Báo cáo Kinh nghiệm giúp học sinh hạn chế phát âm sai

Báo cáo Kinh nghiệm giúp học sinh hạn chế phát âm sai

Luyện đọc đúng

Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của ngôn từ một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không đọc sót âm, vần, tiếng. Đọc đúng phải thể hiện hệ thống ngữ âm chuẩn. Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương. Bao giờ việc đọc đúng âm, thanh, vần, ngắt nghỉ đúng nhịp, biết đọc phân biệt được lời nhân vật trong bài thì khi đó việc đọc mới thật sự là có hiệu quả.

- Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị Tiếng Việt.

Học sinh không đọc: phẻ phắn, ngạc mũi, con châu mà đọc là khỏe khoắn, ngạt mũi, con trâu

- Đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngắt nghỉ hơi, ngữ điệu câu cần dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không tách từ ra làm hai.

 

doc 12 trang Người đăng hungphat.hp Lượt xem 2604Lượt tải 1 Download
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo Kinh nghiệm giúp học sinh hạn chế phát âm sai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m đúng với yêu cầu văn bản.
- Khả năng đọc hiểu của các em chưa cao.
- Việc đọc hiểu nội dung chỉ có một số ít học sinh, đa số các em đọc theo kiểu đọc vẹt, đọc trước quên sau.
- Một số phụ huynh học sinh chưa thật sự quan tâm đến việc học ở nhà của các em.
Nguyên nhân chính:
- Giáo viên chưa chú ý và chưa biết cách gợi mở, giúp học sinh yếu nên các em thường học vẹt, đọc bài xong nhưng không hiểu nội dung ý nghĩa của bài .
- Giáo viên chưa đưa được những yêu cầu nâng cao cho học sinh khá giỏi.
- Đội ngũ cán bộ - Giáo viên trong giảng dạy đôi khi có số ít không tâm huyết, không nhiệt tình, chưa nêu cao được khẩu hiệu “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Nhiều giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp, chưa xây dựng được nội dung hoạt động ngoại khóa, một số giáo viên chưa thật sự gương mẫu trong nhiệm vụ được giao, chưa lồng ghép được giảng dạy kết hợp giáo dục đạo đức cho học sinh. Có cả giáo viên chủ nhiệm chỉ lo làm kinh tế gia đình.
- Phụ huynh học sinh thiếu hiểu biết về sự nghiệp giáo dục mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang thực hiện.
- Cha mẹ học sinh không quản lý giúp học sinh tự học ở nhà.
- Thiếu sự kết hợp giữa nhà trường với giáo viên chủ nhiệm .
- Học sinh chưa tích cực mạnh dạn khi đọc bài trước lớp.
- Do đặc thù của học sinh ở miềm Nam, cho nên kết quả học sinh đọc sai cho thấy: 
Vào đầu năm học 2014- 2015, lớp tôi có 15 học sinh trong đó có 5 em điều phát âm sai dấu thanh hỏi và dấu thanh ngã, âm đầu ch/tr tất cả các em không phân biệt được trong quá trình phát âm. Còn về phát âm để phân biệt iên/iêng, iêc/ iêt, uôc/uôt, ... do học sinh ở miền Nam nên các em không phân biệt được và nhiều lỗi phát âm khác. Để thực hiện tốt việc phát âm cho học sinh nên bản thân tôi đã mạnh dạn làm đề tài kinh nghiệm giúp học sinh hạn chế phát âm sai.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN HOẶC ĐỀ TÀI:
1. Các giải pháp
Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên cơ sở của ngôn ngữ học. Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề như: Chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu, nghĩa của từ, của câu, đoạn, bài. Vì vậy đối với học sinh lớp 3 khi dạy Tập đọc giáo viên cần làm tốt một số yêu cầu như sau:
1.1. Làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, tham mưu, phối kết hợp với các lực lượng xã hội, các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường để nêu cao khẩu hiệu hành động “Tất cả vì học sinh thân yêu”, “Kỉ cương - tình thương - trách nhiệm”.
1.2. Phân loại học sinh theo từng trình độ nhận thức để có biện pháp giảng dạy, bồi dưỡng cho phù hợp từng nhóm đối tượng học sinh.
1.3. Tìm hiểu nội dung, phương pháp “Day tập đọc lớp 3”.
- Tìm hiểu những biện pháp giảm độ khó, cách hướng dẫn, gợi mở, các câu hỏi cho học sinh yếu, học sinh trung bình và nâng cao dần đối với học sinh khá, giỏi.
- Soạn giáo án chú ý quan tâm tới học sinh ở trình độ khác nhau.
Dạy thực nghiệm.
1.4. Phương pháp tham khảo:
- Giáo viên chủ nhiệm cần tham khảo sách giáo khoa, sách giáo viên, các nguồn tài liệu khác để có thêm những hiểu biết về phương pháp, hình thức tổ chức dạy Tập đọc, về đặc điểm trình độ học sinh. Dự giờ tìm hiểu để rút ra những cái hay của đồng nghiệp rồi học hỏi, áp dụng cho lớp mình.
- Phân tích sách giáo khoa, sách giáo viên của phân môn Tập đọc, phân tích đặc điểm học sinh của lớp mình để có cách hướng dẫn phù hợp giúp các em tự đọc trôi chảy, lưu loát, đọc biểu lộ cảm xúc, đọc hiểu.
*Mức độ yêu cầu đối với học sinh lớp 3
- Ở lớp 3 yêu cầu đọc tối thiểu ở giữa học kì I là: 55 tiếng/1phút, 60 tiếng/1 phút ở cuối học kì I, cuối năm là 70 tiếng/1phút.
- Đọc rõ ràng, rành mạch từng câu, từng đoạn bài đọc, biết đọc rõ và nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở dấu phẩy.
- Đọc thầm, hiểu nội dung bài đọc ở lớp 3. Trả lời được những câu hỏi về nội dung của bài, ý nghĩa của bài học.
- Có giọng đọc phù hợp với từng loại bài cụ thể.
 Để đạt được những mức độ yêu cầu như vậy người giáo viên chủ nhiệm cần
- Sau khi phân loại học sinh, giáo viên cần tổ chức đội ngũ chỉ huy lớp, tổ chức tổ tự quản biết cách hoạt động theo sự hướng dẫn của giáo viên.
- Giáo viên chủ nhiệm phải được tập thể học sinh tín nhiệm, yêu mến, luôn luôn biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của học sinh, biết tạo cho học sinh sự hứng thú trong học tập.
- Tạo được mối đoàn kết gắn bó của tập thể lớp.
- Sắp xếp vị trí ngồi học của học sinh sao cho mỗi bàn học là một đôi bạn có điều kiện giúp đỡ nhau về mọi mặt và thi đua lành mạnh trong các đôi bạn cùng tiến.
- Luôn biểu dương khích lệ, động viên các em trong lớp phấn đấu.
Người giáo viên chủ nhiệm cần quan tâm nhiều đến học sinh. Giúp các em đọc tốt không chỉ thông qua phân môn Tập đọc mà còn phải thông qua toàn bộ các môn học khác.
Ví dụ: Khi dạy một bài tập đọc, trước hết người giáo viên chủ nhiệm phải cần đọc mẫu diễn cảm một lượt rồi sau đó cho học sinh đọc nối tiếp theo từng câu nối tiếp nhau hai lượt: Lượt một giáo viên theo dõi đồng thời ghi những lỗi phát âm sai lên bảng lớp. Trước khi đọc lượt hai, giáo viên cho học sinh luyện đọc cho đúng các tiếng, từ mà học sinh đọc sai. Sau đó cho học sinh đọc lượt hai. Học sinh đọc sai tiếng, từ nào giáo viên cho học sinh phát âm lại cho đúng các tiếng từ mà trước đó học sinh phát âm sai. Sau đó là từng đoạn: Giáo viên tổ chức cho học sinh đọc cá nhân hai lượt (trong khi đọc lượt hai có kết hợp giải nghĩa từ), cho học sinh đọc theo nhóm đôi, đọc theo tổ, cuối cùng là cả lớp đọc đồng thanh cả bài. Khi học sinh đọc giao viên cần theo dõi phát hiện để tìm ra từ, câu học sinh đọc sai, sửa lỗi phát âm, cho các em luyện đọc từ khó nhiều lần luyện cách ngắt nghỉ sau các dấu câu. Giáo viên cần quan tâm giúp đỡ nhiều đến những em đọc yếu. Đối với cách đọc đoạn giáo viên cần cho những em có trình độ ngang nhau dần dần mới cho các em yếu hơn tham gia đọc tiếp 
Năng lực đọc được cụ thể hóa thành các kĩ năng đọc chỉ được hình thành khi học sinh thực hiện hai hình thức đọc thành tiếng và đọc thầm. Chỉ khi nào học sinh thực hiện thành thạo hai hình thức này mới được xem là biết đọc. Vì vậy tổ chức dạy tập đọc cho học sinh chính là quá trình làm việc của thầy và trò để thực hiện hai hình thức đó. Đọc thành tiếng là hình thức không thể thiếu được, đây là điều kiện cần thiết để rèn luyện tính tự giác trong quá trình học tập của học sinh.
Đọc thầm là sự chuyển hóa vào trong của đọc thành tiếng. Trong mỗi bài học đọc thành tiếng và đọc thầm luôn được xen kẻ bổ sung cho nhau, đặc biệt là khi tìm hiểu bài học sinh phải đọc thầm để trả lời, tìm hiểu nội dung ý nghĩa của bài. Để đạt mục đích cuối cùng là đọc thông hiểu thạo, chúng ta tách rời chúng ra thành hai việc: Tổ chức dạy đọc thành tiếng và tổ chức dạy đọc thầm.
Tổ chức dạy học thành tiếng
Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tư thế để đọc, khi ngồi đọc cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nằm trong khoảng 30-35 xăng-ti-mét, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi.Ở lớp khi được giáo viên gọi đọc học sinh phải bình tĩnh tự tin, không hấp tấp đọc ngay, khi đọc thành tiếng các em phải tính đến người nghe. Giáo viên cần cho các em hiểu rằng việc đọc không chỉ cho mình thầy cô giáo nghe mà để cho các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn, rõ ràng. Như thế không có nghĩa là đọc quá to, để luyện cho học sinh đọc quá nhỏ, giáo viên cần tập cho các em đọc to chừng nào bạn ở xa nhất lớp nghe thấy mới thôi.
Giáo viên nên cho học sinh đứng trên bảng để đối diện với những người nghe. Tư thế đọc phải thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay.
Luyện đọc đúng
Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của ngôn từ một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không đọc sót âm, vần, tiếng. Đọc đúng phải thể hiện hệ thống ngữ âm chuẩn. Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương. Bao giờ việc đọc đúng âm, thanh, vần, ngắt nghỉ đúng nhịp, biết đọc phân biệt được lời nhân vật trong bài thì khi đó việc đọc mới thật sự là có hiệu quả.
- Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị Tiếng Việt.
Học sinh không đọc: phẻ phắn, ngạc mũi, con châumà đọc là khỏe khoắn, ngạt mũi, con trâu
- Đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngắt nghỉ hơi, ngữ điệu câu cần dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không tách từ ra làm hai.
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm; nhấn giọng từ ngữ gợi tả, gợi cảmphù hợp với tình cảm diễn đạt trong câu. Ngoài ra còn phải chú ý đọc ở bộ phận giải thích của câu.
Như vậy đọc đúng bao giờ cũng gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm .
- Trình tự luyện đọc đúng : Khi lên lớp giáo viên phải dự tính để ngăn ngừa các lỗi phát âm. Tùy đối tượng học sinh mà giáo viên xác định các lỗi phát âm địa phương hoặc các vùng miền dễ mắc phải để cho các em luyện đọc trước.
- Khi lên lớp giáo viên cần đọc mẫu, cho học sinh đọc đồng thanh, sau đó cho các em đọc cá nhânvới các câu mà giáo viên dự tính sẽ có nhiều em đọc sai, ngắt nghỉ không đúng chỗ, đúng nhịp thì cũng tiến hành như vậy, sau cùng mới luyện đọc hoàn chỉnh cả đoạn, bài.
Luyện đọc nhanh
- Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến cách đọc về mặt tốc độ. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đọc sau khi đã đọc đúng. Mức độ đọc thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn, không vừa đọc vừa đánh vần. Về sau tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận nội dung bài đọc. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc.
- Biện pháp luyện đọc nhanh: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ đã
dự định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra còn có biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra của thầy cô giáo, của bạn. Giáo viên đo tốc độ bằng cách chọn sẵn bài và dự tính thời gian đọc để kiểm tra các em.
Tổ chức dạy đọc thầm 
Đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng ở chỗ nhanh 1,5 đến 2 lần. Nó có ưu thế để tiếp nhận, hiểu nội dung bài vì người đọc phải chú trọng đến việc hiểu nội dung bài mình đọc.
Dạy đọc thầm cần chú ý các công việc như sau:
- Chuẩn bị cho việc đọc thầm : Ngồi đúng tư thế, khoảng cách từ mắt đến sách 30 đến 35 xen ti mét.
- Tổ chức quá trình đọc thầm: Kĩ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài vào trong, từ đọc to đến đọc nhỏ, đến đọc mấp máy môi (không thành tiếng) đến đọc hoàn toàn bằng mắt không mấp máy môi (đọc thầm). Giai đoạn cuối lại cần hai bước: Di chuyển mắt theo que chỉ hoặc ngón tay trên dòng chữ rồi đến chỉ mắt di chuyển. Giáo viên phải tổ chức quá trình chuyển từ ngoài vào trong :
Đọc hiểu : Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung, ý nghĩa của văn bản đọc. Đọc thầm chính là dạy đọc có kiến thức đọc hiểu, kết quả đọc thầm giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài
 Cách dạy:
- Học sinh yếu, học sinh trung bình thì giáo viên cần:
Hướng dẫn kĩ lưỡng, tỉ mĩ.
Giảm tốc độ khó.
Cho học sinh khá giỏi kèm cặp các em yếu.
Cần yêu cầu các em đọc, chuẩn bị bài trước ở nhà.
Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, những thuận lợi, khó khăn để có biện pháp giúp các em đọc có hiệu quả.
- Đối với học sinh khá, giỏi, giáo viên cần :
Phải có những yêu cầu nâng cao.
Yêu cầu học sinh cùng một ý diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau.
Khi đọc cần yêu cần các em thể hiện giọng đọc của nhân vật.
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy Tập đọc
Đổi mới phương pháp dạy học thực chất là tìm cách chuyển hóa những thành
tựu mới nhất của khoa học vào quá trình giáo dục thực tiễn cho người học nhằm pháp huy tính chủ động sáng tạo của người học. Một vấn đề đòi hỏi đổi mới đồng bộ từ nội dung, phương pháp dạy học đến các phương tiện, hình thức tổ chức dạy học.
Về phương pháp đó là tổ chức việc làm trong giờ học chuyển cách dạy học thầy giảng trò ghi nhớ (thụ động) thành thầy tổ chức cho trò thực hiện (chủ động). Giờ học lúc này sẽ được cấu thành nhiệm vụ và bài tập cần giải quyết. Giáo viên nắm chắc mục đích của nhiệm vụ và bài tập để giúp các em giải quyết một cách chính xác theo trình tự. Công việc của thầy lúc này là ra lệnh, hướng dẫn và kiểm tra, việc thực hiện là từ người học, từ học sinh. Nhiệm vụ phải được giáo viên trình bày một cách rõ ràng, ngắn ngọn, chính xác. Nhiệm vụ phải được xây dựng sao cho trật tự thực hiện được trãi dài và chia ra từng thao tác. Giáo viên phải nắm chắc trình tự này để kiểm tra quá trình thực hiện của học sinh. Từ đó để biết cách giải quyết khó khăn, sửa sai, uốn nắn kịp thời cho các em.
2. Kết quả chung
Qua thời gian áp dụng những vấn đề trên tại lớp 3 Trường Tiểu học Trần Thới 2 tôi nhận thấy đã có kết quả rõ rệt:
Từ một lớp mà đầu năm có 5 học sinh đọc yếu hơn cả trong khối, học sinh đọc hiểu văn bản còn hạn chế, đa số các em chưa biết cách đọc thầm, học sinh đọc còn sai nhiều về dấu thanh, vần, phụ âm đầu do đặc thù của học sinh ở miền Nam. Hiện nay các em đã đọc tương đối tốt, đọc lưu loát, trôi chảy, các em đã tự tin, mạnh dạn hơn so với đầu năm, đa số các em đọc đúng phụ âm đầu, vần, dấu thanh, các em đều biết cách đọc thầm để tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của bài.
III. ĐÁNH GIÁ VỀ TÍNH MỚI, TÍNH HIỆU QUẢ VÀ KHẢ THI, PHẠM VI ÁP DỤNG:
1. Tính mới
Nhìn chung một cách tổng thể về việc giáo viên giúp học sinh phát âm đúng nhất là đối với đặc thù của học sinh miền Nam giáo viên gặp rất nhiều khó khăn do các tiếng mẹ đẻ đã thấm vào trong máu của các em. Từ đó thói quen này một ngày, hai ngày không thể thay đổi được các em về cách đọc. Mà phải được giáo viên giúp đỡ một cách thường xuyên và liên tục. Đòi hỏi người giáo viên phải tổ chức một cách khoa học và đầy sáng tạo phải đi vào thực tế. Qua dự giờ tôi nhận thấy đa số giáo viên tổ chức giúp học sinh đọc đúng còn mang tính rập khuôn, nặng về hình thức, chưa có sáng tạo cao, chưa đi vào thực tế, giáo viên cứ ấn định trước theo cách áp đặt. Còn có ý kiến cho rằng không thể sửa được lỗi phát âm cho học sinh do đặc thù của học sinh miền Nam. Bản thân tôi, thì tôi nhận thấy mặc dù học sinh miền Nam hay ở miền nào đi nữa trên khắp đất nước ta vẫn sửa được lỗi phát âm sai cho học sinh. Mà điều này tôi thấy giáo viên trong quá trình hướng dẫn phát âm đúng cho học sinh giáo viên tổ chức mang tính sáng tạo không cao. Kinh nghiệm nêu trên qua một năm áp dụng tôi thấy bước đầu đa số các em phát âm đúng, nhất là những vần khó đọc như: uê, uơ, oa, uynh, uya, ...
2. Tính hiệu quả và khả thi
Qua áp dụng sáng kiến kinh nghiệm nêu trên tôi thấy đối với cơ sở vật chất hiện tại của các trường trong toàn xã nhà thì việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm nêu trên một cách dễ dàng đồng thời dễ thực hiện. Nếu giáo viên tâm huyết với nghề, giáo viên luôn luôn có ý nghĩ “ Tất cả vì học sinh thân yêu” thì trong quá trình thực hiện không gì khó khăn. Riêng trường tôi qua áp dụng những kinh nghiệm nêu trên đã đạt hiệu quả như sau:
NĂM
HỌC
TSHS
ĐẾN CUỐI NĂM HỌC MỨC ĐỘ HỌC SINH PHÁT ÂM ĐÚNG
Dấu thanh
Âm đầu
Vần
Âm đệm (u,o)
Nguyên âm đôi
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2014
2015
15/5
15
100
15
100
15
100
15
93.33
15
100
3. Phạm vi áp dụng
Từ một số kinh nghiệm đã nêu, qua bản thân tôi đã áp dụng cùng với nhiều bạn đồng nghiệp trong trường và trong xã nhà đã áp dụng. Thông tin phản hồi cho thấy: Tất cả đồng nghiệm đã áp dụng cho rằng kinh nghiệm nêu trên dễ áp dụng và mang lại hiệu quả khá cao. Đó cũng là một bước tiến mới của việc giúp học sinh phát âm đúng đối với học sinh miền Nam.
IV. KẾT LUẬN:	
Qua một số kinh nghiệm dạy học phân môn Tập đọc nêu trên tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm như sau:
Một là: Giáo viên phải nắm đựoc vai trò vị trí của phân môn Tập đọc ở lớp 3 nói riêng, phân môn Tập đọc ở trường Tiểu học nói chung. Giáo viên phải nắm được mục tiêu của từng bài dạy ở phân môn Tập đọc. Qua bài tập đọc đó giáo viên cần cho học sinh nắm được những tri thức gì.
Hai là: Giáo viên phải biết từng thể loại của từng bài tập đọc để dạy cho học sinh thật sự mang lại hiệu quả tốt.
Ba là: Giáo viên phải biết phân tích sách giáo khoa, sách giáo viên cùng với các tài liệu hỗ trợ khác.
Bốn là: Giáo viên phải biết tổ chức giờ dạy Tập đọc phát huy được tính tích cực của người học, phù hợp đặc điểm của học sinh ở miền Nam, từng đối tượng khác nhau của học sinh trong lớp.
Năm là: Phải làm tốt công tác chủ nhiệm.
Sáu là: Giáo viên phải biết dự đoán các tình huống xấu xảy ra trong giờ học Tập đọc. Từ đó chủ động giải quyết các tình huống không tốt theo chiều hướng tích cực.
Bảy là: Giáo phải hiểu một cách sâu sắc nội dung của từng bài Tập đọc, giáo viên đọc mẫu rõ ràng, nhập vai của từng nhân vật trong từng bài đọc cụ thể.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân, kính trình lên Hội đồng khoa học các cấp của ngành. 
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Người báo cáo
 ĐƠN VỊ TRỰC TIẾP
 Nguyễn Minh Vững 
Mẫu 02/BCTTSK
CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
 Trần Thới, ngày 02 tháng 04 năm 2015
BÁO CÁO
TÓM TẮT NỘI DUNG, HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN
 - Tên sáng kiến: KINH NGHIỆM GIÚP HỌC SINH HẠN CHẾ PHÁT ÂM SAI.
- Họ và tên: Nguyễn Minh Vững
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Trần Thới 2.
- Cá nhân, tổ chức phối hợp: 
- Đồng chí: Lý Văn Út giáo viên dạy lớp 3.
- Đồng chí: Châu Hồng Khọn giáo viên dạy lớp 3.
- Đồng chí: Trần Thị Thanh giáo viên dạy lớp 3.
- Thơi gian đã được triển khai thực hiện: Từ ngày: 20 / 8 / 2014 đến ngày: 30 /05/2015.
1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến:
Đã qua nhiều năm công tác, tôi nhận thấy học sinh của trường Tiểu học Trần Thới 2 còn nhiều em phát âm chưa đúng. Do một số nguyên nhân như sau:
- Trình độ học sinh không đồng đều.
- Một số học sinh khi đọc gặp từ khó phải vừa đọc vừa đánh vần.
- Học sinh đọc không trôi chảy, không lưu loát.
- Nhiều em phát âm sai, đọc theo phương ngữ.
 2. Mô tả sáng kiến (nội dung sáng kiến):
Phương pháp dạy tập đọc phải dựa trên cơ sở của ngôn ngữ học. Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề như: Chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu, nghĩa của từ, của câu, đoạn, bài. Khi dạy Tập đọc giáo viên cần làm tốt một số yêu cầu như sau:
1.1. Làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, tham mưu, phối kết hợp với các lực lượng xã hội, các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường để nêu cao khẩu hiệu hành động “Tất cả vì học sinh thân yêu”, “Kỉ cương - tình thương - trách nhiệm”.
1.2. Phân loại học sinh theo từng trình độ nhận thức để có biện pháp giảng dạy, bồi dưỡng cho phù hợp từng nhóm đối tượng học sinh.
1.3. Tìm hiểu nội dung, phương pháp “Day tập đọc lớp 3”.
- Tìm hiểu những biện pháp giảm độ khó, cách hướng dẫn, gợi mở, các câu hỏi cho học sinh yếu, học sinh trung bình và nâng cao dần đối với học sinh khá, giỏi
1.4. Phương pháp tham khảo:
- Giáo viên chủ nhiệm cần tham khảo SGK, SGV, các nguồn tài liệu khác để có thêm những hiểu biết về phương pháp, hình thức tổ chức dạy Tập đọc, về đặc điểm trình độ học sinh.
3. Đánh giá về tính mới của sáng kiến:
Nhìn chung một cách tổng thể về việc giáo viên giúp học sinh phát âm đúng nhất là đối với đặc thù của học sinh miền Nam giáo viên gặp rất nhiều khó khăn do các tiếng mẹ đẻ đã thấm vào trong máu của các em. Mà điều này tôi thấy giáo viên trong quá trình hướng dẫn phát âm đúng cho học sinh giáo viên tổ chức mang tính sáng tạo không cao. Kinh nghiệm nêu trên qua một năm áp dụng tôi thấy bước đầu đa số các em phát âm đúng, nhất là những vần khó đọc như: uê, uơ, oa, uynh, uya, ...
4. Đánh giá về tính hiệu quả và khả thi của sáng kiến:
Qua áp dụng sáng kiến kinh nghiệm nêu trên tôi thấy đối với cơ sở vật chất hiện tại của các trường trong toàn xã nhà thì việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm nêu trên một cách dễ dàng đồng thời dễ thực hiện. Nếu giáo viên tâm huyết với nghề, giáo viên luôn luôn có ý nghĩ “ Tất cả vì học sinh thân yêu” thì trong quá trình thực hiện không gì khó khăn. Riêng trường tôi qua áp dụng những kinh nghiệm nêu trên đã đạt hiệu quả như sau:
NĂM
HỌC
TSHS
ĐẾN CUỐI NĂM HỌC MỨC ĐỘ HỌC SINH PHÁT ÂM ĐÚNG
Dấu thanh
Âm đầu
Vần
Âm đệm (u,o)
Nguyên âm đôi
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2014
2015
15/5
15
100
14
93.33
15
100
15
93.33
15
100
 5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến:
 Từ một số kinh nghiệm đã nêu, qua bản thân tôi đã áp dụng cùng với nhiều bạn đồng nghiệp trong trường và trong xã nhà đã áp dụng. Thông tin phản hồi cho th

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN_2015_Ng_Minh_Vung.doc