Đề tài Một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số độ tuổi 5 - 6 tuổi tại lớp lá 4 trường Mầm non Ea Na

Đề tài Một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số độ tuổi 5 - 6 tuổi tại lớp lá 4 trường Mầm non Ea Na

Để giúp trẻ học ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tôi nghĩ trước hết cần dạy trẻ những kỹ năng chú ý nghe và phát âm thông qua môn văn học là vô cùng cần thiết. Trước khi vào dạy học thơ hay kể một câu chuyện nào đó, điều đầu tiên tôi chú ý là lựa chọn bài thơ, câu chuyện không quá dài, có nội dung hấp dẫn trẻ để cung cấp, vì trẻ dân tộc thiểu số rất hiếu động thời gian tập trung chú ý nghe cô giảng rất ngắn, nắm được điểm yếu này của trẻ vùng dân tộc thiểu số, là giáo viên tôi luôn tạo ra tình huống vui nhộn để lôi cuốn trẻ vào giờ học bằng một giọng nói lúc trầm lúc bổng để gây sự chú ý, khơi gợi tính tò mò của trẻ, đã tạo được tâm thế cho trẻ trước khi vào học tôi tiến hành đi vào giờ học chính bằng ngôn ngữ giới thiệu hấp dẫn từ ngữ thật gần gũi, thật dễ hiểu đối với trẻ, giáo viên đọc thơ hay kể chuyện với giọng thật truyền cảm, phối hợp các động tác minh học phù hợp, để lôi cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu, từng lời của cô, tiếp đến tôi giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một cách ngắn gọn để giúp trẻ dễ hiểu, tôi tiến hành cho trẻ đọc thơ theo tôi từng câu, tôi luôn đổi cách cho trẻ đọc thơ theo lớp tổ, nhóm, cá nhân, hay bạn nam và bạn nữ thi đua nhằm tạo khí thế cho trẻ trong một giờ học thơ, còn đối với chuyện thì cần kể nhiều lần và đàm thoại theo trình tự nội dung câu chuyện, và thể hiện giọng điệu, tính cách của từng nhân vật trong chuyện một cách phù hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính cách của các nhân vật trong chuyện, sau đó tôi tiến hành mời cháu khá lên kể lại chuyện cho cả lớp nghe, tôi không quên khuyến khích trẻ bằng một món quà hay thưởng bằng những tràng pháo tay động viên.

Chính nhờ như vậy học sinh lớp tôi ngày càng ham thích học thơ, kể chuyện, nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số của tôi gặt hái được nhiều thành công hơn so với trước, tôi vô cùng phấn khởi và tiếp tục áp dụng một số biện pháp khác để ngày nâng cao hiệu quả hơn.

 

doc 24 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 25518Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số độ tuổi 5 - 6 tuổi tại lớp lá 4 trường Mầm non Ea Na", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 một ngày. Khi trẻ đã có một số vốn từ nhất định, mức độ tiếp thu ngôn ngữ của trẻ nhanh hơn thì cô giáo có thể dạy trẻ số từ nhiều hơn. Các từ được ôn luyện thường xuyên trong các hoạt động khác nhau, ngữ cảnh, ngôn ngữ khác nhau, trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi có khả năng học thông thạo được từ 600 đến 800 từ tiếng Việt trong một năm.
Việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số, tuỳ theo điều kiện khả năng của từng lớp, từng trẻ để đưa ra các biện pháp tích cực như: Dạy tiếng Việt thông qua chữ cái, kể chuyện, đọc thơ và các hoạt động khác Việc lặp lại các từ chính là để trẻ nghe và ghi nhớ các câu, từ trong từng nội dung bức tranh. Ví dụ: Cô mời bạn Y’ Nêpan đi tìm bức tranh có hình ảnh (người mẹ bế em bé )... Để trẻ làm quen với từ “Mẹ bế em bé”.
2. Thực trạng
Năm học 2016- 2017 toàn trường có 404 học sinh trong đó có 172 học sinh dân tộc thiểu số chiếm 42,5%. Với phần trăm học sinh dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao như vậy, nên lãnh đạo nhà trường đã gặp không ít khó khăn trong công tác triển khai và lên kế hoạch giảng dạy cho các lớp đặc biệt việc phân công giáo viên về đúng lớp tại các lớp có 100% học sinh là dân tộc thiểu số.
* Về ưu điểm
Được sự quan tâm, chỉ đạo của lãnh đạo Phòng GD& ĐT huyện Krông Ana, sự quan tâm chính quyền địa phương và lãnh đạo Nhà trường Mầm non Ea Na, nên phân hiệu buôn Tơ Lơ đã có cơ sở vật chất kiên cố, phòng học thoáng mát sạch sẽ, sân chơi rộng rãi, nhà trường đã đầu tư một số trang thiết bị trong công tác dạy và học. Bên cạnh đó, giáo viên yêu nghề mến trẻ, tận tụy với học sinh, hết lòng hết sức nuôi dạy trẻ.
 Đặc biệt là có sự cần cù chịu khó và tinh thần đoàn kết, giáo viên và sự phối kết hợp giúp đỡ từ phía Hội cha mẹ học sinh. Đã tạo cho trường Mầm non Ea Na yên tâm về mặt tinh thần và ổn định về cơ sở vật chất.
Gây hứng thú cho trẻ hoạt động, có môi trường xanh- sạch- đẹp, tạo được môi trường đảm bảo các hoạt động trong lớp, giúp trẻ có đủ điều kiện để phát triển tiếng Việt.
 Bên cạnh những ưu điểm trên vẫn còn một số tồn tại như sau:
 Lớp lá 4 phân hiệu Buôn Tơ Lơ thuộc trường Mầm non Ea Na là vùng sâu, vùng xa và đặc biệt khó khăn của xa Ea Na. Một số trẻ chưa học qua lớp mầm, chồi, đã học thẳng lên lớp lá như cháu Y- Hur Ayun, Y – Thum Niê, Y- Quy Bkrông chính vì vậy việc nghe và hiểu tiếng Việt của trẻ là rất khó khăn.
Dân cư sống không tập chung, 100% là đồng bào dân tộc Êđê, việc bất đồng ngôn ngữ giữa cô và trẻ, do vậy làm ảnh hưởng đến việc chăm sóc giáo dục trẻ. Địa hình phức tạp việc đi đến lớp học của trẻ mầm non còn gặp nhiều khó khăn.
Mặt bằng kinh tế của người dân còn thấp, chủ yếu làm ruộng, làm rẫy, một số phụ huynh chưa nhận thức được rõ về tầm quan trọng của việc dạy tiếng Việt cho con em mình nó có tác dụng cần thiết như thế nào đối với việc nhận thức và hình thành nhân cách của trẻ.
 Mặt khác, một số phụ huynh không biết chữ, không được học qua trường lớp nào nên khả năng nhận thức của phụ huynh rất hạn chế dẫn đến không quan tâm đến việc học của con em mình. Phụ huynh không kết hợp với giáo viên để chăm lo việc học cho con em mình đạt kết quả tốt hơn
Chính từ những khó khăn đó vào đầu năm học khi tôi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trong công tác dạy học ở lớp Lá 4, chưa có kế hoạch đưa các biện pháp dạy tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số thì chúng ta thấy kết quả thông qua các lĩnh vực thể hiện qua bảng kiểm tra đầu vào như sau:
Lĩnh vực GD trẻ
Trẻ không hiểu
Trẻ hiểu
Trẻ rất hiểu
Phát triển ngôn ngữ
18/27 = 66,6%
6/27 = 22,2%
3/27 = 11,1%
Phát triển nhận thức
16/27 = 59,2%
8/27 = 29,6%
3/27 = 11,1%
Phát triển TC-XH
16/27 = 59,2%
7/27 = 25,9%
4/27 = 14,8%
Phát triển thể chất
13/27 = 48,1%
9/27 = 33,3%
5/27 = 18,5%
Phát triển thẩm mỹ
14/27 = 51,8%
10/27 = 37,0%
3/27 = 11,1%
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến kết quả trên: Do đầu năm cô vẫn chưa có phương hướng về công tác dạy trẻ làm quen tiếng Việt cho trẻ.
Nguyên nhân khách quan: Do môi trường sống tạo ra, trẻ sống trong gia đình, thôn buôn 100% người dân dùng tiếng mẹ đẻ.
 Từ những ưu điểm, khuyết điểm, và nguyên nhân trên đã thôi thúc tôi cần có “Một số biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số độ tuổi 5- 6 tuổi tại lớp Lá 4 trường Mầm non Ea Na”.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
- Hiểu được ngôn ngữ phổ thông.
- Biết lắng nghe và phát âm đúng tiếng Việt.
- Trẻ mạnh dạn tự tin giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ tiếng Việt
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch, lựa chọn hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ làm quen tăng cường tiếng Việt.
 Khi lên kế hoạch dạy trẻ làm quen tăng cường tiếng Việt, trước hết tôi bám sát kế hoạch hoạt động của Nhà trường, trên cơ sở đó tôi xây dựng kế hoạch phù hợp với tình hình của lớp, lựa chọn nội dung cho trẻ làm quen tăng cường tiếng Việt, nhẹ nhang, đi từ dễ đến khó phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
Trước tiên để xây dựng được một kế hoạch tôi dựa trên kế hoạch giáo dục trẻ mầm non, bộ chuẩn phát triển trẻ 5- 6 tuổi, sau đó nhìn vào tình hình thực tế của nhà trường, của lớp để lựa chọn nội dung phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ mình. Khi lựa chọn giải pháp này, tôi phải theo dõi sự phát triển của từng trẻ trong tiết học, ở mọi lúc mọi nơi, để điều chỉnh các yêu cầu về hình thức luyện tập. Hệ thống câu hỏi, đàm thoại từng trẻ giúp trẻ không khó khăn trong việc lĩnh hội kiến thức. 
 Xây dựng các góc hoạt động khác nhau trong lớp, có gắn các từ tiếng Việt nhằm tạo điều kiện cho trẻ hoạt động cá nhân, theo nhóm nhỏ được nhiều hơn, hình thức hoạt động phong phú, đa dạng hơn. Để trẻ học tiếng Việt thực sự có hiệu quả, giúp trẻ tự khám phá và phát triển ngôn ngữ giao tiếp.
Ví dụ: Kế hoạch tổ chức cho trẻ làm quen tăng cường tiêng Việt cho trẻ 5- 6 tuổi. 
 Chủ đề: Trường Mầm non (3 tuần ), tôi chọn các đề tài như sau: Thơ “Bàn tay cô giáo ”. Làm quen chữ cái o- ô- ơ. Sau khi chọn các đề tài phù hợp với chủ đề thì đưa ra yêu cầu với trẻ, với bài thơ “Bàn tay cô giáo ” tôi dựa vào các CS65, CS79, CS112. để đưa ra mục đích yêu cầu với trẻ lớp mình như sau. 
Cô cho trẻ làm quen tăng cường tiếng Việt thông qua tiết dạy thơ bằng cách cho trẻ đọc và phát âm chuẩn từng câu, từng từ trong bài thơ, cô cho trẻ đọc theo lớp, tổ, cá nhân, cô nhấn mạnh những từ khó hiểu và lồng ghép giải thích cho trẻ hiểu ý nghĩa của từ đó, như vậy sẽ giúp trẻ hiểu nhiều hơn ngôn ngữ tiếng Việt, từ đó giúp trẻ định hướng và hình dung được ý nghĩa của từ.
Cần xây dựng các hoạt động học tiếng Việt phù hợp với mục tiêu và yêu cầu giáo dục theo chủ đề.
Ngoài ra khi lên kế hoạch tôi bám sát vào từng tháng, từng mùa, từng sự kiện, hoạt động diễn ra tại địa phương để lựa chọn đề tài cho phù hợp với các ngày lễ hội các sự kiện đang diễn ra (Ví dụ chủ đề: Tết và mùa xuân) phải đưa vào học kỳ II, có năm vào tháng một, có năm vào tháng hai nên phải lựa chọn thời gian diễn ra lễ hội đó để trẻ hòa vào không khí phấn khởi, sây mê tìm hiểu và hứng thú với các hoạt động học, từ đó trẻ lĩnh hội các kiến thức một cách nhẹ nhàng không bị gò bó hay gượng ép, như vậy khả năng tiếp thu bài sẽ nhanh hơn.
Biện pháp 2: Tổ chức các tiết học làm quen tăng cường tiếng Việt nhẹ nhàng lôi cuốn trẻ. 
Giáo viên truyền thụ những kiến thức tăng cường tiếng Việt thông qua các tiết học. Ví dụ cô cho trẻ làm quen với câu “Khai giảng năm học mới ” của chủ đề trường Mầm non. Trước tiên, cô xếp trẻ ngồi sao cho hợp lí với quy trình của phòng học, sau đó cô đưa tranh Ngày Khai giảng năm học mới, trẻ quan sát và cô gợi hỏi: Tranh gì? Từ những câu hỏi gợi mở, cô nhẹ nhàng dẫn dắt trẻ vào hoạt động. Cô cho quan sát từ “Khai giảng năm học mới ”, cô phát âm câu “Khai giảng năm học mới ”, sau đó cả lớp phát âm lại, sau đó đến tổ rồi cá nhân phát âm lại càng nhiều càng tốt. Bên cạnh đó, cô tổ chức một vài trò chơi nhỏ để tiết học không nhàm chán nhưng phải chú ý sửa sai cho trẻ.
Mặt khác để góp phần đưa các biện pháp dạy tiếng Việt cho trẻ mầm non, giáo viên trực tiếp giảng dạy các cháu, tôi đã tổ chức họp tuyên truyền phụ huynh tích cực hợp tác với giáo viên, cùng thống nhất dạy tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Đặc biệt khi trẻ ở nhà các thành viên trong gia đình cần dùng tiếng Việt giao lưu với trẻ thường xuyên. Giáo viên cần phải có trách nhiệm gần gũi trò chuyện với trẻ kết hợp với cử chỉ, hành động để trẻ dần được làm quen với tiếng Việt một cách tự nhiên không gò bó. 
Ví dụ: Thông qua biện pháp trực quan hành động giúp cho người học tiếp thu có hiệu quả và học ngôn ngữ mới một cách tự nhiên hứng thú. Mục đích của phương pháp này nhằm giúp cho người học đạt được các mục đích như: hiểu và sử dụng ngôn ngữ mới trong giao tiếp, hình thành và rèn luyện kỹ năng nghe, nói một ngôn ngữ mới. Không cho trẻ nói khi chưa thực hiện thành thạo được các hành động, để có thể tập trung lắng nghe chuẩn xác. Khi đã nghe rõ, hiểu, thuộc và tự tin làm đúng, trẻ sẽ tự muốn nói và có thể tự thực hành với bạn của mình, giáo viên cần cho trẻ đều được thực hành ở mỗi lần học. Chỉ sử dụng ngôn ngữ đơn giản, ngắn gọn, không dẫn dắt, giảng giải nhiều vì trẻ chưa hiểu tiếng việt.
Khi dạy trẻ, giáo viên cần xác định trước những loại từ, câu nào sẽ sử dụng khi hướng dẫn trẻ. Nên sử dụng các điệu bộ cử chỉ để ra hiệu cho trẻ hiểu ý đồ của mình, thay cho việc nói nhiều của người dạy. Lúc đầu dạy từ 1- 2 từ dễ hiểu kết hợp với hành động như: Đứng lên, ngồi xuống... đến ngày hôm sau cô giáo cần cho trẻ ôn lại những gì được học ngày hôm trước, để khắc sâu sự ghi nhớ bằng hình thức chơi mà không cần phải giữ nguyên thứ tự từ các bước ngày hôm trước dạy nữa ví dụ: Đứng lên- ngồi xuống, ngồi xuống- đứng lên, rửa tay- rửa chân Dạy tiếng Việt với biện pháp trực quan hành động với đồ vật, biện pháp này dạy trẻ các từ mới như: Cái bàn, cái ghế, quyển vở
Ngoài ra, tôi còn sử dụng các biện pháp dạy trẻ học tiếng Việt qua kể chuyện, đóng vai, đối với mỗi câu chuyện, làm các đồ chơi minh hoạ, đơn giản tượng trương cho các nhân vật chính, sử dụng các nhân vật có sẵn để làm đồ dùng minh hoạ. Hoặc trẻ học tiếng Việt thông qua việc dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái tiếng việt. Nội dung chủ yếu của việc dạy này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng chữ cái. Chúng ta có thể coi việc giúp trẻ làm quen với chữ cái là cốt lõi của việc làm quen với tiếng Việt có nghĩa là việc cho trẻ làm quen với chữ cái chưa phải là tất cả những nội dung công việc giúp trẻ làm quen với tiếng Việt. Cách gọi làm quen với tiếng Việt thường gợi ra một phạm vi nội dung rộng rãi hơn so với cách gọi làm quen với chữ cái. Do đó có thể thấy nội dung dạy trẻ làm quen với tiếng Việt không chỉ là dạy trẻ phát âm, dạy trẻ tập tô 29 chữ cái mà còn dạy trẻ đọc đúng các chữ cái, các từ trong tranh, hiểu được nội dung của từ và biết dùng từ để diễn đạt thành câu, muốn được như vậy trước hết ta phải giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái trong tiếng Việt.
Có một số ít trẻ nói được tiếng Việt nhưng chưa biết các chữ cái hay từ ngữ của tiếng Việt. Vì vậy việc dạy trẻ làm quen với chữ cái giúp trẻ nhận biết chính xác cấu tạo của chữ cái, cách phát âm để từ đó trẻ nghe cô phát âm để tìm được chữ cái tương ứng, nhìn chữ cái phát âm được chữ cái.
Ví dụ: Hôm nay cô cho trẻ nhận biết chữ s –x chẳng hạn:
Cô cho trẻ xem tranh " Hoa Sen xanh " cho trẻ đọc từ: Hoa sen xanh
Trẻ nhận biết trong từ Hoa sen xanh có bao nhiêu tiếng ? Có mấy chữ cái ?
Rồi cô ghép thẻ chữ rời cho cháu nhận biết dấu thanh tìm chữ đã học rồi phát âm lại những chữ đó. Còn lại cô giới thiệu cho trẻ làm quen s- x, tôi phân tích các nét cơ bản cấu tạo nên chữ cái s- x, cho trẻ phát âm chữ s- x nhiều lần giúp trẻ khắc sâu cấu tạo của chữ cái và trẻ nhận biết một cách chính xác từng chữ cái.
Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ thông qua việc làm quen với chữ cái:
Sau khi giúp trẻ làm quen và nắm được 29 chữ cái trong tiếng Việt tôi tiến hành cho trẻ tham gia các trò chơi với chữ cái, cho trẻ tập tô chữ cái giúp trẻ dần dần nắm được toàn bộ hệ thống chữ cái qui định trong chương trình, đồng thời chính xác hoá cách phát âm. Do đặc điểm của lứa tuổi nên việc giáo dục trẻ mẫu giáo được tiến hành theo phương châm học mà chơi, chơi mà học. Từ đó tôi luôn nghĩ cần phải phát huy hết tác dụng của các trò chơi để dạy trẻ. Điều đáng chú ý là trẻ mầm non xã Ea Na rất ham thích được học qua hình ảnh trực quan, tổ chức hoạt động học thông qua các trò chơi. Mỗi khi được nhìn thấy đồ dùng, đồ chơi trẻ rất vui, thích tìm hiểu sờ mó và cùng nhau khám phá. nắm bắt được đặc điểm này chúng tôi đã không ngừng học và sưu tầm những trò chơi hay, mới lạ trên báo chí, thông tin đại chúng để đưa vào dạy trẻ phù hợp theo nội dung từng chủ đề.
Ví dụ: Trò chơi tìm chữ cái s- x trong từ “Hoa sen ” Tôi viết bài thơ lên giấy Rô ki (mỗi tờ tranh đã được viết nôi nội dung một bài ), chia lớp thành 2 đội, mời đại diện của 2 đội lên dùng bút tìm và gạch chân chữ s- x có trong các từ trong mỗi câu thơ và đọc chữ cái gạch chân. Đội nào tìm và gạch chân được nhiều chữ s- x thì chiến thắng và được tuyên dương.
Tôi còn cho trẻ nhận biết và phát âm chữ cái qua nhiều trò chơi khác như "Nối chữ cái với từ có chứa chữ cái đó ”, “Tìm chữ cái trong đoạn thơ ” Dạy trẻ phát âm tiếng Việt thông qua trò chơi tìm chữ cái theo yêu cầu của cô"
Tăng cường tiếng Việt thông qua trò chơi gắn chữ cái trên đồ dùng, đồ chơi, “Xếp chữ cái bằng hột hạt ".
"Xếp các nét cơ bản tạo thành chữ cái "...
Bên cạnh đó tôi luôn tranh thủ thời gian tự làm thêm một số đồ dùng đồ chơi để cho trẻ được thực hành trải nghiệm. Tôi thiết nghĩ trẻ được thực hành trải nghiệm nhiều với đồ dùng đồ chơi sẽ giúp trẻ ghi nhớ chữ cái một cách sâu sắc hơn, tập phát âm tiếng Việt một cách chuẩn hơn. Từ đó cũng góp phần không nhỏ vào việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ. Qua một thời gian thực hiện, lớp tôi tiến bộ rõ rệt, trẻ hứng thú trong học tập, nhiều cháu thuộc chữ cái và phát âm đúng chữ cái do tôi cung cấp. Tôi tiến hành lên kế hoạch nghiên cứu và áp dụng việc cung cấp tiếng Việt vào các hoạt động như:
	Tăng cường tiếng Việt cho trẻ thông qua môn văn học:
Để giúp trẻ học ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tôi nghĩ trước hết cần dạy trẻ những kỹ năng chú ý nghe và phát âm thông qua môn văn học là vô cùng cần thiết. Trước khi vào dạy học thơ hay kể một câu chuyện nào đó, điều đầu tiên tôi chú ý là lựa chọn bài thơ, câu chuyện không quá dài, có nội dung hấp dẫn trẻ để cung cấp, vì trẻ dân tộc thiểu số rất hiếu động thời gian tập trung chú ý nghe cô giảng rất ngắn, nắm được điểm yếu này của trẻ vùng dân tộc thiểu số, là giáo viên tôi luôn tạo ra tình huống vui nhộn để lôi cuốn trẻ vào giờ học bằng một giọng nói lúc trầm lúc bổng để gây sự chú ý, khơi gợi tính tò mò của trẻ, đã tạo được tâm thế cho trẻ trước khi vào học tôi tiến hành đi vào giờ học chính bằng ngôn ngữ giới thiệu hấp dẫn từ ngữ thật gần gũi, thật dễ hiểu đối với trẻ, giáo viên đọc thơ hay kể chuyện với giọng thật truyền cảm, phối hợp các động tác minh học phù hợp, để lôi cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu, từng lời của cô, tiếp đến tôi giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một cách ngắn gọn để giúp trẻ dễ hiểu, tôi tiến hành cho trẻ đọc thơ theo tôi từng câu, tôi luôn đổi cách cho trẻ đọc thơ theo lớp tổ, nhóm, cá nhân, hay bạn nam và bạn nữ thi đua nhằm tạo khí thế cho trẻ trong một giờ học thơ, còn đối với chuyện thì cần kể nhiều lần và đàm thoại theo trình tự nội dung câu chuyện, và thể hiện giọng điệu, tính cách của từng nhân vật trong chuyện một cách phù hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính cách của các nhân vật trong chuyện, sau đó tôi tiến hành mời cháu khá lên kể lại chuyện cho cả lớp nghe, tôi không quên khuyến khích trẻ bằng một món quà hay thưởng bằng những tràng pháo tay động viên. 
Chính nhờ như vậy học sinh lớp tôi ngày càng ham thích học thơ, kể chuyện, nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số của tôi gặt hái được nhiều thành công hơn so với trước, tôi vô cùng phấn khởi và tiếp tục áp dụng một số biện pháp khác để ngày nâng cao hiệu quả hơn.
	Cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi:
Thực tế cho ta thấy rằng bất đồng ngôn ngữ là rất khó khăn trong giao tiếp, vì vậy ngoài những biện pháp nêu trên áp dụng có hiệu quả, tôi tiến hành cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ thông qua mọi lúc mọi nơi.
Biệp pháp 3: Sử dụng phương tiện trực quan trong hoạt động làm quen tăng cường tiếng Việt. 
- Sử dụng công nghệ thông tin.
 Để đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của công nghệ thông tin mà ngành Giáo dục đặt ra, khi hoạt động Làm quen tăng cường tiếng Việt cần đầu tư sử dụng có hiệu quả, hơn nữa trẻ mầm non với đặc điểm tư duy trực quan hành động là chủ yếu, khả năng tập trung của trẻ còn ngắn và chưa bên vững nhưng trẻ rất hứng thú với các hình ảnh trực quan minh họa gây ấn tượng tá động đến mọi giác quan như: hình ảnh, âm thanh, màu sắc, sống động  Vì thế, việc ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế và sử dụng giáo án điện từ, cài đặt và sử dụng một số phần mềm vui chơi, học tập đa dạng và phong phú. Sẽ kích thích hứng thú, sự tập trung chú ý và ghi nhớ có chủ định của trẻ vào bài giảng.
 Ví dụ: Cô cho tổ cho trẻ làm quen với từ “con vật sống trong rừng ” qua chủ để thế giới động, cụ thể ở đây cô cho trẻ quan sát hình ảnh con “con voi, con sư tư, con nai ” dưới hình ảnh cô có từ “con vật sống trong rừng ”, cô sẽ tải hình ảnh video và dạy trẻ thông qua máy tính, từ hình ảnh trong đoạn video trẻ sẽ được lôi cuốn bởi những con vật mới lạ, ngộ nghĩnh, kích thích sự tò mò của trẻ, từ đó giúp tập trung trong giờ học, trẻ tiếp thu bài tốt hơn và có hiệu quả hơn, mặt khác thông qua đó trẻ không cảm thấy chán nản và mệt mỏi, mà giúp trẻ chú ý vào giờ học lâu hơn khả năng tiếp thu bài nhanh mà những đồ dùng dạy học khác không thể nào mang lại được.
 Ngoài việc sử dụng công nghệ thông tin cho việc minh họa cho một số bài dạy ở trên lớp, giáo viên còn thiết kế các bài dạy để có thể đàm thoại về nội dung tác phẩm hoặc cho trẻ thể hiện từng đoạn trong tác đề tài dạy tăng cường tiếng Việt.
Biện pháp 4: Tích hợp tăng cường tiếng Việt vào các hoạt động khác trong ngày. 
Như chúng ta đã biết khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm, mau quên nhưng khi đã nhớ được thì lại nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ tiếp xúc với vốn tiếng Việt bằng phương châm “Mưa dầm thấm lâu ” cho nên việc cung cấp ngôn ngữ tiếng Việt ở mọi lúc, mọi nơi vô cùng hiệu quả, ví dụ: Giáo viên luôn vui vẻ, thương yêu trẻ, sửa sang quần áo, chải tóc cho trẻ và không quên kèm theo một số câu hỏi giao lưu như: Con mặc quần áo đẹp quá. Con ăn cơm chưa ? Ăn bao nhiêu cơm ? Ăn với thức ăn gì ? Con ăn có ngon không ? Hay tôi hỏi về gia đình trẻ: Nhà con có bao nhiêu người ? Con có em bé không ? Mẹ con làm nghề gì ?... Qua trò chuyện với trẻ như vậy. Giáo viên sẽ nắm được khả năng phát âm của mỗi trẻ để có biện pháp và giành nhiều thời giờ hơn giúp trẻ phát âm đúng, phát âm chuẩn tiếng Việt.
Giờ chơi tự do tôi hay dẫn trẻ đến các góc trò chuyện và phát âm các từ có trong tranh, từ ở các góc, giáo viên cần dạy trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ phát âm chữ cái có trong tranh con vật, hoa, cây quả có từ mang chữ cái đang học, trẻ đọc qua nhiều lần như vậy. Trẻ dân tộc trường tôi phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn trong giao tiếp với cô, với bạn, bạn biết chỉ cho bạn chưa biết, hoặc mạnh dạn đến hỏi cô, từ đó trẻ không còn rụt rè như trước nữa. Ngoài ra trong giờ hoạt động ngoài trời tôi còn chỉ đạo Giáo viên chủ nhiệm các lớp cho trẻ ôn kiến thức đã học qua trò chuyện, đọc thơ, kể chuyện, chơi các trò chơi dân gian, cho trẻ đọc đồng dao, ca dao trong hoạt động này giúp trẻ phát âm thành thạo hơn, lưu loát hơn. Tạo không khí thân thiện, gần gũi giữa cô giáo và trẻ, vấn đề này đặc biệt cần thiết và không thể thiếu được đối với trẻ dân tộc thiểu số.
Giờ vui chơi tôi cho trẻ đóng các vai khác nhau, trẻ được giao lưu trao đổi mua bán và thể hiện hết vai chơi của mình, bên cạnh đó tôi luôn theo sát trẻ để kịp thời sửa sai uốn nắn mỗi khi trẻ hỏi hoặc trả lời không có trọng tâm

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_h_dra_1058_2021820.doc