Đề tài Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học trường mầm non Krông Ana

Đề tài Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học trường mầm non Krông Ana

Các giải pháp và biện pháp có mối quan hệ mật thiết và luôn hỗ trợ bổ sung cho nhau ưu điểm của giải pháp này là hỗ trợ cho nhược điểm của giải pháp khác. Muốn thực hiện các giải pháp thành công cần có các biện pháp cụ thể phù hợp với nội dung của giải pháp. Đối tượng nhận biết của trẻ sẽ không khô cứng, nếu như giáo viên biết phối hợp các giải pháp và biện pháp với nhau để làm cho những tri thức mà trẻ nhận được càng thêm phong phú.

Muốn thực hiện các biện pháp, giải pháp có hiệu quả thì cần phải có những điều kiện cần thiết về môi trường (đó là môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội). Ở trường mầm non cần xây dựng góc thiên nhiên. Trong góc thiên nhiên đối tượng nuôi trồng cần phải phục vụ nội dung chương trình.

Các đối tượng ở góc thiên nhiên cần đảm bảo những yêu cầu về thẩm mỹ, đa dạng, dễ chăm sóc và phải thường xuyên thay đổi đối tượng sao cho phù hợp với thời tiết, khí hậu của mỗi mùa. Cách xếp đặt các đối tượng trong góc thiên nhiên phải tiện lợi cho việc trẻ quan sát và không cản trở các hoạt động chung.

Giáo viên phải tổ chức cho trẻ thường xuyên sử dụng đồ chơi và đồ dùng. Khi trẻ em sử dụng đồ vật, giáo viên cần khuyến khích giúp đỡ và chỉ dẫn trẻ nhận biết chúng. Đối với trẻ mẫu giáo cần có nhiều tranh ảnh, mô hình và màn hình. Nhưng việc sử dụng chúng như thế nào cũng cần phải có kế hoạch và tổ chức chu đáo, bảo quản tốt. Trường mầm non nên có những đồ chơi ngoài trời. Những đồ chơi này cũng phải đảm bảo an toàn cho trẻ.

Trong trường mầm non có các mối quan hệ như: Trẻ em với trẻ em, trẻ em với người lớn và người lớn với người lớn. Để việc giáo dục trẻ có hiệu quả cao. Tất cả các mối quan hệ trên cần phải đảm bảo tính sư phạm.

 

doc 36 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 1684Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển nhận thức cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học trường mầm non Krông Ana", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch và tổng kết kinh nghiệm giảng dạy. Cần có sự lựa chọn nội dung phương pháp, biện pháp và các. hình thức cho trẻ tiếp cận với môi trường xung quanh. Tiến hành phân tích tổng hợp tìm ra những nguyên nhân ưu điểm hạn chế của cá nhân hay tập thể sư phạm trong quá khứ để tổ chức cho trẻ 5- 6 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm non được tốt hơn.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
Các giải pháp biện pháp đưa ra sẽ giúp cho giáo viên có thêm kỹ năng thủ thuật để tổ chức cho trẻ khám phá sự vật hiện tượng xung quanh trẻ có hiệu quả, làm cho việc tiếp thu kiến thức của trẻ trở nên dễ dàng và sự ghi nhớ của trẻ trở nên bền vững và chính xác.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Thứ nhất: Hướng dẫn giáo viên thực hiện các phương pháp, biện pháp trực quan.
* Đối với phương pháp quan sát: 
Phương pháp quan sát là phương pháp quan trọng nhất trong nhóm trực quan, là phương pháp tổ chức cho trẻ tri giác các sự vật và hiện tượng xung quanh (hoặc những đồ dùng trực quan thay thế) một cách có mục đích và có kế hoạch.
Tùy tình hình thực tế, giáo viên phải dùng một hoặc hai thủ thuật nhằm kích thích hứng thú quan sát của trẻ. Giáo viên có thể dùng các thủ thuật như đặt một hoặc hai câu hỏi trước khi quan sát; giải một hoặc hai câu đố; chơi một trò chơi; hát; xem mô hình; vẽ; gây tình huống bất ngờ
Khi trẻ đang hứng thú quan sát, giáo viên đưa đối tượng ra trước mặt trẻ. Sau đó, nên tổ chức cho trẻ thao tác hay hành động hoặc hoạt động với đối tượng. Tùy từng đối tượng và lứa tuổi trẻ em, thời gian này nên để nhiều hay ít. Nhưng tốt nhất là tất cả trẻ em đều phải được làm, trong điều kiện không cho phép thì có thể tổ chức cho một số em làm, những em còn lại phải theo dõi, bắt chước và nhận xét.
Ví dụ: Quả cam đâu?Vỏ đâu? Múi đâu? Muốn ăn được quả cam con phải làm như thế nào ? Con gà đâu? Cái thìa đâu? Cái cốc đâu? .
Khi trẻ chỉ tay không đúng hoặc gọi tên sai, giáo viên phải sửa ngay cho trẻ.
Về trình tự hướng dẫn quan sát, không nên máy móc, cần phải dựa vào sở thích của trẻ, trẻ thích cái gì nhất thì nên cho trẻ tri giác cái ấy trước. Sau đó đối với mỗi đối tượng và mỗi lứa tuổi trẻ em, nên tổ chức trình tự tri giác cho hợp lí. Bên cạnh đó, trình tự tri thức đối tượng còn phụ thuộc vào hình thức tiến hành, đó là tiết học hay buổi chơi hoặc dạo chơi. 
* Sử dụng tranh ảnh: 
Đối với trẻ 5 – 6 tuổi cần sử dụng tranh cở lớn. Tranh ảnh loại này cần phải treo lên bảng, giáo viên dùng thước chỉ và nêu các câu hỏi để hướng dẫn trẻ tri giác. Những câu hỏi phải có tác dụng kích thích hững thú tri giác và rèn luyện tư duy.
Ví dụ: Các con nhìn thấy những gì trong bức tranh này? Bức tranh này vẽ về mùa nào? Tại sao các con lại biết bức tranh này vẽ về mùa đông?...
* Sử dụng mô hình: 
Mô hình có thể làm bằng bìa cứng, gỗ, nhựa và đôi khi người ta còn sử dụng vật thật. Mô hình phải mang tính tổng hợp, sinh động và hấp dẫn đối với trẻ. Trẻ có thể đứng xung quanh mô hình và giáo viên hướng dẫn chúng tri giác đối tượng. Nếu số lượng trẻ em đông, giáo viên nên phân nhóm và lần lượt hướng dẫn từng nhóm một.
* Sử dụng băng âm và băng hình: 
Nội dung các băng âm và băng hình phải phục vụ mục đích và nội dung cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh. Giáo viên nên có kế hoạch ghi, tuyển chọn các băng âm và băng hình phù hợp với nội dung giáo dục và đặc điểm tâm lí của trẻ em ở lứa tuổi mầm non 5 - 6 tuổi. Giáo viên cũng cần phải biết kĩ thuật sử dụng các loại băng âm và băng hình này và lựa chọn các hình thức tổ chức thích hợp đối với mỗi loại băng âm và băng hình.
* Sử dụng phim đèn chiếu:
Khi sử dụng phim đèn chiếu thì nội dung phải phục vụ một chủ đề nào đó của lĩnh vực làm quen với môi trường xung quanh.
Ví dụ: Sự nảy mầm của hạt; sự sinh trưởng và phát triển của cây cối; động vật hoạt động dưới nước; không khí của buổi lễ, hội
Nội dung phim đèn chiếu có tác dụng củng cố và mở rộng sự hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh. Nó cũng có tác dụng tích lũy tri thức cho trẻ để có thể đàm thoại hoặc hiểu những điều giáo viên giải thích.
Khi sử dung đèn chiếu, màn ảnh phải đặt ngang tầm mắt trẻ em. Động tác điều khiển đèn chiếu phải từ từ, hình ảnh không nên chuyển động quá nhanh để trẻ có thể kịp tri giác các hình ảnh đang chuyển động trên màn hình. Lời thuyết minh của giáo viên có tính chất giảng giải, chỉ dẫn, kích thích sự tập trung chú ý của trẻ và hướng dẫn trẻ tri giác đối tượng, phục vụ mục đích và yêu cầu đã xác định.
Thứ hai: Hướng dẫn giáo viên thực hiện các phương pháp dùng lời nói
* Phương pháp đàm thoại: 
Là quá trình tổ chức hỏi và đáp giữa giáo viên và trẻ em một cách có mục đích và kế hoạch.
Đàm thoại trong lúc quan sát:
 Là quá trình hỏi và trả lời của giáo viên và trẻ em diễn ra trong bối cảnh đối tượng trực quan đang tồn tại trước mặt.
Quá trình quan sát luôn luôn phải phục vụ mục đích và yêu cầu đã xác định. Muốn vậy, giáo viên phải dùng hệ thống các câu hỏi trong quá trình quan sát. Câu hỏi và biện pháp, vì nó có tác dụng hướng dẫn trẻ tri giác. Nhưng câu hỏi còn có khi là thủ thuật, vì nó, có tác dụng kích thích sự tập trung chú ý tri giác đối tượng của trẻ. Đôi khi, câu hỏi còn có tác dụng làm cho trẻ tri giác đối tượng kĩ hơn, sâu hơn và phát hiện ra những điều mới lạ của đối tượng.
Ví dụ: Đây là con gì? Lông nó có màu gì? Thế nào là lông nhẹ và xốp? Tại sao nó lại bay được? Nó ấp trứng như thế nào?....
Có những câu hỏi yêu cầu trẻ phải so sánh, phân tích, tổng hợp và khái quát hóa đối tượng. Đặc biệt, có những câu hỏi nhằm rèn luyện và phát triển trí thông minh của trẻ, đó là những câu hỏi có tính tư duy trừu tượng. Những câu hỏi này còn có tác dụng làm cho trẻ em nhạy bén trong tri giác đối tượng và nắm chắc đối tượng hơn.
Ví dụ : Bông hoa có màu tím trong lọ hoa tên là gì? Hoa bằng lăng trong lọ hoa có màu gì? (Nhưng thực ra không có hoa bằng lăng).
* Đàm thoại sau khi quan sát ngắn: 
Đàm thoại sau khi quan sát ngắn là quá trình hỏi và trả lời của giáo viên và trẻ em diễn ra trong bối cảnh không còn đối tượng trực quan trước mặt trẻ 
Trước hết, giáo viên cần phải hiểu rõ ý nghĩa và sự cần thiết đối với việc đàm thoại sau khi quan sát ngắn. Tổ chức cho trẻ đàm thoại sau khi quan sát ngắn có tác dụng tăng cường trí nhớ, cũng cố và làm sâu sắc hơn những điều trẻ vừa quan sát được. Đồng thời, hệ thống lại những tri thức trẻ đã lĩnh hội trong lúc quan sát, mở rộng sự hiểu biết của trẻ về đối tượng, giáo dục thẩm mỹ và đạo đức sâu sắc hơn. 
Đối với trẻ 5- 6 tuổi, cho trẻ quan sát cần phải tiến hành nhanh gọn, vì trẻ đã có óc quan sát tốt. Nhưng đàm thoại sau khi quan sát lại có tầm quan trọng đặc biệt. Giáo viên phải chú ý coi trọng quá trình đàm thoại này.
Muốn đàm thoại, giáo viên phải tổ chức cho trẻ ngồi theo hình vòng cung, không khí giữa giáo viên và trẻ nên gần gủi, thân mật và cỡ mở. 
Hệ thống câu hỏi nhằm cũng cố những nội dung chính của quá trình quan sát. 
Mở rộng sự hiểu biết của trẻ về các đối tượng vừa được quan sát. Rèn luyện và phát triển lời nói mạch lạc, giáo dục thẩm mỹ và đạo đức cho trẻ. 
Ví dụ: Một số con vật nuôi trong gia đình, đối với trẻ từ 5- 6 tuổi
Các con vừa được xem những con vật gì? 
Những con vật này sống ở đâu? 
Những con vật này có mấy chân? 
Lông của những con vật này như thế nào? 
Thế nào là gia súc? 
Các con biết những con vật nào là gia súc?
Những con vật gia súc nào ăn cỏ? 
Chúng ăn như thế nào? Những con gia súc nào ăn thịt? 
Cách chăm sóc nó như thế nào?
* Đàm thoại theo chủ đề :
Là quá trình hỏi và trả lời của giáo viên và trẻ về những đề tài tổng hợp như: cây xanh, động vật sống khắp nơi, mùa đông, phương tiện giao thông
Trước khi tiến hành đàm thoại chủ đề, giáo viên cần giúp trẻ em tích lũy tri thức trước. 
Ví dụ : Trước khi đàm thoại về mùa đông giáo viên cần phải tổ chức cho trẻ dạo chơi, xem tranh ảnh, trò chuyện, kể chuyện về thời tiết, khí hậu, cây cối, hoa quả..
Đồ dùng trực quan cũng cần phải chuẩn bị nhưng không quan trọng bằng việc tích lũy tri thức. Hệ thống câu hỏi, giáo viên phải chuẩn bị chu đáo trước khi tiến hành đàm thoại. Câu hỏi đàm thoại cần gắn gọn, rõ ràng, đúng ngữ pháp và có tác dụng rèn luyện, phát triển tư duy của trẻ. Không đặt những câu hỏi chỉ yêu cầu trẻ trả lời có hoặc không. Câu hỏi cần phải phù hợp với trình độ nhận biết của trẻ ở lứa tuổi 5 - 6 tuổi.
Khi bắt đầu đàm thoại, giáo viên nên dùng một hai thủ thuật để kích thích hứng thú học tập của trẻ. Khi hỏi trẻ giáo viên phải nhìn vào mặt tất cả mọi trẻ trong lớp, câu hỏi khó nên đặt đối với trẻ khá giỏi, câu hỏi dễ nên đặt cho trẻ yếu kém, không nên chỉ tập trung gọi đi gọi lại một vài trẻ em trong lớp, tất cả trẻ em đều được tham gia đàm thoại. Đối với câu hỏi khó trẻ em không trả lời được, giáo viên phải đặt câu hỏi phụ. Khi trẻ trả lời được câu hỏi phụ, giáo viên lại hỏi lại câu hỏi khó vừa rồi. Giáo viên cần phải biết dẫn dắt trẻ trở về đề tài đàm thoại khi câu trả lời của trẻ đi xa đề.
Trong quá trình đặt câu hỏi với trẻ, lời nói của giáo viên phải diễn cảm, trìu mến, phải có những thủ thuật khích lệ, động viên khuyến khích trẻ trả lời. Trong quá trình đàm thoại, xen kẽ hỏi và trả lời, giáo viên có thể sử dụng đồ dùng trực quan hay một số biện pháp khác phối hợp. Nhưng khi sử dụng chúng cần phải nhanh gọn tránh lạm dụng. Câu trả lời của trẻ yêu cầu phải gắn gọn, rõ ràng, diễn cảm, không lan man và đúng ngữ pháp. Câu trả lời phải to vừa phải, không ê, a, không nên nói như hét hoặc không nói lí nhí trong cổ họng. Khi trẻ trả lời câu hỏi phải nhìn vào mặt người hỏi, tư thế tự tin, không cho ngón tay vào miệng
Đối với tất cả quá trình đàm thoại nói trên, tùy từng tình huống cụ thể, giáo viên phải đạo điều kiện và khuyến khích trẻ em đặt câu hỏi lại đối với giáo viên và các bạn trong lớp.
Ví dụ: Về cây xanh (đối với trẻ 5 - 6 tuổi)
Cho trẻ hát một bài về cây cối hoặc hoa quả. Tổ chức cho trẻ chơi trò chơi “Hãy kể tên 3 thứ”, hãy kể tên 3 loại cây cảnh. Hoặc giáo viên có thể khuyến khích trẻ đọc câu hỏi : Các con có muốn hỏi gì về cây cối ở xung quanh chúng ta không?
* Đối với biện pháp dùng lời nói:
Câu hỏi trò chuyện phải thật ngắn gọn với nội dung đơn giản và dễ hiểu. Có những câu hỏi bắt buộc trẻ phải trả lời, nhưng có những câu hỏi trẻ em không cần phải trả lời nhưng vẫn phải suy nghĩ. 
Đối với trẻ em cá biệt (giỏi hơn, kém hơn có hoàn cảnh đặc biệt). Giáo viên dùng biện pháp trò chuyện để nâng cao trình độ nhận biết của trẻ, đáp ứng nhu cầu hiểu biết của chúng hoặc để giáo dục cá biệt. Trò chuyện cũng có tác dụng cũng cố mở rộng hiểu biết và trích lũy tri thức cho trẻ.
Giải thích là biện pháp cần thiết với tất cả các hình thức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh. Giáo viên dùng lời nói ngắn gọn súc tích đê giảng giải cho trẻ 
Hiểu sâu sắc hơn về đối tượng. Nhưng không nên lạm dụng biện pháp này , vì nó làm cho quá trình nhận biết đối tượng của trẻ căng thẳng, mệt mỏi. Các đối tượng có xung quanh chúng ta thật đa dạng và phong phú , nhiều khi chỉ cần trẻ em cảm nhận được chúng chưa cần trẻ em hiểu được tất cả .
* Sử dụng những tác phẩm văn học trẻ em 
 Giáo viên tuyển chọn một số tác phẩm văn học trẻ em như truyện, thơ, ca dao, đồng dao, câu đố và tục ngữ có nội dung phù hợp với mục đích cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh để sử dụng trong các tiết học, buổi chơi, buổi dạo chơi và khi tổ chức các ngày lễ, hội.
	Tùy từng chủ đề, từng đối tượng, giáo viên có thể sử dụng đồng dao, ca dao phù hợp.
Ví dụ: Khi cho trẻ khám phá về quả khế, giáo viên sử dụng câu đố:
“Quả gì năm cánh
Xếp thành hình sao
Bé nếm thử nào
Ôi sao chua quá”
Hoặc khi cho trẻ khám phá con cua, giáo viên dùng câu đố:
“Con cua tám cẳng hai càng
Không đi mà lại bò ngang cả ngày”
Trẻ đoán ngay được là con cua và hình thành ngay biểu tượng về con cua: Con cua có hai càng to, có tám chân và bò ngang.... tiếp theo giáo viên có thể đặt câu hỏi gợi mở: “Các con có biết con cua đi như thế nào không?” để trẻ trả lời. Như vậy không những trẻ biết được đặc điểm của con cua mà còn biết môi trường sống của chúng, cách vận động, các bộ phận của con cua ra sao. Khi đã năm rõ đặc điểm, trẻ quan sát dễ hơn, từ đó so sánh rõ ràng và phân loại cũng tốt hơn.
Hoặc có những bài thơ giúp trẻ làm quen với các hiện tượng tự nhiên, như bài thơ “Cầu vồng” giúp trẻ biết đặc điểm và vẻ đẹp rực rỡ của cầu vồng.
“Mưa rào vừa tạnh
Có cái cầu vồng
Ai vẽ cong cong
Tô màu rực rỡ:
Tím, xanh, vàng, đỏ...
Ồ! Hai cái cơ
Cái rõ, cái mờ
Ai tài thế nhỉ?”
Thứ ba: Hướng dẫn giáo viên thực hiện các phương pháp, biện pháp thực hành. 
Các phương pháp, biện pháp thực hành là tổ chức cho trẻ hoạt động để tìm tòi kiến thức mới hay vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn, vừa để cũng cố kiến thức, vừa tạo nên một hệ thống các kỷ năng, kỷ xảo thực hành. Nguồn kiến thức đem đến cho trẻ là thông qua hoạt động thực tiễn. 
*Phương pháp tìm kiếm, phát hiện
- Đây là phương pháp mà giáo viên phải tổ chức cho trẻ hoạt động trong thực tiễn để tìm tòi, khám phá và phát hiện những điều mới lạ về các sự vật và hiện tượng qua một số thí nghiệm đơn giản.
Ví dụ: Về nước (trẻ từ 5 - 6 tuổi)
Trẻ nhận biết được tên gọi, màu sắc, mùi vị của nước. Trẻ thấy được hiện tượng nước bốc hơi và nguyên nhân của sự bốc hơi này. Trẻ hiểu được sự tuần hoàn của nước và giáo dục trẻ thấy được lợi ích của nước đối với con người, cây cối và động vật.
+ Tổ chức cho trẻ hoạt động:
Giáo viên và trẻ em, mỗi người (hoặc 2 - 3 người) phải có ở trên bàn, trước mặt một cốc nước (cốc thủy tinh trong) và từ 5 - 7 băng giấy màu đỏ, lam, chàm, tím, vàng, trắng.
Giáo viên nói: Đố các con, nước ở trong cốc có màu gì? Mùi gì? Vị gì? Muốn biết điều đó phải làm như thế nào? 
Giáo viên hướng dẫn trẻ và cùng nhau làm: Muốn biết nước có màu gì thì phải so sánh màu của nước với các băng giấy, xem nước giống màu của băng giấy nào. Giáo viên làm trước, trẻ em làm theo, so sánh từng băng giấy màu với nước trong cốc bằng cách đặt băng giấy ở cạnh và dọc theo cốc nước. Muốn biết nước có vị gì thì dùng que tăm sạch để nếm một ít nước.
Giáo viên nói tiếp: Đố các con tại sao nước lại bốc hơi được?
Muốn biết điều này, tất cả các con phải xem cô làm đây:
Cho trẻ xem một cái xoong mới và trắng tinh, nắp xoong thật khô ráo. Cho nước vào ½ xoong, không đật nắp, đun trên bếp giầu hoặc bếp ga, lưu ý trẻ nhìn kĩ để thấy hiện tượng xảy ra.
Sau đó giáo viên lại nói tiếp: Bây giờ các con nhìn xem hơi nước lại biến thành nước như thế nào nhé.
Giáo viên làm tiếp: Đậy nắp xoong, tiếp tục đun, không ít phút sau, giáo viên mở nắp xoong và chỉ cho trẻ xem những giọt nước đọng dưới nắp (làm như vậy 2 - 3 lần). Giáo viên giải thích cho trẻ về hiện tượng này.
+ Tổ chức đàm thoại:
Nước có màu gì?
Nước có mùi gì?
Nước có vị gì?
(Dạy trẻ mẫu câu: Nước không màu, không mùi, không vị)
Tại sao nước lại bốc hơi được?
Hơi nước bay đi đâu?
Khi nào hơi nước biến thành nước?
Như vậy, thủ thuật sử dụng thí nghiệm cho trẻ trực tiếp làm hay trực tiếp quan sát tạo ghi nhớ lâu ở trẻ. Trẻ đưa ra được những kết luận từ thực tế. tùy theo đề tài cụ thể, giáo viên có thể đưa ra những thí nghiệm phù hợp, tạo sự tò mò tìm hiểu ở trẻ. Đồng thời trẻ ghi nhớ và nắm vững kiến thức đó được sâu hơn.
Thứ tư: Hướng dẫn giáo viên làm giàu vốn hiểu biết cho trẻ về môi trường xung quanh
Thông qua các cuộc dạo chơi quanh vườn trường, cô cùng trẻ đàm thoại về các loại cây trong vườn trường (cây gì? Cây có những bộ phận nào? Lá cây này như thế nào? Cây được trồng để làm gì?...) cho trẻ nói lên những suy nghĩ của mình khi đi dạo quanh vườn cây. Bằng cách liên hệ thực tế, cô còn giúp trẻ hiểu được cây xanh là nguồn cung cấp nguyên liệu làm nên các sản phẩm : tủ, bàn ghế, giường. những loại cây này rất quý hiếm và trồng trong rừng. Qua đó, giáo dục trẻ về việc bảo vệ tài nguyên rừng, tuyên truyền không khai thác bừa bãi, không chặt phá rừng.
Thông qua việc xem tranh ảnh liên quan đến môi trường, tranh sưu tầm, hình ảnh tìm kiếm trên mạng, cho trẻ thấy được sự tương phản giữa môi trường có nhiều cây xanh và môi trường thiếu cây xanh. Qua đó, cho trẻ nói lên những suy nghĩ của mình vè hai môi trường đó. Từ đó rút ra kết luận.
Có nhiều loại cây: cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây cho bóng mát, cây ăn rau, cây làm thuốc. Giáo viên cho trẻ biết ăn rau nhiều sẽ cung cấp vitamin cho cơ thể và giúp cho da dẻ hồng hào. Tuy công dụng khác nhau nhưng quá trình sinh trưởng và phát triển của chúng tương đối giống nhau.
Tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động:
Vẽ, tô màu, cắt dán ảnh về cây xanh.
Xây mô hình vườn cây.
Chơi trò chơi : “Cây nào, quả ấy”, “gắn quả cho cây”
Sau khi cung cấp kiến thức cơ bản về cây xanh, cô và trẻ cùng dành một khoảng thời gian để thảo luận cùng nhau, cô đặt ra tình huống cho trẻ giải quyết:
Cây cần gì để lớn lên?
Để có những loại quả ngon cho chúng ta ăn, chúng ta cần phải làm gì?
Nếu không có cây xanh thì môi trường sẽ như thế nào?
Rừng cung cấp gì cho chúng ta? Nếu rừng bị tàn phá thì ảnh hưởng gì?
Để trẻ dễ dàng tiếp nhận vấn đề, trong quá trình sinh hoạt hàng ngày, cô giới thiệu cho trẻ về đối tượng mới để trẻ tiếp nhận. Qua đó, giáo dục trẻ về vấn đề chăm sóc, bảo vệ cây xanh. Nếu khai thác, chặt phá cây xanh bừa bãi sẽ gây lũ lụt, ô nhiễm môi trường. Như vậy vừa tuyên truyền việc trồng cây gây rừng cho trẻ hiểu.
Thứ năm: Hướng dẫn giáo viên xây dựng góc “Bé với thiên nhiên”
Xây dựng góc thiên nhiên có các cây xanh như: cây vạn niên thanh, cây hoa hồng, cây hoa mười giờ, cây sống đời.để hàng ngày cho trẻ đến chăm sóc cây cối, nhặt cỏ, bắt sâu, tưới nước. Trẻ sẻ cảm nhận được cây này có tên là cây gì? Lá như thế nào? Loại cây lá to hay lá nhỏ, nó dùng để làm gì?...
Giáo viên tổ chức cho trẻ các hoạt động nhằm giúp trẻ trực tiếp trải nghiệm như: chia lớp thành các đội, cho thi đua trồng và chăm sóc một cấy xanh, sau một thời gian giáo viên so sánh, nhận xét kết quả mỗi đội. Cho trẻ kể lại quá trình mình trồng và chăm sóc xây xanh.
Ví dụ: Giáo viên hướng dẫn trẻ quan sát và tìm hiểu về điều kiện sống của cây.
Cô và trẻ tiến hành gieo ba hạt đậu đen ở góc thiên nhiên. Hằng ngày cô và trẻ theo dõi, quan sát sự phát triển của cây. Sau khi cây nảy mầm thì mang cây vào trồng trong ba cái chậu: một chậu thường xuyên được tưới nước, có ánh sáng, không khí; một chậu có ánh sáng, không khí nhưng không tưới nước; một chậu có nước, không khí nhưng không có ánh sáng. Cô giao nhiệm vụ cho các tổ quan sát và nhận xét về các chậu cây:
Sau một thời gian chậu cây nào tươi tốt? vì sao?
Để cây xanh phát triển tốt, ta phải làm thế nào?
Từ những ý kiến của trẻ, giáo viên tổng hợp lại và đưa ra kết luận chung: “Muốn cây xanh phát triển tốt thì chúng ta phải cung cấp đầy đủ đất, nước, ánh sáng, không khí”.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp biện pháp 
Các giải pháp và biện pháp có mối quan hệ mật thiết và luôn hỗ trợ bổ sung cho nhau ưu điểm của giải pháp này là hỗ trợ cho nhược điểm của giải pháp khác. Muốn thực hiện các giải pháp thành công cần có các biện pháp cụ thể phù hợp với nội dung của giải pháp. Đối tượng nhận biết của trẻ sẽ không khô cứng, nếu như giáo viên biết phối hợp các giải pháp và biện pháp với nhau để làm cho những tri thức mà trẻ nhận được càng thêm phong phú. 
Muốn thực hiện các biện pháp, giải pháp có hiệu quả thì cần phải có những điều kiện cần thiết về môi trường (đó là môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội). Ở trường mầm non cần xây dựng góc thiên nhiên. Trong góc thiên nhiên đối tượng nuôi trồng cần phải phục vụ nội dung chương trình. 
Các đối tượng ở góc thiên nhiên cần đảm bảo những yêu cầu về thẩm mỹ, đa dạng, dễ chăm sóc và phải thường xuyên thay đổi đối tượng sao cho phù hợp với thời tiết, khí hậu của mỗi mùa. Cách xếp đặt các đối tượng trong góc thiên nhiên phải tiện lợi cho việc trẻ quan sát và không cản trở các hoạt động chung. 
Giáo viên phải tổ chức cho trẻ thường xuyên sử dụng đồ chơi và đồ dùng. Khi trẻ em sử dụng đồ vật, giáo viên cần khuyến khích giúp đỡ và chỉ dẫn trẻ nhận biết chúng. Đối với trẻ mẫu giáo cần có nhiều tranh ảnh, mô hình và màn hình. Nhưng việc sử dụng chúng như thế nào cũng cần phải có kế hoạch và tổ chức chu đáo, bảo quản tốt. Trường mầm non nên có những đồ chơi 

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_le_thi_huong_mn_krong_ana_2017_1672_2021844.doc