác, điều đặc trưng của văn miêu tả là phải trực tiếp quan sát sự vật thì mới viết được bài văn mang sắc thái riêng, gắn với sự vật đó. Nếu không quan sát sự vật theo yêu cầu đề bài mà các em viết thì phần lớn là chép theo văn mẫu hoặc bắt chước người khác viết một cách máy móc. Ví dụ: Tả về mẹ, có em viết: “Mẹ em dong dỏng cao, có nước da ngăm ngăm đen và khuôn mặt hình trái xoan” nhưng trên thực tế thì mẹ em đó nước da trắng và chiều cao khiêm tốn. Hay tả bạn thì bạn nào cũng khuôn mặt trái xoan,... Do đó chúng ta cần hướng dẫn trẻ quan sát và hình thành thói quen quan sát vì muốn miêu tả tốt thì quan sát phải tốt và có được những nhận xét đúng để tìm ra được sự khác biệt, nét đặc trưng của sự vật, hiện tượng để có thể phân biệt sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Vai trò người giáo viên đối với hoạt động này hết sức quan trọng, các em không biết quan sát từ đâu, tìm ý như thế nào? Là người tổ chức hướng dẫn các em cần hướng dẫn các em dựa vào cấu tạo của từng dạng văn miêu tả để quan sát, tìm ý. a. Bồi dưỡng vốn từ: Biết quan sát, cần phải dùng từ như thế nào để miêu tả là rất khó đối với các em. Các em ở đây vốn từ nghèo nàn, thế nên trong dạy học nhiều khi học sinh hiểu bài nhưng khi đứng lên trả lời, không thể nào diễn đạt được. Trong Tập làm văn, khi diễn đạt các em thường dùng sai từ, nhầm lẫn từ do không hiểu nghĩa của từ nên đặt sai chỗ hoặc đôi khi các em dùng từ đặt câu quá thật. Ví dụ: Các câu văn tả bạn, có những em sử dụng từ sai: “ Khuôn mặt tròn giống như hai hòn bi xanh.”; “ Mũi bạn ấy giống như hình trái xoan.”; “Răng to như sữa bò.”; “Bạn rất kính yêu chúng em.”... Hay chỉ liệt kê, dùng từ quá thật “Mũi bạn dài và nhỏ.”; “Cái mũi rất tẹt.”; “ Miệng rất nhỏ.”... Do những tồn tại trên, mỗi đề bài tôi thường gợi ý, hướng dẫn học sinh cách tìm từ ngữ để miêu tả dựa vào sự hiểu biết của mình hoặc giáo viên cung cấp từ mới cho các em. Hướng dẫn các em tìm từ bằng nhiều hình thức như: quan sát thực tế, qua tranh ảnh, xem phim, nhất là qua các phân môn khác của môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu, môn Tập đọc để giúp các em hiểu từ. Khi viết câu, tôi lại hướng dẫn các em cách dùng từ, hiểu từ mình đang dùng, bày cách liên tưởng, tìm hình ảnh so sánh, nhân hóa để viết câu văn cho hay hơn. Chẳng hạn: b. Hướng dẫn học sinh biết cách lựa chọn chi tiết để tả và dùng từ đặt câu: Khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần định hướng và hướng dẫn học sinh lựa chọn chi tiết để tả. Ví dụ: Tả một dòng sông, cần hướng dẫn học sinh chọn các chi tiết như tả cảnh trên sông, tả cảnh hai bên bờ sông, khi tả người cần lựa chọn tả những nét tiêu biểu của người đó. Tả hình dáng không nhất thiết tả tất cả các bộ phận mà biết lự chọn nét tiêu biểu về hàm răng hay mái tóc, để tả. Giáo viên lưu ý học sinh khi tả: Tùy vào từng đối tượng mình tả, quan sát kĩ và lựa chọn từ phù hợp để miêu tả, không thể tả em bé như người lớn được hay tả người lớn lại dùng những từ ngứ tả em bé. Ví dụ, khi tả đôi mắt của cô giáo có em viết: Đôi mắt cô đen lay láy, tròn như hai hòn bi ve. Trong trường hợp này giáo viên cần định hướng cho các em cách dùng từ đặt câu như: Đôi mắt cô to tròn, nhìn chúng em đầy trìu mến, yêu thương hay “Đôi mát cô như biết nói, biết cười,” - Trong quá trình dạy học, trong các tiết trả bài hoặc hướng dấn viết văn, tôi thường yêu cầu học sinh đặt câu với những từ vừa tìm được và đưa ra các trường hợp sử dụng từ chưa đúng để cả lớp phân tích nhận xét, sửa sai. Ví dụ: Trong bài tả em bé chập chững biết đi, có em viết: “ Khi em đi học về, em bay ra đón em, ôm chầm lấy chân em.” Khi phát hiện học sinh viết chưa phù hợp, tôi thường đưa ra cho cả lớp nhận xét, sửa sai và rút kinh nghiệm theo các bước: + Câu văn của bạn viết, có chỗ nào chưa phù hợp, các em cần phải sửa? (Bạn sử dụng từ “bay” để miêu tả hoạt động “chạy” của em bé là không phù hợp) + Chúng ta cần thay từ “bay” bằng từ nào? (thay từ “bay” bằng từ “chạy lon ton”) Học sinh sửa và viết đọc lại câu văn. - Trong khi viết, học sinh thường viết những câu chưa đủ hai thành phần chính, dùng dấu chấm, phẩy chưa đúng hay những câu văn khô khan, thiếu hình ảnh cảm xúc, tôi lại hướng dẫn học sinh cách viết để câu văn hoàn chỉnh và hay hơn. Ví dụ: Trong bài văn tả bạn H Kim, có em viêt: “Cái trán cao, tóc dài ngang vai.” Tôi chép câu văn lên bảng và hỏi: + Câu văn bạn viết đã giàu tính gợi tả chưa hay còn mang tính liệt kê? + Dựa vào đặc điểm của bạn H Kim là một bạn thông minh, nhanh nhẹn, tóc ngang vai hay buộc cao, vầng trán cao. Vậy ta cần thay đổi câu văn này như thế nào, để miêu tả bạn H Kim toát lên được những đặc điểm đó? Sau khi gợi ý cho học sinh nêu, tôi giúp học sinh chỉnh sửa và hoàn chỉnh câu văn có hình ảnh cảm xúc hơn, làm nổi bật đặc điểm của bạn H Kim: “Mái tóc dài chấm ngang vai, luôn được bạn buộc cao như tóc đuôi gà, để lộ vầng trán cao, toát lên vẻ thông minh, nhanh nhẹn vốn có của bạn.” Giáo viên hướng dẫn học sinh cách lựa chọn từ khi tả. Ví dụ từ thường dùng khi làm bài văn tả người: - Tả thân hình, dáng người: Cao, lùn, gầy gò, ốm yếu, nho nhỏ, nhỏ thó, tầm thước, xương xương, mảnh khảnh, dong dỏng, thon thả, đẫy đà, yểu điệu, béo phệ, mập mạp, lực lưỡng, vạm vỡ, trẻ trung, quắc thước,cân đối, gầy guộc, mảnh mai, cường tráng, tiều tuỵ, lụ khụ, uể oải, bụ bẫm - Tả khuôn mặt, diện mạo: Bầu bĩnh, trẻ măng, hồng hào, đen sạm, rám nắng, xanh xao, tái mét, xanh tái như chàm, không còn chút máu, vuông vắn, vuông chữ điền, trái xoan, hốc hác, vô tư, đần độn, thông minh sáng sủa, khôi ngô, khả ái, xấu xí, rỗ như tổ ong, tươi tỉnh, niềm nở, hớn hở, ủ rũ, cau có, bơ phờ, hung tợn, ngờ nghệch khờ khạo, lầm lì, là lạ, đạo mạo, thơ ngây, nhăn nheo, thờ thẫn, đăm chiêu, thiểu não, hiền hậu, dễ thương, - Tả làn da: Nhăn nheo, xanh như tàu lá, bạch tạng, trắng nõn, trắng trẻo, nõn nà, mịn màng, chai cứng, nứt nẻ, rám nắng, sần sùi, tái mét, xanh xao, xanh lét, hồng hào, đỏ thắm, mốc thếch, đen sạm, da bánh mật, ngăm ngăm, ngăm đen, đen đủi, trắng như trứng gà bóc - Tả mắt: Đen huyền, đen láy, trong sáng, u buồn, lung linh, ươn ướt, sắc sảo, đượm buồn, thâm quầng, trắng đục, đỏ ngầu, sáng, lồi, tròn vo, xếch, một mí, mất ốc bươu, trao tráo, ti hí, mắt bồ câu, - Tả cái nhìn của đôi mắt: Đăm đắm, mơ mộng, đắm đuối, dáo dác, trìu mến, mơ màng, chòng chọc, chăm chú, ngơ ngác, hằn học, - Diễn tả tính cách: Nóng nảy, bạo dạn, vị tha, hời hợt,lười nhác, lì lợm, trầm tính, đứng đắn, thật thà, ôn hoà, hiền hậu, vui vẻ, nhút nhát, nghiêm nghị, dè dặt, siêng năng, thận trọng, lỗ mãng, bao dung, nhân hậu, khoác lác, ba hoa, nham hiểm, xảo quyệt, tham lam, ích kỉ, ưa giễu cợt, cau có, gắt gỏng, hấp tấp, khắt khe, láu táu, ít nói, nhã nhặn,... - Diễn tả thái độ: Vui sướng, hớn hở, hân hoan, hả hê, thoả thích, sảng khoái, khoái chí, vui nhộn, vui đáo để, vui mừng, đắc chí, *Giúp các emm biết cách dùng từ miêu tả, liên tưởng, so sánh: - Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách dùng từ miêu tả để giúp các em viết được câu văn sinh động hơn. Ví dụ: Khi tả hoa "nở", từ “nở” chỉ mang tính chất thông báo, mà cần phải sử dụng từ miêu tả như: bung nở, hé nở, xòe nở, bung cánh, hé cánh, xòe cánh,... Từ "xanh" chỉ miêu tả nhưng không gợi tả, cần hướng dẫn học sinh dùng từ gợi tả cho màu xanh: xanh biếc, xanh lam, xanh ngọc, xanh mướt,...Nếu giáo viên chú ý dạy tích hợp Tập làm văn vào trong Tập đọc, Luyện từ và câu thì sẽ giảm bớt được nhiều thời gian trong cung đoạn này. Ví dụ: Màu “vàng” được dùng từ gợi tả rất cụ thể trong bài: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”- Tiếng Việt 5, tập 1, trang 10. - Để câu văn sinh động hơn, giáo viên không chỉ hướng dẫn học sinh cách dùng từ miêu tả mà còn phải hướng dẫn học sinh cách dùng các biện pháp nhân hóa, so sánh mà các em đã được học, đưa vào bài để miêu tả sự vật được sinh động hơn. Rất khó đối với các em là cách liên tưởng để tìm hình ảnh so sánh sự vật. Ví dụ: Tìm từ so sánh với mặt trời thì cần hướng dẫn học sinh: + Mặt trời có hình gì? Giống cái gì? (hình tròn giống như quả cầu) + Mặt trời có màu gì? Giống hình ảnh nào? (đỏ rực, giống như lửa) Dẫn dắt học sinh đặt câu: "Mặt trời thì đỏ rực như quả cầu lửa", Tương tự để có câu: "Mảnh trăng cong cong như lưỡi liềm" - Đối với những học sinh khá, giỏi, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách sáng tạo câu văn bằng cách liên tưởng, so sánh sự vật nâng cao hơn. Ví dụ: Khi miêu tả “Hồ nước lặng yên” thì cho học sinh so sánh với trạng thái "lặng yên" của con người. Giáo viên có thể hỏi: Khi nào con người lặng yên? và học sinh có thể tìm ra được các từ " khi ngủ, khi nhớ, khi buồn, khi mơ mộng, ..." Như vậy, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh viết được rất nhiều câu: Hồ nước lặng im như chìm vào giấc ngủ./Hồ nước lặng im như đang mơ mộng với những đám mây trắng./Hồ nước lặng im như đang buồn bã điều gì./ Hồ nước lặng im như đang nhớ những vì sao lấp lánh buổi đêm.... - Giáo viên cần tổng quát được cách dùng từ ở từng dạng văn miêu tả, để định hướng tốt cho các em khi viết văn: + Tả cảnh thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm, có thể so sánh, nhân hoá làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động; cần bộc lộ cảm xúc trước sự vật được miêu tả trong cảnh. + Tả người thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, âm thanh; từ ngữ chỉ hoạt động, đặc điểm, trạng thái của người; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ tình cảm với người được tả. 2.5. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý và xây dựng đoạn văn phần thân bài: Đây là một hoạt động hết sức quan trong làm văn miêu tả. Thế nhưng một số giáo viên thường bỏ qua giai đoạn này vì bước đầu thì đây cũng là một hoạt động khó đối với học sinh nói chung và đặc biệt là đối với học sinh dân tộc thiểu số vùng khó khăn lại càng khó hơn. Song nếu giáo viên hướng dẫn cụ thể thì các em sẽ làm được, việc này lặp đi lặp lại nhiều sẽ tạo thành thói quen có lợi trong viết văn cho học sinh. Nếu một bài văn mà các em biết cách lập dàn ý trước khi làm bài thì các em đã có định hướng tốt cho bài văn của mình. Bài văn có đầy đủ ý, bố cục chặt chẽ và lâu dần các em sẽ khái quát được cách làm một bài văn khi xác định xong đề bài. Khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý một bài văn tôi thường theo các bước sau: - Xác định đề bài - Nhắc lại cấu tạo bài văn theo đề bài đã cho - Tiến hành hướng dẫn lập dàn ý. Ví dụ: Đề bài: Hãy tả ngôi trường thân yêu gắn bó với em trong nhiều năm qua. Với đối tượng học sinh như đã nêu, tôi dẫn dắt học sinh thực hiện lập dàn ý từ hệ thống câu hỏi khá tỉ mỉ sau: + Đề bài yêu cầu chúng ta làm gì? (Tả ngôi trường của em) + Đề bài thuộc dạng văn miêu tả nào? (tả cảnh) + Hãy nêu cấu tạo của bài văn tả cảnh? (Hs nêu) + Em quan sát vào thời gian nào? (buổi sáng khi học sinh chưa đến trường, buổi chiều khi học sinh đã ra về hay trong giờ học,...) + Em quan sát bằng những giác quan nào? ( mắt nhìn, tai nghe các âm thanh như tiếng giảng bài của cô, tiếng trống,...tiếng cảnh vật xung quanh như tiếng ve kêu, chim hót,..) + Phần mở bài em cần giới thiệu như thế nào? (Hs nêu) + Phần thân bài em tả những cảnh nào của trường? ( HS nêu) + Phần kết bài, em nêu cảm nghĩ của mình đối với ngôi trường như thế nào? *Lưu ý: Các em có thể tả cảnh trường vào một thời điểm nhất định hoặc theo thứ tự thời gian trong ngày như sáng đến chiều hay theo mùa. Khi quan sát, các em nên quan sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, nắm được điểm chung và riêng của cảnh, chú ý vào những điểm nổi bật nhất của cảnh. Sự liên quan của cảnh vật đó với cảnh vật xung quanh như con người, chim chóc, thiên nhiên,... - Tổ chức nhận xét, bổ sung hoàn thiện dàn ý: Để giúp học sinh có một dàn ý hoàn chỉnh, giáo viên cho học sinh đọc dàn ý của mình cho cả lớp nhận xét, bổ sung, giáo viên giúp đỡ để các em hoàn chỉnh dàn ý. Dàn ý bài văn tả ngôi trường Tiểu học Tình Thương: *Mở bài + Trường em mang tên Trường Tiểu học Tình Thương + Ngôi trường chưa khang trang nhưng cảnh vật thật là hiền hòa. *Thân bài + Nhìn từ xa ngôi trường nhỏ bé, yên. + Biển trường xanh đậm, nổi rõ hàng chữ trường Tiểu học Tình Thương màu trắng. + Tường được sơn màu vàng + Sân trường được lát gạch hình chữ T, giữa có lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới. + Bao quanh sân gạch là những bồn hoa được chúng em chăm sóc cẩn thận. + Có 3 dãy phòng học và một dãy phòng chức năng. + Lớp học rộng rãi, thoáng mát, bàn 2 chỗ ngồi, trang trí rất đẹp, có đầy đủ quạt điện, đèn điện, sáng nào chúng em cũng vệ sinh sạch sẽ. +Từ cổng nhìn thẳng vào là dãy phòng chức năng, phòng đầu tiên bên phải là thư viện,... *Kết bài: + Em rất yêu quý và tự hào về trường em + Dù sau này đi xa em vẫn luôn nhớ mãi hình ảnh mái trường thân yêu của em. Tiếp theo, tôi cho học sinh chọn và viết hoàn chỉnh một đoạn văn phần thân bài, tổ chức nhận xét, sửa chữa hoàn chỉnh. Ví dụ: Đoạn văn tả bao quát ngôi trường Ngôi trường nhỏ bé, hiền hòa nằm dưới những hàng cây bạch đàn quanh năm xanh tốt, làm ô che nắng cho chúng em chơi những trò chơi như nhảy dây, bắn bi,... sau những giờ học. .. 2.6. Xây dựng mở bài và kết bài: a. Xây dựng mở bài: Mở bài là phần có vai trò hết sức quan trọng trong mỗi bài văn. Nó thu hút người đọc, người nghe chú ý,tập trung vào bài ngay đầu bài. Có hai cách mở bài: mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Mở bài trực tiếp thì mọi đối tượng học sinh đều có thể thực hiện được. Riêng mở bài gián tiếp ( không bắt buộc) nhưng giáo viên khuyến khích học sinh sử dụng khi làm bài, giúp các em có được bài văn hay hơn, hấp dẫn người nghe hơn. Để giúp học sinh có cách mở bài và kết bài phong phú, đa dạng. Trước hết người giáo viên phải giúp học sinh hiểu Thế nào là mở bài trực tiếp, gián tiếp? + Mở bài trực tiếp: Là giới thiệu trực tiếp sự vật mình định tả + Mở bài gián tiếp: Nói chuyện khác để dẫn vào chuyện (có thể bằng cách đưa ra một mẩu chuyện, một so sánh, một liên tưởng, một câu văn thơ, một âm thanh,... để đi đến điều mình cần giới thiệu). Ví dụ: Cách mở bài khi viết văn tả mẹ “ Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi suốt đời lòng mẹ vẫn thương con.” Ôi! Tình mẹ yêu con chỉ có thể so sánh với biển nước mênh mông. Mẹ! Người em yêu nhất trên đời. (mở bài bằng câu thơ) b. Hướng dẫn học sinh xây dựng kết bài: Cũng như mở bài, kết bài cũng có hai cách đó là kết bài mở rộng và không mở rộng. Để giúp học sinh có cách mở bài và kết bài phong phú, đa dạng. Trước hết người giáo viên phải giúp học sinh hiểu: Thế nào là kết bài mở rộng và không mở rộng? + Kế bài mở rộng: Sau khi cho biết kết cục, có lời bình luận thêm + Kế bài không mở rộng: Cho biết kết cục, không bình luận gì thêm. Ví dụ: Kết bài của một bài văn tả đẹp - Kết bài mở rộng: Mỗi lần ngắm cảnh nơi đây, lòng em lại dâng tr
Tài liệu đính kèm: