Đề tài Kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 5

Đề tài Kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 5

Với mỗi dạng văn miêu tả, để giúp học sinh biết cách viết, điều kiện cần đầu tiên là học sinh phải biết được cấu tạo của từng dạng văn miêu tả. Bởi văn tả cảnh, khác với văn tả người,.Thông thường trước khi vào mỗi dạng văn miêu tả thì theo chương trình trong SGK sẽ có một bài tập đọc hay bài chính tả có nội dung viết về văn miêu tả ở dạng này, đây là ngụ ý của SGK, giáo viên cần linh động tích hợp giới thiệu cho học sinh làm quen dần, sẽ giúp các em bớt bỡ ngỡ khi vào tìm hiểu dạng văn này và giúp các em học bài tốt hơn. Ví dụ: Trước khi vào bài “Cấu tạo bài văn tả cảnh”, đầu tuần GSK đã giới thiệu bài: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”,.

Để học sinh viết được bài văn miêu tả đảm bảo về cấu trúc và nội dung, giáo viên cần hình thành và giúp học sinh nắm được cấu tạo của từng dạng văn miêu tả. Khi dạy từng dạng cấu tạo của bài văn miêu tả của mỗi bài, ở phần nhận xét đều có một bài văn tả tương ứng. Giáo viên cần cho học sình tìm hiểu kĩ và đưa ra nhận xét về cấu tạo của từng dạng văn. Sau đó cho học sinh nêu cấu tạo của dạng văn miêu tả. Nội dung này đối với học dân tộc thiểu số phải được nhắc đi nhắc lại nhiều lần và được củng cố liên tục ở các tiết sau đó.

 

doc 23 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 4802Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Kinh nghiệm rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh dân tộc thiểu số lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 dụng trực quan nhiều trong dạy học.
 4. Nguyên nhân, các yếu tố tác động:
- Giáo viên chuẩn bị, nghiên cứu bài chu đáo, dự kiến trước những lỗi mà đối tượng học sinh mình mắc phải để tìm cách sửa chữa kịp thời. Đồng thời chuẩn bị, dự kiến trước những vấn đề có thể xảy ra để giúp đỡ, định hướng cho các em trong cách nghĩ, cách viết.
- Giáo viên thực hiện đúng quy trình đã nghiên cứu, kiên trì sửa sai, bổ sung kiến thức cho học sinh.
- Được sự quan tâm của lãnh đạo trường qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, cũng như sự trao đổi kinh nghiệm dạy học của các giáo viên trong tổ chuyên môn.
- Học sinh yêu thích môn học hơn khi được giáo viên giúp đỡ và hướng dẫn tìm ý, chọn từ để sắp xếp ý, xây dựng câu, đoạn văn, cảm nhận được cái hay, cái đẹp của mỗi bài văn hay trong từng bài tập đọc thuộc văn miêu tả.
- Giáo viên thường xuyên mượn sách, báo, tài liệu tham khảo, sưu tầm các bài văn hay cho các em đọc để cảm nhận.
 - Do đối tượng học sinh ít được tiếp xúc với thế giới xung quanh, ở nhà chủ yếu giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, ở những lớp dưới giáo viên chưa chú trọng dạy tập làm văn, việc rèn kĩ năng viết văn cho học sinh còn hạn chế. Vốn từ của các em quá ít ỏi. Do đó việc đọc, nói, viết, hiểu tiếng Việt của các em còn hạn chế, dẫn đến thời lượng tiết dạy thường kéo dài thời gian.
5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra:
Học sinh Tiểu học, phần lớn các em thích ham chơi mà các em lại sống trong môi trường gia đình không quan tâm đến việc học tập của con em mình nên các em chưa có động lực thúc đẩy học tập. Việc học của con em, phụ huynh phó mặc cho nhà trường và ý thức của các em, đa số phụ huynh đứng ngoài cuộc. Do đó dẫn đến học sinh chưa ham học, chưa thích học. Công tác phối kết hợp giữa nhà trường và phụ huynh chưa đạt hiệu quả cao do phụ huynh chưa hợp tác. Ví dụ: Học sinh không đi học, giáo viên vào nhà làm việc với phụ huynh, gọi học sinh đi học, phụ huynh chỉ trả lời: không biết hoặc nó không thích học, nó thích làm rẫy,Học sinh có thói quen thường xuyên sử dụng tiếng mẹ đẻ, ở địa phương tiếng phổ thông không thông dụng. Việc dạy các kĩ năng thông thường như đọc, viết chính tả,...cho các em đã tốn nhiều thời gian. Do đó để rèn cho học sinh kĩ năng viết văn miêu tả mang tính chất tổng hợp kiến thức, yêu cầu cao nên học sinh rất ngại phải viết văn. Giáo viên cũng hay nản, nếu không có sự kiên trì.
 Trước đặc thù của đối tượng học sinh trên địa bàn, vấn đề dạy học tiếng Việt cho các em nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến việc định hướng cho sự lựa chọn các phương pháp dạy học của một số giáo viên còn lúng túng. Do đó sử dụng phương pháp dạy học ở một số giáo viên còn qua loa, chưa đi vào nghiên cứu đối tượng học sinh cụ thể để lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp, dẫn đến hiệu quả dạy học còn chưa cao.
III. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP:
Mục tiêu: Giúp học sinh
+ Có thói quen quan sát, biết phát hiện những điều mới mẻ, thú vị về thế giới xung quanh.
+ Biết chọn lọc từ ngữ (đặc biệt là từ ngữ có biểu cảm), trình bày suy nghĩ của mình một cách mạch lạc (sống động), thành những câu văn sáng rõ về nội dung, có tình cảm chân thực.
+ Bồi dưỡng cho các em yêu đồ vật, con vật, cây cối, tình yêu quê hương đất nước, con người; bồi dưỡng vốn sống, vốn ngôn ngữ và khả năng giao tiếp cho các em.
Nội dung và cách thức thực hiện:
Chất lượng học sinh là một vấn đề được tất cả giáo viên quan tâm hàng đầu. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm. Tôi rất quan tâm và lo lắng về chất lượng học sinh của lớp mình phụ trách. Xác định rõ Tập làm văn là môn học hết sức quan trọng nhưng lại rất khó khăn đối với các em. Điều đó làm tôi suy nghĩ, mày mò tìm các giải pháp để cải thiện chất lượng học phân môn Tập làm văn, đặc biệt là văn miêu tả cho học sinh. Với một số kinh nghiệm của tôi trong những năm dạy học, tôi đã tìm ra những giải pháp, biện pháp sau:
2.1. Bồi dưỡng khả năng cảm thụ, viết văn miêu tả của giáo viên:
Để dạy cho học sinh biết viết một bài văn miêu tả hay thì trước hết người giáo viên phải bồi dưỡng khả năng cảm thụ, viết văn miêu tả có cảm xúc, giàu trí liên tưởng, khả năng biểu đạt,... Có như vậy mới hướng dẫn được học sinh viết ra những câu văn hay, giàu hình ảnh và cảm xúc, thổi được hồn của các sự vật vào trong tâm hồn của các em và truyền cảm hứng cho các em viết văn. Giáo viên phải làm chủ được kiến thức, ngôn từ để diễn đạt trong mọi tình huống ở trong các tiết Tập đọc,...và trong các bài văn của các em viết ra, từ đó mới định hướng, hướng dẫn các em cách tìm ý, dùng từ, đặt câu hay nhận xét, hướng dẫn các em chỉnh sửa trong các tiết trả bài. Để thực hiện được điều đó, giáo viên phải thường xuyên tự bồi dưỡng, tìm tòi, sưu tầm những bài văn hay, tìm hiểu cách viết văn ở các bài văn hay, đọc sách báo nhiều,...
2.2. Hướng dẫn học sinh nắm cấu tạo từng dạng văn miêu tả:
Với mỗi dạng văn miêu tả, để giúp học sinh biết cách viết, điều kiện cần đầu tiên là học sinh phải biết được cấu tạo của từng dạng văn miêu tả. Bởi văn tả cảnh, khác với văn tả người,...Thông thường trước khi vào mỗi dạng văn miêu tả thì theo chương trình trong SGK sẽ có một bài tập đọc hay bài chính tả có nội dung viết về văn miêu tả ở dạng này, đây là ngụ ý của SGK, giáo viên cần linh động tích hợp giới thiệu cho học sinh làm quen dần, sẽ giúp các em bớt bỡ ngỡ khi vào tìm hiểu dạng văn này và giúp các em học bài tốt hơn. Ví dụ: Trước khi vào bài “Cấu tạo bài văn tả cảnh”, đầu tuần GSK đã giới thiệu bài: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”,...
Để học sinh viết được bài văn miêu tả đảm bảo về cấu trúc và nội dung, giáo viên cần hình thành và giúp học sinh nắm được cấu tạo của từng dạng văn miêu tả. Khi dạy từng dạng cấu tạo của bài văn miêu tả của mỗi bài, ở phần nhận xét đều có một bài văn tả tương ứng. Giáo viên cần cho học sình tìm hiểu kĩ và đưa ra nhận xét về cấu tạo của từng dạng văn. Sau đó cho học sinh nêu cấu tạo của dạng văn miêu tả. Nội dung này đối với học dân tộc thiểu số phải được nhắc đi nhắc lại nhiều lần và được củng cố liên tục ở các tiết sau đó. 
Ví dụ: Cấu tạo của bài văn tả cảnh
Bài văn tả cảnh thường có ba phần:
1. Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả.
2. Thân bài: Tả từng phần của cảnh hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian.
3. Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết.
2.3. Chọn đề tài gần gũi với học sinh.
Là đối tượng học sinh dân tộc thiểu số vùng khó khăn nên khả năng tư duy liên tưởng của các em gặp nhiều hạn chế. Vì đời sống sinh hoạt của các em chưa phong phú, khả năng diễn đạt bằng tiếng Việt cũng vậy. Do đó, giáo viên cần phải cân nhắc, lựa chọn đề tài gần gũi với các em thường ngày mà các em hay tiếp xúc và nên đưa ra nhiều dạng đề để các em có nhiều lựa chọn.
	Ví dụ: Đối với văn tả cảnh giáo viên nên chọn các đề: Tả cảnh trên sân trường, cảnh nơi em ở,... 
Chẳng hạn, với đề bài sau: Lập dàn ý bài văn tả cảnh một buổi sáng (trưa, chiều) trong vườn cây (trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy)
Đối với đề bài này, giáo viên cần xem xét, định hướng cho các em lựa chọn. Đối với trường tôi, tôi sẽ lựa chọn một trong hai cách: trên cánh đồng hoặc trên nương rẫy. Sau đó tôi tập trung hướng dẫn học sinh cách lập dàn ý: Tả cảnh một buổi sáng trên cánh đồng (vì trường tôi nằm gần cánh đồng, trên đường đi học các em thường đi qua, các em được tiếp xúc nhiều và học sinh cũng vừa được làm quen với bài “Buổi sớm trên cánh đồng” trong SGK). Sau đó tôi mới khuyến khích học sinh có thể chọn và lập dàn ý tả cảnh trên nương rẫy,... tùy vào ý thích và sự hiểu biết của mình. Hay với dạng đề bài tả cảnh sông nước, tôi sẽ hướng dẫn học sinh chọn và tả cảnh bờ hồ nằm ngay cạnh trường,...
Để phát triển khả năng và sự sáng tạo của mỗi học sinh, giúp cho mọi đối tượng học sinh được phát triển. Mỗi lần yêu cầu học sinh làm bài viết, tôi thường đưa ra nhiều đề cho học sinh lựa chọn . 
Ví dụ: Văn tả người, có thể ra các loại đề sau:
Đề 1: Tả một người thân mà em yêu quý.
Đề 2: Tả một người bạn mà em quý mến.
Đề 3: Tả một nghệ sỹ hài mà em yêu thích.
Đề 4: Tả một ca sĩ mà em yêu thích. 
2.4. Hướng dẫn quan sát, tìm ý, bồi dưỡng vốn từ, cách dùng từ đặt câu và dùng dấu câu cho học sinh:
	a. Hướng dẫn quan sát, tìm ý: 
	Trong dạy học học sinh dân tộc thiểu số, muốn học sinh nắm được bài, hiểu được bài thì trực quan là yêu cầu đầu tiên cần phải có. Bởi các em phần lớn chỉ biết tư duy trực quan, chỉ cần lắt léo, trừu tượng một tí là rất khó khăn đối với các em. Các em có quan sát, có nhìn thấy thì mới tìm ra được từ và hiểu đúng nghĩa từ đó. Mặt khác, điều đặc trưng của văn miêu tả là phải trực tiếp quan sát sự vật thì mới viết được bài văn mang sắc thái riêng, gắn với sự vật đó. Nếu không quan sát sự vật theo yêu cầu đề bài mà các em viết thì phần lớn là chép theo văn mẫu hoặc bắt chước người khác viết một cách máy móc. 
	Ví dụ: Tả về mẹ, có em viết: “Mẹ em dong dỏng cao, có nước da ngăm ngăm đen và khuôn mặt hình trái xoan” nhưng trên thực tế thì mẹ em đó nước da trắng và chiều cao khiêm tốn. Hay tả bạn thì bạn nào cũng khuôn mặt trái xoan,...
	 Do đó chúng ta cần hướng dẫn trẻ quan sát và hình thành thói quen quan sát vì muốn miêu tả tốt thì quan sát phải tốt và có được những nhận xét đúng để tìm ra được sự khác biệt, nét đặc trưng của sự vật, hiện tượng để có thể phân biệt sự vật, hiện tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Vai trò người giáo viên đối với hoạt động này hết sức quan trọng, các em không biết quan sát từ đâu, tìm ý như thế nào? Là người tổ chức hướng dẫn các em cần hướng dẫn các em dựa vào cấu tạo của từng dạng văn miêu tả để quan sát, tìm ý. Khi dạy văn tả cánh đồng, tôi có thể cho quan sát cánh đồng vào buổi sáng trên đường đi học. Sau đó, ở lớp tôi cho từng học sinh nêu từng ý quan sát được, viết lên bảng, hướng dẫn học sinh sắp xếp ý sao cho phù hợp theo cấu trúc của bài văn. Điều này giúp học sinh hứng thú, dễ hiểu vì đây là tổng hợp trí tuệ của tất cả học sinh. (các em còn yếu kém cũng hình dung ra và biết cách viết bài văn tả cánh đồng).
a. Bồi dưỡng vốn từ:	
Biết quan sát, cần phải dùng từ như thế nào để miêu tả là rất khó đối với các em. Các em ở đây vốn từ nghèo nàn, thế nên trong dạy học nhiều khi học sinh hiểu bài nhưng khi đứng lên trả lời, không thể nào diễn đạt được. Trong Tập làm văn, khi diễn đạt các em thường dùng sai từ, nhầm lẫn từ do không hiểu nghĩa của từ nên đặt sai chỗ hoặc đôi khi các em dùng từ đặt câu quá thật.
Ví dụ: Các câu văn tả bạn, có những em sử dụng từ sai: “ Khuôn mặt tròn giống như hai hòn bi xanh.”; “ Mũi bạn ấy giống như hình trái xoan.”; “Răng to như sữa bò.”;
“Bạn rất kính yêu chúng em.”... Hay chỉ liệt kê, dùng từ quá thật “Mũi bạn dài và nhỏ.”; “Cái mũi rất tẹt.”; “ Miệng rất nhỏ.”...
 Do những tồn tại trên, mỗi đề bài tôi thường gợi ý, hướng dẫn học sinh cách tìm từ ngữ để miêu tả dựa vào sự hiểu biết của mình hoặc giáo viên cung cấp từ mới cho các em. Hướng dẫn các em tìm từ bằng nhiều hình thức như: quan sát thực tế, qua tranh ảnh, xem phim, nhất là qua các phân môn khác của môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Luyện từ và câu, môn Tập đọc để giúp các em hiểu từ. Khi viết câu, tôi lại hướng dẫn các em cách dùng từ, hiểu từ mình đang dùng, bày cách liên tưởng, tìm hình ảnh so sánh, nhân hóa để viết câu văn cho hay hơn. Chẳng hạn: 
*Từ thường dùng khi làm bài văn tả người:
- Tả thân hình, dáng người: Cao, lùn, gầy gò, ốm yếu, nho nhỏ, nhỏ thó, tầm thước, xương xương, mảnh khảnh, dong dỏng, thon thả, đẫy đà, yểu điệu, béo phệ, mập mạp, lực lưỡng, vạm vỡ, trẻ trung, quắc thước,cân đối, gầy guộc, mảnh mai, cường tráng, tiều tuỵ, lụ khụ, uể oải, bụ bẫm
- Tả khuôn mặt, diện mạo: Bầu bĩnh, trẻ măng, hồng hào, đen sạm, rám nắng, xanh xao, tái mét, xanh tái như chàm, không còn chút máu, vuông vắn, vuông chữ điền, trái xoan, hốc hác, vô tư, đần độn, thông minh sáng sủa, khôi ngô, khả ái, xấu xí, rỗ như tổ ong, tươi tỉnh, niềm nở, hớn hở, ủ rũ, cau có, bơ phờ, hung tợn, ngờ nghệch khờ khạo, lầm lì, là lạ, đạo mạo, thơ ngây, nhăn nheo, thờ thẫn, đăm chiêu, thiểu não, hiền hậu, dễ thương,
- Tả làn da: Nhăn nheo, xanh như tàu lá, bạch tạng, trắng nõn, trắng trẻo, nõn nà, mịn màng, chai cứng, nứt nẻ, rám nắng, sần sùi, tái mét, xanh xao, xanh lét, hồng hào, đỏ thắm, mốc thếch, đen sạm, da bánh mật, ngăm ngăm, ngăm đen, đen đủi, trắng như trứng gà bóc
- Tả mắt: Đen huyền, đen láy, trong sáng, u buồn, lung linh, ươn ướt, sắc sảo, đượm buồn, thâm quầng, trắng đục, đỏ ngầu, sáng, lồi, tròn vo, xếch, một mí, mất ốc bươu, trao tráo, ti hí, mắt bồ câu,
- Tả cái nhìn của đôi mắt: Đăm đắm, mơ mộng, đắm đuối, dáo dác, trìu mến, mơ màng, chòng chọc, chăm chú, ngơ ngác, hằn học,
- Diễn tả tính cách: Nóng nảy, bạo dạn, vị tha, hời hợt,lười nhác, lì lợm, trầm tính, đứng đắn, thật thà, ôn hoà, hiền hậu, vui vẻ, nhút nhát, nghiêm nghị, dè dặt, siêng năng, thận trọng, lỗ mãng, bao dung, nhân hậu, khoác lác, ba hoa, nham hiểm, xảo quyệt, tham lam, ích kỉ, ưa giễu cợt, cau có, gắt gỏng, hấp tấp, khắt khe, láu táu, ít nói, nhã nhặn,... 
- Diễn tả thái độ: Vui sướng, hớn hở, hân hoan, hả hê, thoả thích, sảng khoái, khoái chí, vui nhộn, vui đáo để, vui mừng, đắc chí,
b. Dùng từ đặt câu:
	Giáo viên lưu ý học sinh khi tả: Tùy vào từng đối tượng mình tả, quan sát kĩ và lựa chọn từ phù hợp để miêu tả, không thể tả mái tóc, nước da của em bé như người lớn được. Tả con mèo thì mắt phải tròn, tiếng kêu “meo,meo”, ngủ lim dim, đi nhẹ nhàng,...Tả đêm trăng thì “ sáng vằng vặc”; tả tiếng suối chảy thì “róc rách”
- Trong quá trình dạy học, trong các tiết trả bài hoặc hướng dấn viết văn, tôi thường yêu cầu học sinh đặt câu với những từ vừa tìm được và đưa ra các trường hợp sử dụng từ chưa đúng để cả lớp phân tích nhận xét, sửa sai.Khi phát hiện học sinh viết sai, tôi thường đưa ra cho cả lớp nhận xét, sửa sai và rút kinh nghiệm theo các bước:
 	 + Câu văn của bạn viết, có chỗ nào chưa phù hợp, các em cần phải sửa? (Bạn sử dụng từ “bay” để miêu tả hoạt động của chó là không phù hợp)
 + Chúng ta cần thay từ “bay” bằng từ nào? (thay từ “bay” bằng từ “chồm”)
Học sinh sửa và viết đọc lại câu văn.
- Trong khi viết, học sinh thường viết những câu chưa đủ hai thành phần chính, dùng dấu chấm, phẩy chưa đúng hay những câu văn khô khan, thiếu hình ảnh cảm xúc, tôi lại hướng dẫn học sinh cách viết để câu văn hoàn chỉnh và hay hơn.
Ví dụ: Trong bài văn tả bạn H Duyên, có em viêt: “Cái trán cao, tóc dài ngang vai bạn buộc cao, rất gọn gàng.”
	Tôi chép câu văn lên bảng và hỏi:
+ Câu văn bạn viết đã giàu tính gợi tả chưa hay còn mang tính liệt kê?
+ Dựa vào đặc điểm của bạn H Duyên là một bạn thông minh, nhanh nhẹn, tóc ngang vai hay buộc cao, vầng trán cao. Vậy ta cần thay đổi câu văn này như thế nào, để miêu tả bạn H Duyên toát lên được những đặc điểm đó?
	Sau khi gợi ý cho học sinh nêu, tôi giúp học sinh chỉnh sửa và hoàn chỉnh câu văn có hình ảnh cảm xúc hơn, làm nổi bật đặc điểm của bạn H Duyên: “Mái tóc dài chấm ngang vai, luôn được bạn buộc cao như tóc đuôi gà, để lộ vầng trán cao, toát lên vẻ thông minh, nhanh nhẹn vốn có của bạn.”
* Cách dùng từ miêu tả, liên tưởng, so sánh:
 - Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách dùng từ miêu tả để giúp các em viết được câu văn sinh động hơn. Ví dụ: Khi tả hoa "nở", từ “nở” chỉ mang tính chất thông báo, mà cần phải sử dụng từ miêu tả như: bung nở, hé nở, xòe nở, bung cánh, hé cánh, xòe cánh,... Từ "xanh" chỉ miêu tả nhưng không gợi tả, cần hướng dẫn học sinh dùng từ gợi tả cho màu xanh: xanh biếc, xanh lam, xanh ngọc, xanh mướt,...Nếu giáo viên chú ý dạy tích hợp Tập làm văn vào trong Tập đọc, Luyện từ và câu thì sẽ giảm bớt được nhiều thời gian trong cung đoạn này. Ví dụ: Màu “vàng” được dùng từ gợi tả rất cụ thể trong bài: “Quang cảnh làng mạc ngày mùa”- Tiếng Việt 5, tập 1, trang 10. 
- Để câu văn sinh động hơn, giáo viên không chỉ hướng dẫn học sinh cách dùng từ miêu tả mà còn phải hướng dẫn học sinh cách dùng các biện pháp nhân hóa, so sánh mà các em đã được học, đưa vào bài để miêu tả sự vật được sinh động hơn. Rất khó đối với các em là cách liên tưởng để tìm hình ảnh so sánh sự vật.
Ví dụ: Tìm từ so sánh với mặt trời thì cần hướng dẫn học sinh:
+ Mặt trời có hình gì? Giống cái gì? (hình tròn giống như quả cầu)
+ Mặt trời có màu gì? Giống hình ảnh nào? (đỏ rực, giống như lửa)
Dẫn dắt học sinh đặt câu: "Mặt trời thì đỏ rực như quả cầu lửa", 
Tương tự để có câu: "Mảnh trăng cong cong như lưỡi liềm" 
- Đối với những học sinh khá, giỏi, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách sáng tạo câu văn bằng cách liên tưởng, so sánh sự vật nâng cao hơn. Ví dụ: Khi miêu tả “Hồ nước lặng yên” thì cho học sinh so sánh với trạng thái "lặng yên" của con người. Giáo viên có thể hỏi: Khi nào con người lặng yên? và học sinh có thể tìm ra được các từ " khi ngủ, khi nhớ, khi buồn, khi mơ mộng, ..." Như vậy, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh viết được rất nhiều câu: Hồ nước lặng im như chìm vào giấc ngủ./Hồ nước lặng im như đang mơ mộng với những đám mây trắng./Hồ nước lặng im như đang buồn bã điều gì./ Hồ nước lặng im như đang nhớ những vì sao lấp lánh buổi đêm....
 - Giáo viên cần tổng quát được cách dùng từ ở từng dạng văn miêu tả, để định hướng tốt cho các em khi viết văn: 
 + Tả cảnh thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm, có thể so sánh, nhân hoá làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động; cần bộc lộ cảm xúc trước sự vật được miêu tả trong cảnh.
 + Tả người thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, âm thanh; từ ngữ chỉ hoạt động, đặc điểm, trạng thái của người; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ tình cảm với người được tả.
2.5. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý và xây dựng đoạn văn phần thân bài:
Đây là một hoạt động hết sức quan trong làm văn miêu tả. Thế nhưng một số giáo viên thường bỏ qua giai đoạn này vì bước đầu thì đây cũng là một hoạt động khó đối với học sinh nói chung và đặc biệt là đối với học sinh dân tộc thiểu số vùng khó khăn lại càng khó hơn. Song nếu giáo viên hướng dẫn cụ thể thì các em sẽ làm được, việc này lặp đi lặp lại nhiều sẽ tạo thành thói quen có lợi trong viết văn cho học sinh. Nếu một bài văn mà các em biết cách lập dàn ý trước khi làm bài thì các em đã có định hướng tốt cho bài văn của mình. Bài văn có đầy đủ ý, bố cục chặt chẽ và lâu dần các em sẽ khái quát được cách làm một bài văn khi xác định xong đề bài.
	Khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý một bài văn tôi thường theo các bước sau:
	- Xác định đề bài
	- Nhắc lại cấu tạo bài văn theo đề bài đã cho
	- Tiến hành hướng dẫn lập dàn ý.
Ví dụ: 
Đề bài: Hãy tả ngôi trường thân yêu gắn bó với em trong nhiều năm qua.
Với đối tượng học sinh như đã nêu, tôi dẫn dắt học sinh thực hiện lập dàn ý từ hệ thống câu hỏi khá tỉ mỉ sau: 
+ Đề bài yêu cầu chúng ta làm gì? (Tả ngôi trường của em)
+ Đề bài thuộc dạng văn miêu tả nào? (tả cảnh)
+ Hãy nêu cấu tạo của bài văn tả cảnh? (Hs nêu)
+ Em quan sát vào thời gian nào? (buổi sáng khi học sinh chưa đến trường, buổi chiều khi học sinh đã ra về hay trong giờ học,...) 
+ Em quan sát bằng những giác quan nào? ( mắt nhìn, tai nghe các âm thanh như tiếng giảng bài của cô, tiếng trống,...tiếng cảnh vật xung quanh như tiếng ve kêu, chim hót,..)
+ Phần mở bài em cần giới thiệu như thế nào? (Hs nêu)
+ Phần thân bài em tả những cảnh nào của trường? ( HS nêu)
	+ Phần kết bài, em nêu cảm nghĩ của mình đối với ngôi trường như thế nào?
	*Lưu ý: Các em có thể tả cảnh trường vào một thời điểm nhất định hoặc theo thứ tự thời gian trong ngày như sáng đến chiều hay theo mùa. Khi quan sát, các em nên quan sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, nắm được điểm chung và riêng của cảnh, chú ý vào những điểm nổi bật nhất của cảnh. Sự liên quan của cảnh vật đó với cảnh vật xung quanh như con người, chim chóc, thiên nhiên,...
- Tổ chức nhận xét, bổ sung hoàn thiện dàn ý: Để giúp học sinh có một dàn ý hoàn chỉnh, giáo viên cho học sinh đọc dàn ý của mình cho cả lớp nhận xét, bổ sung, giáo viên giúp đỡ để các em hoàn chỉnh dàn ý.
 Dàn ý bài văn tả ngôi trường Tiểu học Tình Thương:
*Mở bài
+ Trường em mang tên Trường Tiểu học Tình Thương
+ Ngôi trường chưa khan

Tài liệu đính kèm:

  • docth_58_5412_2021931.doc