Đề tài Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt

Đề tài Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt

Trong chương trình lớp 4, ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư, Điền vào giấy tờ in sẵn, Giới thiệu địa phương, Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,. được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng như mẫu đơn, thư, hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống.

Mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, muốn

đề ra các biện pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh. Và quan trọng hơn cả là phải hiểu và nắm bắt được tâm lý học sinh của mình, điều đó rất có lợi cho giáo viên trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh.

Sau khi điều tra phân loại từng đối tượng học sinh đầu năm. Tôi đã trực tiếp trao đổi với phụ huynh về từng đối tượng học sinh và đồng thời nhân được những thông tin từ phía phụ huynh, từ đó kịp thời có những kế hoạch cụ thể để tập trung cho từng học sinh. Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.

Việc học của trẻ nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự

tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn.

 Không hạ thấp các em. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng

cũng không nên nói những lời không hay đối với trẻ. Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn.

Không bắt các em hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với em vì nếu các em cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở các em sẽ phát triển cảm giác hối lỗi.

 

doc 20 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 6769Lượt tải 6 Download
Bạn đang xem tài liệu "Đề tài Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4 thông qua môn Tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá. Đồng thời lại chiều chuộng con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì?
Không ít giáo viên hiện nay chỉ tập trung chủ yếu vào các tiết dạy văn hóa làm sao cho tốt, cho giỏi, còn việc giáo dục, rèn luyện học sinh thì chưa quan tâm nhiều. 
Trường TH Hà Huy Tập đóng địa bàn xã Dray Sáp, một địa bàn tương đối rộng, đa số học sinh là con em lao động, trình độ cha mẹ học sinh còn nhiều hạn chế nên chưa mẫu mực trong hành vi ứng xử hoặc chưa quan tâm đến giáo dục đạo đức, hành vi ứng xử cho con em đến nơi đến chốn. Một số em sống với ông bà nội ngoại hoặc người thân do hoàn cảnh của gia đình nên tâm lý cũng có nhiều thay đổi.
2.2. Thành công và hạn chế
* Thành công 
 Sau những tiết học Tiếng Việt, tôi nhận thấy các em có tiến bộ hơn rõ rệt. Các kĩ năng sống cần thiết được hình thành: Cơ bản các em rất ngoan, luôn tự hoàn thành các nhiệm vụ học tập, nề nếp tốt, lao động vệ sinh trường lớp sạch sẽ, chấp hành tốt mọi nội quy của trường của lớp đề ra, không còn đối tượng học sinh cá biệt. Các em nhiệt tình giúp nhau trong học tập để cùng tiến bộ, đặc biệt các em tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp, mạnh dạn trao đổi ý kiến, chia sẻ và hợp tác trong mọi công việc chung của lớp. Chinh vì thể lớp tôi là một lớp luôn dẫn đầu trong khối về mọi hoạt động, phong trào.
	Tiết học đa dạng, phong phú về hình thức tổ chức, nội dung luôn mới mẻ và cập nhật những vấn đề mà lứa tuổi các em quan tâm nên bản thân các em rất thích thú và tích cực, hứng thú học tập.
*Hạn chế
Bản thân nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp ở các lớp gia đình học sinh có điều kiện kinh tế còn khó khăn, bố mẹ thường xuyên đi làm thuê theo thời vụ, thiếu sự quan tâm đến việc học tập cũng như kỹ năng sống của con em, trình độ dân trí trên địa bàn chưa đồng đều, quan niệm sống của các bậc cha mẹ không giống nhau, tầm hiểu biết về kỹ năng sống còn hạn chế, điều kiện học tập của các em còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến còn một số học sinh chưa ngoan, kỹ năng sống chưa tốt. 
2.3. Mặt mạnh - mặt yếu
* Mặt mạnh.
*Mặt mạnh 
Bản thân tôi được tham gia lớp tập huấn ở các cấp về vai trò của công tác chủ nhiệm lớp nói chung về mô hình dạy VNEN và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học nói riêng nên đã học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu. Và tìm hiểu thực tế từ đồng nghiệp của đơn vị mình công tác và trường bạn để có thêm kinh nghiệm cho kế hoạch thiết kế các tiết dạy Tiếng Việt ở lớp 4 nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh theo mô hình trường học mới tại đơn vị mình. 
Bước vào đầu năm học, trường tôi đã tổ chức một buổi tham luận về tác dụng của việc tổ chức tốt, có hiệu quả giá trị giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học, liên quan đến xây dựng môi trường học tập thân thiện. Giáo viên được trao đổi chia sẻ những khó khăn, thu thập thêm kinh nghiệm, những ý kiến sáng tạo, các biện pháp đã tổ chức mang lại hiệu quả. Lãnh đạo nhà trường nhận xét, gợi ý một số cách tổ chức có tính giáo dục giúp giáo viên tham khảo, lựa chọn. Nhà trường đã tổ chức chuyên đề giáo dục kỹ năng sống, thường xuyên có sự trao đổi của cụm trường,...
*Mặt yếu
Trong những năm qua, mặc dù tiết học nói chung và tiết Tiếng Việt nói riêng đã được thực thi một cách ổn định. Tuy nhiên vẫn còn chú trọng nhiều về phương pháp dạy học, nội dung kiến thức bài dạy mà chưa được chú trọng đúng mức đến các hình thức bồi dưỡng giá trị kỹ năng sống cho học sinh thông qua các tiết học đó.
Việc dự giờ thao giảng rút kinh nghiệm chưa mang tính phổ biến. Bước đầu bản thân chưa nắm hết về nội dung phải dạy trẻ những kĩ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Thời gian đầu tôi còn lúng túng, chưa có giải pháp hữu hiệu phải vừa học, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm nên hiệu quả công việc đôi khi còn chưa cao.
Một số học sinh lúc đầu còn rụt rè, e ngại; kỹ năng giao tiếp của các em còn nhiều hạn chế.
Một vài phụ huynh chưa hiểu hết bản chất của việc giáo dục kỹ năng sống cho con em mình mà chỉ quan tâm, chú trọng đến việc học kiến thức.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
* Về phía giáo viên: Nhận thức chưa rõ tầm quan trọng, cần thiết của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông nói chung, học sinh tiểu học nói riêng. Giáo dục kỹ năng sống trong các môn học ở tiểu học nhằm đạt mục tiêu trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kỹ năng phù hợp; tạo cơ hội thuận lợi cho học sinh sử dụng quyền và bổn phận của mình đồng thời phát triển một cách toàn diện.
- Trong quá trình giáo dục học sinh, giáo viên chưa thường xuyên chú ý phân loại các đối tượng, chưa quan tâm nhiều đến điều kiện gia đình của từng học sinh.
- Các hoạt động ngoại khoá như văn nghệ, thể dục, thể thao, hoạt động Đội chưa được chú trọng đúng mức để nhằm phát huy tính hiệu quả của nó trong việc
nâng cao giá trị giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
* Về phía các bậc cha mẹ học sinh
Cha mẹ chưa quan tâm đúng mức đến việc giáo dục các em, còn khoán trắng cho nhà trường, chưa tạo điều kiện cho các em học tập. Kỹ năng sống của một số phụ huynh chưa chuẩn mực để làm gương cho trẻ.
* Về phía học sinh
- Học sinh trong trường về tinh thần và thái độ học tập chưa cao, còn nhiều học
sinh lười học, các em rất dễ bị kích động dẫn đến gây gổ đánh nhau, nói tục, chửi thề
- Đa số học sinh chưa có nhận thức đúng về ý thức tự giác, tích cực trong học
tập, chưa có ước mơ hoài bảo, kỹ năng diễn đạt trình bài trước đám đông, kỹ năng
hợp tác, kỹ năng ra quyết định cho bản thân, còn hạn chế, một số học sinh ứng xử với nhau chưa thật sự có văn hóa.
Bên cạnh đó các trò chơi vô bổ như điện tử cũng như những phim ảnh không lành mạnh đã trực tiếp tác động làm ảnh hưởng không ít đến việc học tập cũng như kĩ năng sống của các em. 
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Trong chương trình lớp 4, ở môn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư, Điền vào giấy tờ in sẵn, Giới thiệu địa phương, Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia,... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bản thân chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập đọc giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao tiếp cộng đồng như mẫu đơn, thư, hoặc cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống. 
Mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, muốn
đề ra các biện pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng học sinh. Và quan trọng hơn cả là phải hiểu và nắm bắt được tâm lý học sinh của mình, điều đó rất có lợi cho giáo viên trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh. 
Sau khi điều tra phân loại từng đối tượng học sinh đầu năm. Tôi đã trực tiếp trao đổi với phụ huynh về từng đối tượng học sinh và đồng thời nhân được những thông tin từ phía phụ huynh, từ đó kịp thời có những kế hoạch cụ thể để tập trung cho từng học sinh. Điều cần làm trước hết là người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.
Việc học của trẻ nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ sẽ tự
tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai nhiều hơn.
	Không hạ thấp các em. Không nên tạo cho các em thói quen kiêu ngạo nhưng
cũng không nên nói những lời không hay đối với trẻ. Người lớn cần nhớ rằng mỗi lần chúng ta doạ nạt là chúng ta đã làm cho trẻ sợ hãi và căm giận người lớn. Sự đe doạ hoàn toàn có hại cho đứa trẻ và sẽ không giúp cho hành vi của các em tốt hơn.
Không bắt các em hứa hẹn: Vì sự hứa hẹn hoặc doạ nạt không có ý nghĩa đối với em vì nếu các em cảm nhận được và cắn rứt vì không làm tròn lời hứa thì ở các em sẽ phát triển cảm giác hối lỗi. 
Không nên yêu cầu các em phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức vì sự phục tùng một cách thái quá không có sự thoả thuận giữa các bên không tạo điều kiện phát triển tính tự lập ở các em.
Không yêu cầu những điều không phù hợp với các em vì những yêu cầu ở các em phải thực hiện một hành vi chín chắn mà các em chưa có khả năng hoặc các em phải làm các yêu cầu không mang tính thống nhất và liên tục trong việc cho phép hoặc cấm đoán sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển tính nhận thức của học sinh.
Không nên nhồi nhét lượng kiến thức quá mức so với khả năng tiếp nhận của não bộ. 
Bên cạnh đó, tôi còn tổ chức cho các em tham gia các buổi sinh hoạt ngoại khoá như: “Đố vui để học”, “Trò chơi học tập” nhằm phát huy tính tích cực học tập của các học sinh. Qua đó học sinh có điều kiện học mà vui, vui mà học giảm bớt đi sự căng thẳng và cũng từ đó các em bộc lộ được những kỹ năng của bản thân.
3. Giải pháp - biện pháp 
Mục tiêu của giải pháp - biện pháp
Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá đặc biệt là đối với học sinh học theo mô hình VNEN. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ .
Tổ chức lớp học, hướng dẫn học sinh học tập nội quy học sinh, thực hiện tốt kế hoạch công tác chủ nhiệm lớp và đạt các chỉ tiêu phấn đầu trong các năm học nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh. Tìm hiểu nguyện vọng, đề nghị chính đáng của phụ huynh học sinh. Điều tra điều kiện học tập của học sinh. Từ đó có biện pháp kết hợp, hợp tác, tạo điều kiện nhằm tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện học tập, nguyện vọng, sở thích của học sinh, giáo viên có cơ sở, có điều kiện tốt để có định hướng, kế hoạch phân loại điều kiện học sinh và có phương pháp dạy học và giáo dục phù hợp với từng học sinh có hiệu quả.
3.2. Nội dung và cách thực hiện giải pháp, biện pháp
Với thực trạng về các mặt và chất lượng học sinh như trên, giáo viên đã thực hiện áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh như sau:
Bản thân giáo viên chủ nhiệm là người phải có lập trường tư tưởng vững vàng. Không ngừng học tập tu dưỡng đạo đức, chính trị. Luôn luôn trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện, đúc rút nhiều kinh nghiệm từ chính bản thân và đồng nghiệp trong quá trình công tác. Luôn thực hiện đúng kế hoạch của nhà trường đề ra, quy chế chuyên môn. Luôn luôn học hỏi, tìm tòi các phương pháp kĩ thuật dạy học mới, tích cực thực hiện đúng mục tiêu giáo dục nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục học sinh tại lớp mình phụ trách và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh của nhà trường.
Môn Tiếng Việt có nhiều thuận lợi hơn cả vì bản thân nội dung bài học buộc học sinh phải vận dụng rất nhiều kỹ năng (tư duy sáng tạo, xúc cảm, trình bày suy nghĩ, vấn đáp, giải quyết vấn đề...). Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp,Thông qua các hoạt động học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cần thiết.
a. Xác định các giá trị kỹ năng cần giáo dục cho học sinh thông qua các bài học trong môn Tiếng Việt
Kỹ năng hợp tác
Kỹ năng giao tiếp và ứng xử lịch sự trong giáo tiếp
Kỹ năng tư duy sáng tạo, phân tích phán đoán, tư duy phê phán
Thể hiện sự thống cảm và chia sẻ
Thể hiện sự tự tin.
b. Xác định các bài học trong môn Tiếng Việt có nội dung giáo dục kỹ năng sống, giúp học sinh tiếp nhận, học tập các giá trị sống qua các bài học
* Giáo dục kỹ năng biết hợp tác tốt trong nhóm:
Là lớp học theo mô hình VNEN chủ yếu là tổ chức học theo nhóm, có đủ cả 3 đối tượng để học sinh giúp đỡ lẫn nhau. Tôi luôn quan tâm đến việc phát huy vai trò của Hội đồng tự quản; quan tâm đến việc chia nhóm, thường xuyên thay đổi nhóm trưởng và thay đổi chỗ ngồi của từng học sinh để để các em có điều kiện được hợp tác lần lượt với tất cả các bạn trong lớp. Trong quá trình các em hợp tác trong nhóm để hoàn thành yêu cầu của bài học đề ra, giáo viên quan sát theo dõi để giúp đỡ, bồi dưỡng cho những học sinh còn rụt rè, còn ỉ lại. Thông qua những nội dung bài học, kết quả thảo luận của nhóm.
Vi dụ : Khi dạy bài 16A ( tiết 1). Qua bài tập đọc: Kéo co
Cho học sinh nhận xét về cách chơi kéo co của làng Hữu Trấp và làng Tích Sơn đồng thời nêu câu hỏi: 
- Để thực hiện được trò chơi đó mọi người trong mỗi đội phải như thế nào? 
Học sinh sẽ trả lời : Phải cố gắng hết sức, phải biết phối hợp ăn ý với nhau,
- Qua bài đọc em rút ra được điều gì cho bản thân trong cuộc sống hàng ngày?
Học sinh sẽ trả lời: Cần phải biết hợp tác với mọi người để làm tốt công việc.
* Thực hành kỹ năng giao tiếp và ứng xử lịch sự trong giao tiếp.
Với lớp học VNEN học sinh thường xuyên được thực hành giao tiếp trong tất cả các tiết học. Chính vì vậy, khả năng giao tiếp của các em ngày càng được hoàn thiện. Tôi luôn tổ chức các giờ học một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, thoải mái nên việc “giao tiếp” của các em diễn ra trong tiết học sẽ trôi chảy, mạch lạc, làm cho người nghe cảm thấy thích thú, thoải mái, hài lòng. 
Với hình thức này một số em giao tiếp tạm được và chưa được sẽ bình tĩnh, tự tin và mạnh dạn nói ra ý kiến của mình. Ở đây, học sinh được tham gia nói nhiều hơn, dẫn đến phát huy được khả năng giao tiếp của mình. Dạy học theo nhóm giúp cho học sinh phát triển kĩ năng nói trước lớp, trước đám đông, nhằm giúp cho các em tự tin khi giao tiếp. 
Khi học sinh trả lời câu hỏi chưa đầy đủ ý và khúc chiết gãy gọn tôi hướng dẫn cho các em nói lại, đặc biệt không nói thay học sinh.
Qua nội dnng các bài học như: 
Bài tập đọc: Thư thăm bạn, Người ăn xin hay bài Tập làm văn Viết thư, Luyện từ và câu: Giữ phép lịch sự khi đặt câu hỏi, Thưa chuyện với mẹ,tôi thường cho học sinh nhận xét về cách giáo tiếp và thái độ giao tiếp của nhân vật trong bài đọc, trong các ví dụ. Từ đó giúp các em học tập kỹ năng giao tiếp và ứng xử lịch sự trong giáo tiếp.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị” tiết Luyện từ và câu: bản thân cho học sinh chuẩn bị những hộp thư: Yêu cầu, đề nghị và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào nêu được nhiều câu yêu cầu, đề nghị lịch sự nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy bản thân tổ chức cho các em trao đổi : “Theo em, như thể nào là lịch sự khi yêu cầu, đề nghị?” “Em đã lịch sự khi yêu cầu đề nghị chưa?”... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.
* Thể hiện sự thông cảm và chia sẻ
Thông qua các bài học như: Bài tập đọc Thư thăm bạn, Người ăn xin, Mẹ ốm, Đôi dày ba ta màu xanh, Dế Mèn bênh vực kẻ yếu. Sau mỗi bài học tôi thường cho học sinh tự nói về sự thông cảm, chia sẻ và giúp đỡ người khác của các nhân vật trong bài. Từ đó giúp học sinh hiểu được cần phải biết quan tâm đến người khác và sẵn sàng giúp đỡ họ.
* Kỹ năng tư duy sáng tạo, phân tích phán đoán, tư duy phê phán
Qua tiết tiết học, bài có nội dung liên quan đến Kỹ năng tư duy sáng tạo, phân tích phán đoán, tư duy phê phán như tiết Tập làm văn Tả ngoại hình của nhân vật trong bài văn kể chuyện; hay trong bài 17 B: Một phát minh nho nhỏ, qua bài Tập đọc Một người chính trự Cho học sinh nhận xét về tính cách, cách xử lý tình huống của nhân vật, qua đó liên hệ giáo dục kỹ năng kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin - tư duy sáng tạo, tư duy phê phán.
* Xác định nhiệm vụ của bản thân, đảm nhận trách nhiệm - Tự nhận thức về bản thân.      
    Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc “Chuyện cổ tích về loài người”). Giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở như: Trong “câu chuyện cổ tích” này, ai là người được sinh ra đầu tiên? Sau khi trẻ sinh ra, vì sao cần có ngay mặt trời? Sau khi trẻ sinh ra, vì sao cần có ngay người mẹ? Bố giúp trẻ những gì? Thầy giáo giúp trẻ những gì?.
c. Xây dựng góc Tiếng Việt
Góc Tiếng Việt vừa là nơi để các em chia sẻ, học tập lẫn nhau và cũng là nơi các em chiếm lĩnh và hình thành kĩ năng Tiếng Việt. Trưng bày những bài làm tốt của học sinh cũng là một hình thức tuyên dương, khen ngợi các em và việc định hướng cho các em tự trang trí nhằm phát huy kĩ năng thực hành của học sinh, khích lệ tinh thần sáng tạo của học sinh
Giáo viên gợi ý cho học sinh trình bày những nội dung phù hợp với góc môn học này tùy theo khả năng của các em như các nội dung: phần nét chữ nết người (trưng bày những bài viết chữ đẹp của các bạn trong lớp hay bài viết đẹp các em sưu tầm được); phần lời hay ý đẹp (trưng bày những bài viết văn viết hay, sáng tạo của các bạn trong lớp); phần sưu tầm ( các em trưng bày những bài ca dao, những câu tục ngữ, mẫu chuyện vui hay những câu chuyện thể hiện nội dung chủ điểm môn Tiếng Việt các em đang học – nội dung phần này thường xuyên thay đổi theo chủ điểm môn học)
Giáo viên cũng cần tranh thủ đọc sách cho các em nghe trong mọi tình huống như những lúc sinh hoạt đầu giờ, hoặc đọc sách các em nghe trong giờ sinh hoạt lớp. Tăng cường kể cho các em nghe các câu chuyện cổ tích, câu chuyện trong bài tập đọc, bài thơ,để qua đó rèn luyện đạo đức cho các em, giúp các em hoàn thiện mình, dạy các em  yêu thương bạn bè, yêu thương con người.Tạo hứng thú cho các em qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
 Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã hướng dẫn các em trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh trong lớp hàng ngày.
          Một điều không thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng bản thân luôn chú ý đến công tác động viên, khen tuyên dương sinh kịp thời.Để Các em vui và hãnh diện khi được cô giáo tuyên dương. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được nhận những phần quà mà cô giáo thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.
      d. Giáo viên tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các kĩ năng sống cơ bản
Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các em.Tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi. Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành kĩ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động. Đồng thời giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích đó.
 	Tóm lại: Bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng bồi dưỡng cho học sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp. 
         Qua từng tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kỹ năng làm việc theo nhóm; biết cách phân công c

Tài liệu đính kèm:

  • docth_1_6709_2021868.doc