Thông thường, bài toán chuyển động đều có công thức và quy tắc để giải. Tuy nhiên học sinh không chú ý tới các đơn vị đo của các đại lượng nên dẫn đến tình trạng sai lầm trong khi làm bài. Do đó tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng giải toán chuyển động đều nhằm phát hiện những khó khăn, những sai lầm mà học sinh mắc phải khi làm bài, thông qua việc làm này, tôi thấy học sinh thường học sinh hay nhầm lẫn các đơn vị đo. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn và giúp đỡ học sinh khắc sâu kiến thức cơ bản trước khi làm một bài tập cụ thể nào đó. Từ các công thức tính vận tốc, quãng đường, học sinh cần xác định được các đơn vị đi kèm : Thời gian là giờ, quãng đường là ki-lô-mét thì vận tốc là km/giờ; Thời gian là phút, quãng đường là mét thì vận tốc là m/phút. .
Tuy nhiên không phải lúc nào học sinh cũng dễ dàng chuyển đổi được đơn vị đo cho phù hợp, lí do là các em đã quen cách đổi số đo thời gian về số tự nhiên hay về số thập phân, do đó các em thường gặp khó khăn trong những bài toán đơn giản.
ớc vào bậc học trên. Để khắc phục được những hạn chế đó, giáo viên phải tìm ra phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh. Vì vậy tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 5 giải toán chuyển động đều” 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài Nghiên cứu, lựa chọn một số biện pháp phù hợp với học sinh để nâng cao chất lượng. Thông qua việc nghiên cứu, khảo sát thực trạng, lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức về số đo thời gian, biết cách tính quãng đường, vận tốc, thời gian trong chuyển động; vận dụng để giải bài toán chuyển động dạng đặc biệt. 3. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng việc dạy và học môn Toán lớp 5 nói chung cũng như giải toán chuyển động đều nói riêng ở trường Tiểu học Y Ngông; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kĩ năng giải toán chuyển động đều cho học sinh. 4. Giới hạm phạm vi nghiên cứu Học sinh lớp 5 trường Tiểu học Y Ngông, xã Dur Kmăn, huyện Krông Ana, tỉnh Đăk Lăk Nội dung chương trình, chuẩn kiến thức kĩ năng và tuyến kiến thức về toán chuyển động đều trong môn Toán lớp 5. 5. Phương pháp ngiên cứu - Nghiên cứu tài liệu - Phương pháp điều tra, thực nghiệm - Phương pháp kiểm tra, đánh giá - Phương pháp đối chiếu, so sánh, tổng kết kinh nghiệm II. Phần nội dung 1. Cơ sở lí luận Mục tiêu dạy học môn toán tiểu học nhằm giúp học sinh có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học, các số tự nhiên, phân số, số thập phân; các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống. Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt chúng, cách phát hiện và cách giải quyết những vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Nội dung về toán chuyển động đều giữ vị trí quan trọng trong môn Toán lớp 5. Nó giúp học sinh có năng lực nhận biết các sự vật, hiện tượng một cách nhanh chóng, lô-gíc và khoa học. Đồng thời toán chuyển động đều còn gắn bó mật thiết với các kiến thức khác như số học, đại số, ...tạo thành môn Toán có cấu trúc hoàn chỉnh và phù hợp với học sinh tiểu học. Với toán chuyển động đều, ta thấy đây là loại toán khó, rất phức tạp, đa dạng và có rất nhiều kiến thức áp dụng vào thực tế cuộc sống. Việc hình thành, rèn luyện, củng cố các kỹ năng giải toán chuyển động đều chiếm thời lượng rất ít nên các em không thể tránh khỏi những khó khăn, sai lầm khi giải loại toán này. Vì thế người giáo viên đóng vai trò quan trọng - là cầu nối học sinh với những kiến thức mới của bài học, giúp học sinh học tốt, nắm vững kiến thức và biết cách giải các bài toán chuyển động đều. Qua đó cũng nhằm bồi dưỡng nâng cao khả năng tư duy và óc sáng tạo của học sinh. 2. Thực trạng vấn đề 2.1 Thuận lợi - khó khăn * Thuận lợi Được sự quan tâm của Lãnh đạo nhà trường, của tổ chuyên môn cũng như sự giúp đỡ của giáo viên trong trường; thường xuyên tham gia các hoạt động như chuyên đề, thao giảng, hội giảng, qua đó trao đổi và rút ra được nhiều kinh nghiệm. Bản thân đã nhiều năm dạy lớp 5 nên cũng đã có một số kinh nghiệm trong giảng dạy. Hơn nữa, học sinh ngoan ngoãn, chăm chỉ cũng là mặt thuận lợi không nhỏ. * Khó khăn Trường Tiểu học Y Ngông đóng trên địa bàn khăn của huyện Krông Ana, cơ sở vật chất còn nhiều thiếu thốn. Hầu hết gia đình các em thuộc diện khó khăn, trình độ dân trí còn thấp nên chưa nhận thức đúng về việc học tập của con em mình. 2.2 Thàng công - hạn chế * Thành công Chất lượng dạy học trong những năm gần đây cũng đã có sự tiến bộ nhờ sự đổi mới trong phương pháp, hình thức dạy học. Giáo viên đã không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao tay nghề, đáp ứng với sự đổi mới trong giáo dục. Khả năng tư duy, tinh thần tự học, tính chủ động, tích cực trong học tập được phát huy. * Hạn chế Chất lượng học sinh nói chung còn hạn chế, một số em đi học chưa chuyên cần nên việc tiếp thu bài gặp nhiều khó khăn. Một số giáo viên vẫn chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp, chưa sáng tạo trong trong giảng dạy. 2.3 Mặt mạnh - mặt yếu * Mặt mạnh Giáo viên đã nắm vững tuyến kiến thức về toán chuyển động đều, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp; biết cách dạy khơi dậy sự sáng tạo, sự tự học của học sinh. Được sự giúp đỡ của giáo viên trong khối cũng như toàn trường, thường xuyên trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy. * Mặt yếu Học sinh của trường chủ yếu là người dân tộc thiểu, khả năng tiếp thu cũng có phần hạn chế, một số nội dung của bài học tương đối khó so với nhận thức của các em. Bên cạnh đó, một số giáo viên cũng còn những hạn chế nhất định về năng lực dạy học. 2.4 Các nguyên nhân - các yếu tố tác động Nhà trường tạo cơ sở vật chất đảm bảo cho quá trình dạy học. Tổ chuyên môn cũng thường xuyên tạo điều kiện để tham gia các buổi tập huấn, chuyên đề nâng cao trình độ chuyên môn. Bản thân là giáo viên giảng dạy lớp 5 nhiều năm nên có kinh nghiệm trong việc lựa chọn các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Học sinh chủ yếu là người dân tộc thiểu số, hoàn cảnh gia đình các em còn gặp rất nhiều khó khăn, nhận thức còn nhiều hạn chế. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc phối hợp với gia đình trong việc giáo dục các em. 2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Trường Tiểu học Y Ngông đóng trên địa bàn khăn của huyện Krông Ana. Tỉ lệ học sinh dân tộc thiểu số chiếm đa số, nhận thức của các em còn hạn chế. Hầu hết gia đình các em thuộc diện có hoàn cảnh khó khăn, các em thường nghỉ học để phụ giúp gia đình lao động. Đi học không chuyên cần dẫn đến các em bị hổng kiến thức các môn học nói chung và môn Toán nói riêng. Hơn nữa, gia đình chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của các em, khả năng tư duy của các em còn hạn chế. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến các em gặp khó khăn trong việc tiếp thu bài. Bên cạnh những khó khăn đó thì còn có những mặt thuận lợi nhất định như được sự quan tâm, chỉ đạo, hướng dẫn sát sao của nhà trường, chuyên môn, được sự góp ý rút kinh nghiệm của bạn bè đồng nghiệp qua các hoạt động chuyên môn như thao giảng, hội giảng, chuyên đề; học sinh trong lớp đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học bài. Xuất phát từ vấn đề và thực trạng đó đòi hỏi người giáo viên phải làm gì để nâng cao chất lượng giáo dục các môn học nói chung cũng như môn Toán nói riêng là việc làm cần thiết và thường xuyên. 3. Giải pháp, biện pháp 3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Vận dụng và lựa chọn các giải pháp, biện pháp dạy học phù hợp với tuyến kiến thức toán chuyển động đều nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Thông qua đó, giúp học sinh nắm vững kĩ năng giải toán chuyển động đều, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Toán. Tạo được không khí vui tươi, khích lệ học sinh tích cực, chủ động trong học tập. 3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp 3.2.1 Hướng dẫn nắm vững về đơn vị đo Thông thường, bài toán chuyển động đều có công thức và quy tắc để giải. Tuy nhiên học sinh không chú ý tới các đơn vị đo của các đại lượng nên dẫn đến tình trạng sai lầm trong khi làm bài. Do đó tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng giải toán chuyển động đều nhằm phát hiện những khó khăn, những sai lầm mà học sinh mắc phải khi làm bài, thông qua việc làm này, tôi thấy học sinh thường học sinh hay nhầm lẫn các đơn vị đo. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn và giúp đỡ học sinh khắc sâu kiến thức cơ bản trước khi làm một bài tập cụ thể nào đó. Từ các công thức tính vận tốc, quãng đường, học sinh cần xác định được các đơn vị đi kèm : Thời gian là giờ, quãng đường là ki-lô-mét thì vận tốc là km/giờ; Thời gian là phút, quãng đường là mét thì vận tốc là m/phút. ..... Tuy nhiên không phải lúc nào học sinh cũng dễ dàng chuyển đổi được đơn vị đo cho phù hợp, lí do là các em đã quen cách đổi số đo thời gian về số tự nhiên hay về số thập phân, do đó các em thường gặp khó khăn trong những bài toán đơn giản. Ví dụ : Một người đi xe máy trong 1 giờ 40 phút với vận tốc 35 km/giờ. Tính quang đường người đi xe máy đã đi. Đối với dạng toán này, học sinh sẽ đổi phút thành giờ ( 40 phút = ....giờ) bằng cách lấy 40: 60(kết quả là phép chia có dư). Vì quen cách đổi về số tự nhiên hoặc số thập phân mà quên không đổi về phân số nên các em đã mắc phải một số sai lầm không đáng có. Trong trường hợp này, giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện theo gợi ý sau : Chuyển phép chia 40 : 60 thành = . Đổi 1giờ 40 phút ra giờ. Nếu phép chia có dư thì kết quả để ở dạng phân số. Với cách hướng dẫn, gợi ý, học sinh sẽ giải được bài toán như sau : Đổi : 1 giờ 40 phút = 1 giờ = giờ Quãng đường người đi xe máy đã đi là : 35 x = (km) Đáp số : (km) Với dạng toán này, yêu cầu của bài đặt ra là tìm một trong các đại lượng vận tốc, quãng đường, thời gian. Trong đó có những đại lượng muốn tìm phải dựa vào dữ liệu đã cho. Ví dụ : Một con ngựa chạy đua trên quãng đường 15 km hết 20 phút. Tính vận tốc của con ngựa đó với đơn vị đo là m/phút. Đối với bài tập này, học sinh thường nhầm lẫn là có đủ dữ liệu, chỉ cần thay vào công thức sẽ được kết quả ( vận tốc là 15 : 20 = 0,75m/phút). Các em thường quên mất rằng đơn vị quãng đường đã cho chưa tương ứng với đơn vị vận tốc cần tìm. Với dạng bài này, giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán như sau : s = 15 km = .... m ? t = 20 phút v = .?.. m/phút Thông qua việc tóm tắt bài toán, học sinh sẽ biết để có đơn vị đo vận tốc là m/phút thì đơn vị quãng đường phải là mét. Từ đó học sinh sẽ đổi đơn vị ki- lô-mét thành đơn vị mét để giải bài toán. Đổi : 15km = 15000 m Vận tốc chạy của con ngựa là : 15000 : 20 = 750 (m/phút) Đáp số : 750 m/phút Để giúp học sinh khắc phục những nhầm lẫn khi giải các dạng bài tập này, giáo viên cần khắc sâu kiến thức ngay trong bài học, củng cố lại trong các bài tập, tạo cho học sinh có thói quen cẩn thận khi làm toán. 3.2.2 Đưa các bài toán chuyển động đều về từng dạng để giải Đối với toán chuyển động đều, có những bài toán chuyển động cần sự suy luận, phán đoán thì mới tìm ra hướng giải. Tuy nhiên sự suy luận của các em còn hạn chế, hơn nữa, đây là loại toán khó nên các em rất khó xác định và giải. Do đó giáo viên cần hướng dẫn, giúp các em đưa các bài toán về từng dạng và có cách giải, theo đó có một số dạng toán chuyển động cơ bản sau : * Dạng toán chỉ có một chuyển động tham gia Với dạng toán chuyển động chỉ có một chuyển động tham gia, khi cho biết hai đại lượng, yêu cầu phải tìm một đại lượng còn lại, thường thì phải giải bài toán phụ để tìm đại lượng còn lại. Ví dụ : Một ô tô đi từ A lúc 7 giờ 30 phút và đến B lúc 12 gời 15 phút với vận tốc 46km/giờ. Tính quãng đường AB. Yêu cầu của bài này là tính quãng đường khi biết vận tốc và thời gian, tuy nhiên học sinh lại nhầm lẫn và không biết cách tính thời gian ô tô đi hết quãng đường. Do đó giáo viên gợi ý, hướng dẫn học sinh như sau : Tìm thời gian ô tô đi hết quãng đường (Lấy thời gian đến nơi trừ đi thời gian bắt đầu xuất phát). Đơn vị thời gian tương ứng với đơn vị vận tốc km/giờ (là giờ ). Qua sự hướng dẫn, học sinh có cách giải bài này như sau : Thời gian ô tô đi hết quãng đường AB là : 12 giờ 15 phút - 7 giờ 30 phút = 4 giờ 45 phút Đổi : 4 giờ 45 phút = 4,75 (giờ) Độ dài quãng đường AB là : 46 x 4,75 = 218,5 (km) Đáp số : 218,5 km Từ bài toán trên, các em sẽ rút ra được cách tính thời gian đối với loại toán này như sau : Thời gian đi = thời gian đến nơi - thời gian đầu xuất phát. Từ đây giáo viên sẽ hướng dẫn giúp học sinh rút ra được một số công thức : Thời gian đi = thời gian đến - thời gian xuất phát - thời gian nghỉ. Thời gian đến nơi = thời gian xuất phát + thời đi + thời gian nghỉ. Thời gian khởi hành = thời gian đến nơi - (thời gian đi + thời gian nghỉ) Ví dụ: Một ô tô đi từ Hà Nội lúc 6 giờ 15 phút và đến Hải phòng lúc 8 giờ 56 phút. Vận tốc của ô tô là 45 km/giờ. Giữa đường ô tô nghỉ 25 phút. Tính quãng đường từ Hà Nội đến Hải phòng. Với bài này, yêu cầu học sinh tính quãng đường khi biết vận tốc, còn muốn tìm thời gian thì phải giải bài toán phụ. Giáo viên hướng dẫn, gợi ý bằng tóm tắt sau : Quãng đường = vận tốc x thời gian đi thực tế = 45 x ? Nhìn vào sơ đồ và cách tính thời gian nêu trên, học sinh sẽ giải được bài toán như sau : Thời gian thực tế ô tô đi từ Hà Nội đến Hải Phòng là : 8 giờ 56 phút - (6 giờ 15 phút +25 phút) = (giờ) Quãng đường từ Hà Nội đến Hải Phòng là : 45 x = 102 (km) Đáp số : 102 km * Dạng toán có từ hai chuyển động Trong toán chuyển động đều thì đây là dạng khó và phức tạp nhất, bởỉ vì muốn tìm đại lượng chưa biết trong dạng toán này, học sinh phải suy luận và có thể phải đặt giả thiết khi giải. Một điều khó khăn là dạng toán này các em được học rất ít nên không có điều kiện luyện tập. Dạng toán này có rất nhiều loại như : Chuyển động cùng chiều, chuyển động ngược chiều, chuyển động trên dòng nước, ..... Để học sinh nắm được cách giải, giáo viên sẽ lựa chọn, hướng dẫn học sinh tìm và đưa các bài toán đó về từng loại cụ thể để giải. Ví dụ : Một xe máy đi từ A lúc 8 giờ 37 phút với vận tốc là 36 km/giờ. Đến 11 giờ 7 phút một ô tô cũng đi từ A đuổi theo xe máy với vận tốc 54 km/giờ. Hỏi ô tô đuổi kịp xe máy lúc mấy giờ. Giáo viên hướng dẫn học sinh bằng hệ thống câu hỏi gợi ý sau : + Đây là loại toán nào ? (Loại toán chuyển động cùng chiều, không cùng lúc, cách nhau một khoảng cách cho trước, tìm thời điểm gặp nhau) + Khi xe ô tô bắt đầu đi thì cách xe máy bao nhiêu km ? (Xe máy xuất phát trước ô tô bao nhiêu thời gian, vận tốc xe máy là bao nhiêu ? + Sau mỗi giờ, ô tô gần xe máy bao nhiêu km ? + Sau bao lâu ô tô đuổi kịp xe máy ? + Ô tô đuổi kịp xe máy lúc mấy giờ ?( giờ khởi hành cộng với thời gian ô tô đi để đuổi kịp xe máy) Từ gợi ý, hướng dẫn học sinh giải như sau : Thời gian xe máy đi trước ô tô là : 11 giờ 7 phút - 8giờ 30 phút = 2 giờ 30 phút ( 2,5 giờ) Đến 11giờ 7 phút xe máy đã đi được quãng đường là : 36 x 2,5 = 90 (km) ( Bài toán đưa về loại chuyển động cùng chiều, đuổi nhau) Ô tô xe máy Nơi gặp nhau A 90 km B C Sau mỗi giờ, ô tô gần xe máy là : 54 - 36 = 18 (km) Thời gian ô tô đuổi kịp xe máy là : 90 : 18 = 5 (giờ) Ô tô đuổi kịp xe máy lúc : 11 giờ 7 phút + 5 giờ = 16 giờ 7 phút Đáp số : 16 giờ 7 phút Từ bài toán trên cho thấy, khoảng cách cho trước chính là quãng đường mà xe máy đã đi trước khi ô tô xuất phát. Thời gian để ô tô đuổi kịp xe máy chính là khoảng cách giữa hai xe chia cho hiệu vận tốc. Bài toán đưa về loại chuyển động cùng chiều, đuổi nhau, tìm thời điểm (lúc) gặp nhau. Qua đó ta có công thức cho loại toán này như sau : Thời gian đuổi kịp là : t = s : (v1 - v2 ) với v1 > v2 , s là khoảng cách 2 chuyển động Với loại chuyển động ngược chiều thì thì Thời gian đuổi kịp là : t = s : (v1 + v2 ) s là khoảng cách 2 chuyển động Ngoài chuyển động cùng chiều, ngược chiều thì trong chương trình còn có loại toán đặc biệt, đó là loại chuyển động trên mặt nước, loại toán tương đối khó nên giáo viên cần giúp các em hiểu bản chất của lạoi toán này. Ví dụ : Một thuyền máy đi xuôi dòng từ bến A đến bến B. Vận tốc của thuyền khi nước lặng là 22,6km/giờ và vận tốc dòng nước là 2,2km/giờ. Sau 1 giờ 15 phút thì thuyền máy đến B. Tính độ dài quãng sông AB. Bài toán này có yếu tố vận tốc của dòng nước nên làm thay đổi vận tốc thuyền máy khi đi xuôi dòng và ngược dòng. Nếu không để ý yếu tố này thì học sinh tìm quãng đường bằng cách lấy vận tốc thuyền nhân với thời gian. Để học sinh giải bài toán này, giáo viên cần hướng dẫn, gợi mở để các em tìm ra cách giải. Nếu khi nước chảy thì vận tốc thuyền xuôi dòng tính như thế nào ? (vận tốc thuyền cộng vận tốc dòng nước) Vậy độ dài quãng sông AB là bao nhiêu ? Bài giải như sau : Đổi 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ Vận tốc thuyền máy khi xuôi dòng là : 22,6 + 2,2 + 24,8 (km/giờ) Độ dài quãng sông AB là : 24,8 x 1,25 = 31 (km) Đáp số : 31 km Với bài toán minh họa trên, giáo viên tiếp tục lựa chọn một số bài toán điển hình khác để hướng dẫn và giúp các em hiểu, nắm bắt và giải được, đồng thời rút ra kết luận : Nếu vật chuyển động ngược dòng thì có lực cản của dòng nước. Từ đó có các công thức cho loại toán này như sau : + Vận tốc xuôi dòng = vận tốc vật + vận tốc dòng nước. + Vận tốc ngược dòng = vận tốc vật - vận tốc dòng nước. + Vận tốc dòng nước = (vận tốc xuôi dòng - vận tốc ngược dòng) : 2 + Vận tốc vật = (vận tốc xuôi dòng + vận tốc ngược dòng) : 2 + Vận tốc xuôi dòng - vận tốc ngược dòng = vận tốc dòng nước x 2 Như vậy, với loại toán chuyển động đều có từ hai chuyển động là loại toán khó, do đó giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ, gợi mở để học sinh tìm ra hướng giải, từ đó các em mới có thể nhớ và khác sâu kiến thức hơn. 3.3 Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp Giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, Chuẩn Kiến thức, kỹ năng của môn học và từng bài học cụ thể. Thực hiện tốt dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học. Linh hoạt lựa chọn các hình thức giảng dạy sao cho phù hợp với đối tượng học sinh, bảo đảm tất cả học sinh đều có cơ hội tham gia và tiếp thu được nội dung cơ bản của bài học. Giáo viên không ngừng học hỏi, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. 3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp, biện pháp được nêu trong đề tài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có sự thống nhất và có mục tiêu là hướng học sinh vào quá trình học tập. Giải pháp thứ nhất là tiền đề, là cơ sở giúp giáo viên thực hiện tốt giải pháp thứ hai và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Giáo viên cần linh hoạt khi thực hiện các giải pháp, biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học và tạo hứng thú trong học tập. 3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Thực hiện đề tài này đã mang lại những hiệu quả nhất định như học sinh nắm vững kiến thức về số đo thời gian, biết cách tính quãng đường, vận tốc, thời gian trong chuyển động; vận dụng để giải một số bài toán chuyển động dạng đặc biệt. Không những thế, các em còn rất hứng thú, tích cực và chủ động trong học tập. Năm học 2014 -2015, kết quả khảo nghiệm lớp chưa áp dụng đề tài so với lớp đã áp dụng đề tài đều như sau : Nắm vững công thức và đơn vị đo Vận dụng giải các dạng toán Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Lớp chưa áp dụng 10 9 8 11 Tỉ lệ % 52,6 47,4 42 58 Lớp đã áp dụng 18 6 15 9 Tỉ lệ % 75 25 62,5 31,8 4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Thông qua kết quả khảo nghiệm, giáo viên nắm chắc được các phương pháp dạy học toán chuyển động đều cũng như các phương pháp khác và các kiến thức về toán chuyển động đều trong chương trình môn Toán lớp 5. Chuẩn bị, nghiên cứu tài liệu, phương tiện dạy học góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học, trong đó giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn, còn học sinh là người chủ động, tích cực trong quá trình học tập để tìm ra kiến thức, kĩ năng. Các giải pháp, biện pháp đề tài nghiên cứu đã có tác động tích cực đến đội ngũ giáo viên trong trường; tạo được môi trường học tập vui tươi giữa thầy và trò, khích lệ và khơi dậy được sự tích cực, chủ động để tất cả học sinh tham gia vào quá trình học tập, nắm vững và khắc sâu các kiến thức về toán chuyển động đều, biết vận dụng để làm bài tập, áp dụng vào giải các bài toán chuyển động đều liên quan đến thực tế đời sống. III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Môn Toán lớp 5 chiếm một thời lượng lớn trong chương trình và đóng vai trò quan trọng, nó cung cấp những kiến thức cơ bản về số học, các yếu tố hình học, đo đại lượng, giải toán. Trong đó toán chuyển động đều là tuyến kiến thức khó cần khả năng suy luận, giải quyết vấn đề có căn cứ khoa học, chính xác. Nó còn giúp học sinh phát triển trí thông minh, tư duy độc lập sáng tạo, kích thích óc tò mò, tự khám phá và rèn luyện một phong cách làm việc khoa học. Đối với giáo viên, muốn nâng cao hiệu quả dạy học
Tài liệu đính kèm: