* Biện pháp 1: Lồng ghép Giáo dục sức khỏe răng miệng bằng vào chương trình giáo dục chính khóa và ngoại khóa của trường.
Khi đã nắm vững những kiến thức về chăm sóc răng miệng, trong chuyên đề giảng dạy về sức khoẻ dinh dưỡng, bản thân đã chú trọng giáo dục cho trẻ những kiến thức cơ bản về răng miệng, giúp trẻ hiểu được vai trò, chức năng của răng, cách giữ gìn vệ sinh răng miệng và phòng ngừa các bệnh về răng miệng. Để thu hút sự hứng thú của trẻ và giúp trẻ dễ dàng tiếp cận, lĩnh hội được những vấn đề cần truyền đạt, bản thân đã thực hiện các hoạt động sau:
Tư duy của trẻ trong giai đoạn này là trực quan hình ảnh, có điều kiện quan sát, trẻ sẽ khắc sâu vào trí nhớ. Vì vậy tôi đã tiến hành sưu tầm tranh, ảnh về răng miệng và đưa vào giảng dạy để giúp bé tìm hiểu thế nào là răng sâu, răng hỏng, thế nào là quy trình đánh răng đúng cách.
Trang trí các tranh ảnh về vệ sinh răng miệng ở góc chơi bác sỹ, trong phòng vệ sinh để bé nhìn thấy thường xuyên. Bên cạnh đó, tôi còn cho bé xem những băng hình có cảnh các bạn đánh răng để bé bắt chước theo những hình ảnh mà bé vừa xem được.
Cho trẻ thấy những tác nhân gây bệnh về răng miệng như mảng bám, vi khuẩn, những thói quen sinh hoạt ảnh hưởng đến răng như ăn uống thức ăn quá nóng hoặc quá lạnh, ăn nhiều đồ ngọt.
Bằng những phương pháp trên, đã phát huy tính tích cực, chủ động tìm tòi, khám phá của trẻ, giúp trẻ tiếp cận nhanh hơn và có thêm sự hiểu biết về cách giữ gìn vệ sinh răng miệng, nguyên nhân gây ra một số bệnh về răng miệng và cách phòng tránh, đồng thời góp phần giúp trẻ hứng thú hơn với việc chăm sóc răng miệng.
ao quanh răng giúp cho răng chắc, khỏe nếu lợi không tốt sẽ chảy máu, vi khuẩn dễ xâm nhập vào răng và xương dây chằng làm răng dễ lung lay, dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ. Đối với trẻ em, hai hàm răng của trẻ gồm răng sữa là chủ yếu và tồn tại cho đến 6-7 tuổi mới bắt đầu thay răng vĩnh viễn; răng sữa nhỏ, lớp men mỏng và mềm nên dễ bị vỡ, dễ bị sâu và sún. Do đó, việc giữ gìn vệ sinh răng miệng hàng ngày rất quan trọng, trước hết, giúp hàm răng sạch, chắc, khoẻ; tiếp đó sẽ giúp cơ thể được khoẻ mạnh, không có bệnh tật, phát triển tốt hơn. Vì vậy cần phải chú ý chăm sóc cho trẻ ngay từ chiếc răng đầu tiên, duy trì thói quen bảo vệ miệng ngay từ khi còn nhỏ để lớp trẻ trưởng thành sẽ có bộ răng hoàn chỉnh. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu: * Ưu điểm, hạn chế của vấn đề nghiên cứu: *Ưu điểm của vấn đề nghiên cứu: Nhà trường đã chú trọng quán triệt đến toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường các văn bản của Đảng, Nhà nước và của ngành về phát triển giáo dục toàn diện, tích cực đổi mới phương pháp dạy và học nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục mầm non. Thường xuyên phổ biến nâng cao kiến thức cho cán bộ, giáo viên về y học thường thức, về vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch, chăm sóc sức khoẻ nhằm đảm bảo cho các cháu phát triển lành mạnh về cả thể chất và tinh thần. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giáo viên luôn được quan tâm, hàng năm nhà trường đều tạo kiện cho cán bộ, giáo viên đi học tập, tham gia các lớp bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do đó, chất lượng đội ngũ giáo viên của trường ngày càng được nâng cao. Bản thân luôn tìm tòi học học các phương pháp giúp trẻ thích và có thói quen bảo vệ răng miệng. Học cách đánh răng sao cho hiệu quả nhất, vệ sinh nhất. Đến nay, tổng số cán bộ, giáo viên của trường là 29, trong đó: đạt chuẩn 100% trên chuẩn 66,7%. Bên cạnh đó tập thể, đội ngũ cán bộ, giáo viên nhà trường luôn giữ vững sự đoàn kết thống nhất, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, tích cực học hỏi, nêu cao tinh thần trách nhiệm, phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn. Chương trình Nha Học Đường đã triển khai đến các bậc cha mẹ học sinh về tầm quan trọng của việc chăm sóc răng miệng cho trẻ Trẻ đã có ý thức về việc bảo vệ răng miệng, có sự tiến bộ trong thực hiện các thao tác chải răng theo quy trình, từng bước hình thành thói quen, nền nếp chải răng sau khi ăn và trước khi đi ngũ *Hạn chế của vấn đề nghiên cứu Trẻ ở tuổi mẫu giáo chưa sớm ý thức trong việc chăm sóc răng miệng, chưa biết cách bảo vệ và phòng chống sâu răng nhưng lại có thói quen ăn đồ ăn có hàm lượng đường cao. Vì thế, các em thường hay bị bệnh răng miệng. Một số phụ huynh chưa nắm được quy trình chải răng một cách khoa học nên chưa hướng dẫn trẻ chải răng ở nhà, một số phụ huynh còn có thói quen ăn uống gây ảnh hưởng không tốt tới răng, nên chưa làm gương được cho trẻ noi theo. *Các nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu - Nguyên nhân ưu điểm của vấn đề nghiên cứu: + Nguyên nhân khách quan: Ngày nay, đời sống vật chất tinh thần được nâng cao, các bậc cha mẹ học sinh có nhiều điều kiện để quan tâm, chăm sóc sức khoẻ cho con em mình. Mặt khác, phụ huynh và học sinh thường xuyên được tiếp cận với các chương trình quảng cáo, truyền thông về chăm sóc, giữ gìn vệ sinh răng miệng trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, tivi nên đa số đã có sự thay đổi về tư duy, nhận thức và hành động. + Nguyên nhân chủ quan: Được sự quan tâm lãnh đạo sát sao sự chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Ban giám hiệu nhà trường trong công tác chăm sóc sức khoẻ cho trẻ mầm non. Bên cạnh đó, bản thân luôn tích cực, chủ động học hỏi, nêu cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được phân công, luôn chú trọng công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho trẻ, đã tiếp thu sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của lãnh đạo Nhà trường và vận dụng linh hoạt, có trọng tâm, cung cấp đầy đủ kiến thức về chăm sóc sức khoẻ cho trẻ, lồng ghép vào chương trình giáo dục phù hợp với tình hình thực tiễn và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nhằm mang lại hiệu quả cao. Bản thân tôi luôn tuyên truyền tới các bậc cha mẹ học sinh biết được tầm quan trọng của việc chăm sóc, vệ sinh răng miệng. * Nguyên nhân hạn chế của vấn đề nghiên cứu: - Nguyên nhân khách quan: Trường Mầm non Cư Pang là một đơn vị đóng trên địa bàn xã Ea Bông thuộc xã đặc biệt khó khăn. Hơn 90% trẻ là người dân tộc thiểu số, hơn 50% trẻ thuộc hộ nghèo chưa có ý thức phòng bệnh răng miệng cho con, Sự phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình trong chăm sóc sức khoẻ răng miệng cho trẻ có lúc chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên. Mặc dù trường đã có phòng y tế, tuy nhiên cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế phục vụ cho khám và điều trị bệnh về răng miệng chưa được quan tâm đầu tư, việc theo dõi, tổ chức khám răng định kỳ cho trẻ chưa thường xuyên. Chương trình Nha Học Đường tuy đã triển khai khá lâu nhưng vẫn còn chưa sâu rộng và thường xuyên, hiệu quả chưa cao. Vì vậy dẫn đến tình trạng nhiều trẻ chưa được chăm sóc răng chu đáo.Còn một số trẻ thực hiện thao tác đánh răng không đúng qui trình, chưa có thói quen và tự giác và chỉ thực hiện khi cô giáo, bố mẹ nhắc nhở. Mẹ ép lắm, thúc giục lắm thì mới chải, còn không thì cứ “hồn nhiên” trước khi đi ngủ vẫn còn len lén lấy mấy chiếc kẹo ra để ngậm. Một số phụ huynh còn chưa quan tâm, nhắc nhở trẻ, hướng dẫn trẻ thực hiện chải răng hàng ngày, còn quan niệm ‘lớn lên sẽ tự biết làm”. Chủ quan như thế nên mãi đến khi trẻ xuất hiện những chiếc răng bị sâu, đau mất ăn mất ngủ, phụ huynh mới chịu nghĩ đến việc cho trẻ đi khám răng, đi bác sĩ. Nhiều phụ huynh còn cho rằng việc trẻ sâu răng, sún răng là rất tự nhiên - Nguyên nhân chủ quan: Đối với nhà trường: Chưa thành lập được nha học đường, do khó khăn về nguồn kinh phí hoạt động, nên việc trang bị thiết bị y tế, thuốc men còn hạn chế, chưa thể chủ động khám phát hiện và điều trị sớm các bệnh về răng miệng cho trẻ tại trường mà cần phải có sự phối hợp với các cơ quan chuyên môn như Phòng y tế, Trung tâm y tế dự phòng huyện Bên cạnh đó, cán bộ làm công tác y tế học được chưa được đào tạo, tập huấn về lĩnh vực nha khoa. Đối với phụ huynh và học sinh: Khả năng tiếp thu của từng học sinh khác nhau. Bên cạnh đó, phụ huynh của các trẻ thuộc nhiều thành phần, nghề nghiệp, trình độ khác nhau nên phương pháp giáo dục, rèn luyện cho trẻ về chăm sóc sức khoẻ răng miệng tại gia đình cũng khác nhau; hoặc có thể do hoàn cảnh gia đình, công việc quá bận rộn, chưa giành nhiều thời gian cho trẻ, chủ yếu phó mặc cho nhà trường và giáo viên, chưa tích cực phối hợp với giáo viên trong việc rèn cho trẻ thói quen vệ sinh răng miệng hàng ngày. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp: a. Mục tiêu của giải pháp - Những giải pháp nêu trong đề tài nhăm mục đích: Duy trì, củng cố, nắm vững và nâng cao kiến thức cho giáo viên về vấn đề chăm sóc răng miệng để thực hiện có hiệu quả chương trình giáo dục chăm sóc sức khoẻ răng miệng. Đồng thời, qua đó giúp giáo viên có thể dễ dàng trao đổi với phụ huynh về vấn đề vệ sinh răng miệng của trẻ. - Cung cấp cho trẻ những kiến thức cơ bản về giữ gìn vệ sinh răng miệng, tạo cho trẻ sự hứng thú, yêu thích khi được tìm hiểu, học hỏi về chăm sóc răng miệng; giúp trẻ củng cố, ghi nhớ sâu hơn kiến thức đã được học. - Giúp trẻ giúp trẻ cảm thấy hứng thú và say mê với hoạt động về chăm sóc răng miệng mỗi ngày. - Giúp trẻ thực hành các thao tác chải răng khoa học, đúng quy trình. Qua việc gắn kiến thức với thực hành, trẻ có thể vừa rèn luyện được kỹ năng, thao tác, vừa củng cố được kiến thức đã học. - Góp phần nâng cao nhận thức, kiến thức của phụ huynh về chăm sóc răng miệng cho trẻ; tạo sự phối kết hợp chặt chẽ, thống nhất giữa nhà trường và gia đình về quan điểm, phương pháp trong việc chăm sóc, giữ gìn vệ sinh răng miệng, từ đó giúp trẻ hình thành và duy trì thói quen vệ sinh răng miệng hàng ngày. Có mối quan hệ chặt chẽ giữa kiến thức, thái độ và thực hành để hình thành nên hành vi. Đối với vấn đề chăm sóc răng miệng, thì những hành vi vệ sinh răng miệng có ảnh hưởng rất lớn đến việc có mắc bệnh răng miệng hay không. Từ cơ sở lý luận, còn cho thấy: Hành vi lặp đi lặp lại sẽ tạo thành thói quen. Khi vân dụng những giải pháp trong đề tài nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chăm sóc răng miệng cho trẻ mầm non, giúp trẻ 5 tuổi lớp lá 3 trường mầm non Cư Pang thực hiện tốt việc giữ gìn vệ sinh răng miệng ngay từ khi còn lứa tuổi mầm non. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp * Biện pháp 1: Lồng ghép Giáo dục sức khỏe răng miệng bằng vào chương trình giáo dục chính khóa và ngoại khóa của trường. Khi đã nắm vững những kiến thức về chăm sóc răng miệng, trong chuyên đề giảng dạy về sức khoẻ dinh dưỡng, bản thân đã chú trọng giáo dục cho trẻ những kiến thức cơ bản về răng miệng, giúp trẻ hiểu được vai trò, chức năng của răng, cách giữ gìn vệ sinh răng miệng và phòng ngừa các bệnh về răng miệng. Để thu hút sự hứng thú của trẻ và giúp trẻ dễ dàng tiếp cận, lĩnh hội được những vấn đề cần truyền đạt, bản thân đã thực hiện các hoạt động sau: Tư duy của trẻ trong giai đoạn này là trực quan hình ảnh, có điều kiện quan sát, trẻ sẽ khắc sâu vào trí nhớ. Vì vậy tôi đã tiến hành sưu tầm tranh, ảnh về răng miệng và đưa vào giảng dạy để giúp bé tìm hiểu thế nào là răng sâu, răng hỏng, thế nào là quy trình đánh răng đúng cách. Trang trí các tranh ảnh về vệ sinh răng miệng ở góc chơi bác sỹ, trong phòng vệ sinh để bé nhìn thấy thường xuyên. Bên cạnh đó, tôi còn cho bé xem những băng hình có cảnh các bạn đánh răng để bé bắt chước theo những hình ảnh mà bé vừa xem được. Cho trẻ thấy những tác nhân gây bệnh về răng miệng như mảng bám, vi khuẩn, những thói quen sinh hoạt ảnh hưởng đến răng như ăn uống thức ăn quá nóng hoặc quá lạnh, ăn nhiều đồ ngọt. Bằng những phương pháp trên, đã phát huy tính tích cực, chủ động tìm tòi, khám phá của trẻ, giúp trẻ tiếp cận nhanh hơn và có thêm sự hiểu biết về cách giữ gìn vệ sinh răng miệng, nguyên nhân gây ra một số bệnh về răng miệng và cách phòng tránh, đồng thời góp phần giúp trẻ hứng thú hơn với việc chăm sóc răng miệng. Lồng ghép nội dung về giáo dục vệ sinh răng miệng với các môn học các chủ điểm khác, giúp trẻ có thể học mọi lúc, mọi nơi: - Với môn Văn học: Tác dụng giáo dục và thuyết phục của tác phẩm văn học là rất lớn, những tình huống và hành vi của các nhân vật trong truyện không những làm phong phú thêm vốn kinh nghiệm về nhận thức của trẻ mà các khái niệm, thói quen hành vi cũng được xây dựng và củng cố một cách tự giác hơn.Qua các bài thơ, truyện như: “Gấu con đau răng”; “Chú mèo đánh răng” có thể lồng ghép nội dung giáo dục vệ sinh răng miệng cho trẻ: nói cho trẻ biết vì sao phải giữ gìn vệ sinh răng miệng, tầm quan trọng của chải răng sau khi ăn nhất là khi ăn những thức ăn ngọt Từ đó, cô có thể đặt các câu hỏi: + Vì sao gấu con bị đau răng? + Các con đã bị đau răng chưa? + Để không bị đau răng cúng ta phải làm sao?... - Với môn âm nhạc: Qua các bài hát như: “Thật là đáng yêu”, “Chiếc bàn chải đánh răng”; tôi lồng ghép nội dung vệ sinh răng miệng, với những giai điệu âm nhạc vui nhộn, tạo thêm hứng thú cho trẻ, qua đó có thể cung cấp và củng cố lại kỹ năng thực hiện các thao tác chải răng đúng cách cho trẻ biết. - Với môn tạo hình ta có thể cho trẻ vẽ, tô màu bàn chải đánh răng. Điều cần lưu khi thực hiện các phương pháp trên, là khi giáo viên lồng ghép nội dung giáo dục vệ sinh vào các hoạt động cũng phải đảm bảo tính tự nhiên, hợp lý, nhất là đưa hệ thống câu hỏi gợi mở sẽ càng khắc sâu hơn, trẻ rút ra được những bài học tốt cho bản thân và có thái độ phê phán những hàng động không tốt. - Lồng ghép vào hoạt động góc: Liên quan đến đề tài chăm sóc răng miệng, cô tổ chức cho nhóm trẻ chơi “Chăm sóc em búp bê bị đau răng”. Cô đóng vai và gợi ý cho trẻ chơi, cô có thể hỏi vì sao mà em búp bê bị đau răng vậy? Chúng ta đưa em đến bác sĩ nha khoa nhé!. Trẻ làm Bác sĩ thể hiện hành động khám răng, nhổ răng, cho bệnh nhân uống thuốc đau răng, dặn dò bệnh nhân ra sao? Búp bê về nhà thực hiện lời dặn như thế nào?... Từ các hoạt động vui chơi đó sẽ giúp trẻ củng cố, phát huy những hiểu biết của mình về chăm sóc răng miệng mà đã trẻ được học. * Biện pháp 2: Nghiên cứu, tìm hiểu kiến thức về chăm sóc sức khoẻ răng miệng cho trẻ mầm non. Để giúp trẻ có những kiến thức cơ bản về việc giữ gìn vệ sinh răng miệng và hướng dẫn trẻ các biện pháp giữ gìn vệ sinh chăm sóc răng miệng, nhất là biết chải răng đúng cách nhằm để phòng chống các bệnh về răng miệng, trước hết giáo viên cần nhận thức rõ được tầm quan trọng của nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục vệ sinh răng miệng cho trẻ, từ đó không ngừng học hỏi, nghiên cứu, tìm tòi những kiến thức về vấn đề này qua sách báo, phương tiện thông tin, truyền thông, internetTừ đó giúp trẻ biết được: + Chức năng của răng, lợi. + Các bệnh liên quan đến răng: sâu răng, các tật xấu ảnh hưởng đến răng, các chất dinh dưỡng cần thiết cho răng và cách phòng chống. + Tại sao phải chải răng thường xuyên? Cách lựa chọn và bảo quản bàn chải đánh răng, phương pháp chải răng + Tăng cường công tác phòng bệnh và điều trị sớm, có thói quen khám răng định kỳ 6 tháng/lần. + Chế độ ăn uống hợp lý, cân bằng, hạn chế cho trẻ ăn bánh, kẹo và nhiều đồ ngọt. + Đối với trẻ, người lớn cần hướng dẫn các em cách chải răng miệng đúng cách. Thực hiện đánh răng sau khi ăn ít nhất 2 lần/ngày vào buổi sáng và tối. Giữ gìn răng miệng sạch sẽ, vệ sinh hằng ngày, loại trừ mảng bám răng bằng cách chải răng đúng phương pháp với kem đánh răng có flour. * Biện pháp 3: Tìm hiểu, nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ Việc nắm bắt tâm lý của trẻ cũng rất quan trọng, giúp giáo viên hiểu được trẻ thích hay không thích việc chăm sóc răng miệng, cụ thể là việc chải răng hàng ngày, nguyên nhân tại sao, từ đó có phương pháp tiếp cận, giáo dục phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Qua theo dõi, trò chuyện với trẻ, và trong quá trình trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ của trẻ, tôi thấy rằng hầu hết trẻ rất sợ việc đánh răng, có khuynh hướng ghét hoặc lười đánh răng, hầu hết các em đều trả lời rằng không thích đánh răng vì kem đánh răng rất cay hoặc không thích mùi kem đánh răng, bàn chải cứng khiến bé đau khi đánh răng và đánh răng chẳng có gì vui Một số bé tâm sự rằng cha mẹ cứ bắt buộc, dọa nạt, thậm chí phạt đòn nếu các em không đánh răng. Bên cạnh đó, một số em muốn đánh răng như bố mẹ nhưng lại không biết cách đánh, hỏi thì bố mẹ quá bận nên không có thời gian chỉ bảo. Việc này khiến các em sợ hãi, sinh ra tâm lý chán ghét đánh răng. Từ những đặc điểm tâm lý đó, bản thân nhận ra rằng: để trẻ yêu thích việc đánh răng, thì việc lựa chọn bàn chải và kem đánh răng là rất quan trọng. Tôi luôn cố gắng làm cho trẻ cảm thấy việc đánh răng trở nên thú vị, bằng cách chuẩn bị nhiều loại kem đánh răng khác nhau với hương vị trái cấp hấp dẫn, nhiều loại bàn chải dành cho trẻ em với hình thù ngộ nghĩnh, màu sắc phong phú, lông bàn chải mềm, vừa với tay cầm và miệng xinh của bé. Đồng thời khuyến khích trẻ tự chọn loại kem đánh răng, loại bàn chải mà trẻ thích. Điều này giúp việc làm vệ sinh răng miệng trở nên hào hứng hơn. Từ đó từng bước khắc phục tình trạng sợ, ghét đánh răng của trẻ. Ngoài ra, tâm lý của trẻ là rất thích... 'đua đòi'. Vì thế, trong những ngày đầu tiên, tôi tập trung vài trẻ cùng một lúc để thực hành những bài học về răng miệng. Các trẻ sẽ bắt chước và ganh đua với nhau trong quá trình học tập. Và vì thế, trẻ sẽ bớt đi cảm giác nhàm chán, sợ sệt. Bên cạnh đó, tôi đã trao đổi với phụ huynh cần phải bình tĩnh chứ không nên nóng vội, quát mắng vì điều này chỉ làm cho trẻ sợ sệt thêm mà thôi. Cần phải động viên con hoặc bày ra những trò chơi trong quá trình cùng bé tập đánh răng sẽ giúp trẻ cảm thấy hứng thú và say mê với hoạt động về răng mỗi ngày. * Biện pháp 4: Tổ chức cho trẻ thực hiện thao tác chải răng Hiện nay có nhiều phương pháp chải răng khác nhau, nhưng qua nghiên cứu, so sánh thì những phương pháp này có một số hạn chế so với phương pháp BASS cải tiến. Hiện nay phương pháp này đã được nhiều nước trên Thế giới áp dụng vì nó có những ưu điểm sau: - Làm sạch tất cả mảng bám vùng rãnh lợi, kẽ răng. - Động tác đơn thuần tới lui ngắn, và hơi xoay nhẹ, gần gũi với động tác tự nhiên của trẻ. - Động tác dễ dàng hướng dẫn và dễ thực hiện trong cộng đồng. - Có tác dụng xoa nắn lợi một cách nhẹ nhàng. Từ những ưu điểm nêu trên bản thân đã chọn phương pháp chải răng BASS để hướng dẫn trẻ thực hành. Phương pháp BASS cải tiến được mô tả gồm 2 phần chính sau : - Nên chải theo thứ tự nhằm tránh bỏ sót răng và mặt răng . - Chải hàm trên trước hàm dưới sau; mỗi hàm cần chải sạch mặt ngoài, mặt trong, mặt nhai. - Chải cẩn thận mỗi lần 2,3 răng; tuần tự cho sạch tất cả các răng . * Động tác chải răng - Đặt lông bàn chải nghiêng 45 độ về phía nướu răng . - Đối với mặt ngoài, mặt trong: Chải với động tác rung nhẹ tại chỗ nhiều lần, vừa rung vừa di chuyển bàn chải về phía mặt nhai, mỗi vùng lập lại từ 6-10 lần. - Đối với mặt nhai: Chải theo động tác tới lui ngắn. * Cuối cùng chải lưỡi để lấy sạch mảng bẩn ở lưỡi để lưỡi hồng và sạch sẽ. Thời gian để chải răng từ 3-5 phút. Cô hướng dẫn trẻ thực hành các thao tác chải răng với mô hình hàm răng giả, thực hiện chậm rãi và nhiều lần, cần nhấn mạnh những điểm quan trọng trong thao tác chải răng như: không nên chải răng theo chiều ngang, vì dễ làm tụt nướu Sau đó cho từng bạn làm theo và các bạn khác nhận xét, cuối cùng cô đánh giá, kết luận, biểu dương, cổ vũ các trẻ làm đúng, đồng thời hướng dẫn lại kỹ hơn cho trẻ chưa thực hiện đúng quy trình.Sau khi trẻ đã làm quen và thành thạo với mô hình, cô cho trẻ thực hành chải răng dưới sự kiểm soát của cô. Điều cần lưu là: Nên chọn loại kem đánh răng có fluoride nồng độ thấp, dành riêng cho trẻ em. Mỗi lần chải răng chỉ nên sử dụng một lượng kem đánh răng nhỏ bằng hạt đậu, để không tạo quá nhiều bọt gây trở ngại cho việc đánh răng. Trẻ nhỏ thường có nguy cơ nuốt nhiều kem đánh răng dẫn đến sự nhiễm fluoride vĩnh viễn sau này. Biện pháp 5: Phối hợp với phụ huynh hình thành và duy trì thói quen vệ sinh răng miệng cho trẻ. Giáo dục và rèn luyện kĩ năng vệ sinh cho trẻ để thiết lập tính tự giác nghĩa là hình thành hệ thống tập quán ở trẻ. Đặc điểm của trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 5 tuổi nói riêng là trẻ chóng nhớ mà cũng mau quên, vì vậy để giúp trẻ hình thành và duy trì thói quen vệ sinh răng miệng cho trẻ thì điều quan trọng nhất là phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình, trong đó yếu tố quyết định chính là cha mẹ học sinh. Việc giáo dục các thói quen ở trẻ sẽ thành công nếu có sự tiến hành thường xuyên, theo giờ giấc nhất định ngay khi trẻ ở trường và lúc trẻ về nhà. Ở lứa tuổi mẫu giáo, trẻ chưa có nhiều ý thức chăm sóc răng miệng, gia đình cần phối hợp với nhà trường trong việc tập cho trẻ chải răng súc miệng đúng phương pháp và theo dõi con đánh răng mỗi sáng, chiều, tối để hình thành trong trẻ thói quen này. Việc rèn đánh răng cho trẻ nên được ba mẹ thực hiện từ từ và kiên trì, tránh chê bai, khiển trách, ép buộc hay dọa nạt làm cho trẻ cảm thấy sợ hay không thích việc vệ sinh răng miệng. Do đó, bên cạnh việc thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở, ba mẹ cần cổ vũ, khen hoặc thưởng cho trẻ khi trẻ hoàn thành nhiệm vụ đánh răng vào mỗi tuần hoặc mỗi tháng để động viên, khích lệ trẻ từng bước đưa trẻ vào thói quen thực hành vệ sinh răng miệng hàng ngày một cách nhẹ nhàng và tự giác. Tuy nhiên, không phải phụ huynh nào cũng quan tâm và hiểu được những vấn đề nói trên. Cũng có những trường hợp, vì chưa hiểu biết và quan tâm không đúng mức nên chính ở gia đình đã phá vỡ những thói quen mà trẻ được rèn luyện ở trường, như vì nuông chiều, cho trẻ ăn nhiều kẹo, bánh, chocolatemà không nhắc trẻ đánh răng. Vì vậy, bản thân đã chủ động duy trì mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viên và cha mẹ học sinh trong việc chăm sóc sức khoẻ của trẻ nói chung và giúp trẻ hình thành thói quen vệ sinh răng miệng nói riêng thông qua các biện pháp sau: Tiến hành lồng ghép trong các buổi họp phụ huynh để triển khai chuyên đề tuyên truyền về tầm quan
Tài liệu đính kèm: