- Trong quá trình học sinh đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu không có lí do gì cần thiết giáo viên cũng không nên ngắt lời của học sinh. Cùng là một sai sót nhưng giáo viên phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào thì nên đợi học sinh trả lời xong.
- Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều học sinh: trong lúc gọi một hoặc 2 học sinh lên bảng thì giáo viên yêu cầu các học sinh ở dưới lớp làm câu hỏi khác ra giấy nháp sau đó sẽ thu bài của một số em để chấm lấy điểm.
- Khi tổ chức kiểm tra thì giáo viên phải giải quyết các khó khăn lớn sau đây: khi một hay vài học sinh được chỉ định lên bảng thì các học sinh khác trong lớp cần phải làm gì và làm như thế nào. Giáo viên gọi nhiều em cùng một lúc, đưa ra yêu cầu khác nhau phù hợp với trình độ của mỗi học sinh sau đó đặt các câu hỏi cho cả lớp sau khi các học sinh này hoàn thành xong nhiệm vụ của mình như sau: “Bạn trả lời như vậy có đúng không?” “Các em có đồng ý với câu trả lời đó của bạn không?” “Có điểm nào sai hoặc thiếu không ?” Ngoài những câu cơ bản, giáo viên có thể sử dụng các câu hỏi phụ trong quá trình kiểm tra miệng. Nhờ những câu hỏi bổ sung đó mà giáo viên có thể hình dung được chất lượng kiến thức của học sinh.
g, cách viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian. Mọi người ai cũng có cách viết tắt riêng cho những từ thông dụng. Bạn hãy phát huy và sáng tạo thêm nhiều cách viết tắt riêng. + Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp khúc riêng trên nhánh. Trên mỗi khúc chỉ nên có tối đa một cụm từ khóa. + Sau đó nối các nhánh chính cấp 1 đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp 2 đến các nhánh cấp 1, nối các nhánh cấp 3 đến các nhánh cấp 2bằng đường kẻ. Các đường kẻ càng ở gần trung tâm thì càng được tô đậm hơn. + Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường kẻ thẳng vì đường kẻ cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn. + Tất cả các nhánh tỏa ra cùng một điểm nên có cùng một màu. Chúng ta thay đổi màu sắc khi đi từ ý chính ra đến các ý phụ cụ thể hơn. - Bước 4: Người viết có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. Kiểm tra lại Bản đồ tư duy đã hoàn thành và diễn đạt, trình bày được các ý tưởng về kiến thức đã tạo lập. - Bước 5: Tạo ra một kiểu bản đồ riêng cho mình (Kiểu đường kẻ, màu sắc,) - Bước 6: Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm. * Ưu điểm của Bản đồ tư duy - Dễ nắm được trọng tâm của vấn đề . - Đỡ tốn thời gian ghi chép hơn so với kiểu ghi chép cũ. - Cải thiện sức sáng tạo và trí nhớ, nắm bắt cơ hội khám phá tìm hiểu. - Hoàn thiện bộ não, tiếp thu linh hoạt và hiệu quả. - Giúp người học tự tin hơn vào khả năng của mình. - Trong giảng dạy và học tập: tạo hứng thú cho học sinh, giáo viên tiết kiệm thời gian soạn giáo án, học sinh hiểu và nhớ lâu vấn đề hơn.... 2. Thực trạng của vấn đề 2.1. Thuận lợi - Đây là phương pháp học tập mới tạo cảm giác thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị . - Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp, xã hội, phụ huynh, học sinh - Chương trình môn Lịch sử THPT có nhiều nội dung phù hợp với phương pháp giảng dạy dùng Bản đồ tư duy phát huy hiệu quả cao khi giáo viên tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức - Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học tập: phòng công nghệ thông tin, máy chiếu, bảng phụ - Giáo viên được đào tạo và tập huấn đổi mới phương pháp dạy học về sử dụng Bản đồ tư duy trong giảng dạy. - Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho con người (GV và HS) có điều kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau. - Phương pháp sử dụng Bản đồ tư duy trong dạy học Lịch sử phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi học sinh, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích học sinh tư duy tích cực. 2.2. Khó khăn - Đây là phương pháp dạy học mới nên giáo viên và học sinh không tránh khỏi lúng túng trong một số kĩ năng như sử dụng lúc nào, như thế nào, sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý tưởng - Nội dung môn Lịch sử THPT, đặc biệt là Lịch sử lớp 12 mới, dài,nhiều sự kiện nên đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm. - Giáo viên khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng học sinh. - Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa thực sự phù hợp: Số lượng học sinh, không gian lớp học, trang thiết bị, đồ dùng dạy học, thời gian tiết học - Năng lực học sinh không đồng đều nên đôi khi việc vẽ Bản đồ tư duy trong học tập là sự máy móc không hiệu quả. - Quan niệm của xã hội, gia đình, và đặc biệt là học sinh đối với bộ môn này đôi khi còn lệch lạc: chưa đầu tư, dành sự quan tâm, chưa chú ý, xem thường hoặc học cho xong. 3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Là người giáo viên trước tiên cần phải nắm vững chủ trương đối mới giáo dục phổ thông thể hiện ở chương trình sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy, việc sử dụng các phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy học phải phù hợp, thích ứng với từng hoạt động giúp học sinh tích cực trong tìm tòi, tiếp thu lĩnh hội kiến thức. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phải nhấn mạnh rằng Bản đồ tư duy là một công cụ phối hợp các phương pháp khác đã thực hiện thêm phần hiệu quả, không phải là một giải pháp có thể thay thế tất cả các phương pháp khác. Vì vậy, tôi đã đưa ra và áp dụng nhiều giải pháp có hiệu quả nhưng trọng tâm là sử dụng Bản đồ tư duy. Với kinh nghiệm dưới đây để thực hiện cho các mục tiêu của từng phần có sự phối kết hợp của nhiều phương pháp trên cơ sở phân tích những tồn tại và đưa ra những lí luận, giải pháp, cách làm cùng thực hiện theo tôi là có hiệu quả nhất cho các phần của bài học, các kiểu bài khác nhau. 3.1. Sử dụng Bản đồ tư duy trong việc kiểm tra kiến thức cũ * Việc chuẩn bị cho kiểm tra miệng - Công việc chuẩn bị trước hết là phải xác định thật chính xác cần kiểm tra những gì. Giáo viên cần xác định được mức độ tối thiểu kiến thức và kĩ năng mà học sinh đã thu nhận được trong quá trình học tập. Câu hỏi đặt ra cho học sinh phải chính xác, rõ để học sinh không hiểu thành hai nghĩa khác nhau dẫn đến việc trả lời lạc đề. - Giáo viên phải thiết kế lại các yêu cầu, bài tập trong sách giáo khoa hay ra các bài tập tương tự để tránh việc các em sử dụng sự hướng dẫn trong sách tham khảo, sách bài tập nhằm đối phó với giáo viên * Những yêu cầu sư phạm về cách tổ chức kiểm tra miệng - Tạo điều kiện thuận lợi để học sinh có thể bộc lộ một cách tự nhiên đầy đủ nhất những hiểu biết của các em - Dựa vào những câu trả lời miệng và hoạt động thực hành của học sinh mà phát hiện được tình trạng thật của kiến thức và kĩ năng của các em - Thái độ và cách đối xử của giáo viên với học sinh có ý nghĩa to lớn trong khi kiểm tra miệng. Giáo viên cần biết lắng nghe câu trả lời, biết theo dõi hoạt động của học sinh và trên cơ sở đó rút ra kết luận về tình trạng kiến thức của học sinh. Sự hiểu biết của giáo viên về cá tính học sinh, sự tế nhị và nhạy cảm sư phạm trong nhiều trường hợp là những yếu tố cơ bản giúp thấy rõ thực chất trình độ kiến thức và kĩ năng của học sinh được kiểm tra. - Trong quá trình học sinh đang trả lời câu hỏi có thiếu sót hoặc sai, nếu không có lí do gì cần thiết giáo viên cũng không nên ngắt lời của học sinh. Cùng là một sai sót nhưng giáo viên phải biết sai sót nào nên sửa ngay và sai sót nào thì nên đợi học sinh trả lời xong. - Nên phối hợp các cách kiểm tra và cùng một lúc có thể kiểm tra được nhiều học sinh: trong lúc gọi một hoặc 2 học sinh lên bảng thì giáo viên yêu cầu các học sinh ở dưới lớp làm câu hỏi khác ra giấy nháp sau đó sẽ thu bài của một số em để chấm lấy điểm. - Khi tổ chức kiểm tra thì giáo viên phải giải quyết các khó khăn lớn sau đây: khi một hay vài học sinh được chỉ định lên bảng thì các học sinh khác trong lớp cần phải làm gì và làm như thế nào. Giáo viên gọi nhiều em cùng một lúc, đưa ra yêu cầu khác nhau phù hợp với trình độ của mỗi học sinh sau đó đặt các câu hỏi cho cả lớp sau khi các học sinh này hoàn thành xong nhiệm vụ của mình như sau: “Bạn trả lời như vậy có đúng không?” “Các em có đồng ý với câu trả lời đó của bạn không?” “Có điểm nào sai hoặc thiếu không ?” Ngoài những câu cơ bản, giáo viên có thể sử dụng các câu hỏi phụ trong quá trình kiểm tra miệng. Nhờ những câu hỏi bổ sung đó mà giáo viên có thể hình dung được chất lượng kiến thức của học sinh. * Sử dụng Bản đồ tư duy. Như ta đã biết, kiểm tra miệng là việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong các tiết dạy. Vì vậy hoạt động này phải đa dạng để tránh sự nhàm chán đơn điệu, tạo không khí sinh động trong lớp học và giúp học sinh học tập có hiệu quả hơn. Tuỳ theo mỗi tiết học và tuỳ theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kĩ năng mà giáo viên có thể áp dụng thêm cách kiểm tra miệng như sau bằng cách sử dụng Bản đồ tư duy. Sử dụng Bản đổ tư duy vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần thiếu của học sinh đối với bài học cũ. Vì thời gian kiểm tra bài cũ tương đối ngắn nên các Bản đồ tư duy tôi thường sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Ví dụ: Khi dạy bài 1“ Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai( 1945- 1949)” Phần II “ Sự thành lập Liên Hợp Quốc”. Lịch sử 12 Giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thiện bản đồ tư duy sau: Giáo viên chuẩn bị những sơ đồ trên bảng phụ, viết nhanh trên bảng, đưa trên phần mềm PowerPoint để không chỉ những em được gọi lên mà các em ở dưới lớp cùng hoàn thành sau đó giáo viên thu bài, nhận xét và chấm điểm cho một số học sinh. - Tất nhiên, với kiểu kiểm tra bài cũ này để hoàn thành trọn vẹn thì tôi thường xuyên hướng dẫn học sinh cách lập bản đồ, cách ghi chép, cùng học sinh hoàn thiện những nội dung kiến thức đã học bằng Bản đồ tư duy nhằm đưa ra đúng, đủ những tri thức mà học sinh cần nắm vững. Sau đó, học sinh phải trình bày được những nội dung cần nắm vững trong bài học, học sinh dưới lớp tham gia nhận xét bổ sung và giáo viên là người chốt lại kiến thức. - Tùy theo lượng thời gian phân phối cho phần kiểm tra bài cũ và nội dung kiến thức bài trước mà giáo viên còn cho học sinh hoàn thành trọn vẹn Bản đồ tư duy dưới hình thức cuộc thi (học mà chơi, chơi mà học), học sinh nào nhanh nhất, chính xác nhất sẽ được tuyên dương và điểm cao. Qua đó, tôi thấy rằng ngay từ đầu học sinh đã rất hào hứng và nhiệt tình tham gia, làm cho phần trả bài không còn là áp lực với học sinh, các em không phải chỉ còn đọc thuộc lòng từng câu chữ, mà có sự thấu hiểu, biết phương pháp học. 3.2. Sử dụng Bản đồ tư duy trong việc dạy kiến thức mới * Những vấn đề tồn tại Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển khả năng ghi nhớ, thông hiểu và vận dụng kiến thức mới của học sinh, trong đó phương pháp dạy của thầy và cách học của trò là yếu tố quyết định. - Phương pháp dạy của giáo viên - Sử dụng phương pháp truyền thống chủ yếu là giáo viên độc thoại, độc quyền đánh giá, thuyết giảng làm học sinh nhàm chán không tập trung, chú ý những gì giáo viên nói. - Nội dung bám sát sách giáo khoa, ít liên hệ thực tiễn đời sống nên không giúp các em ghi nhớ bài một cách tốt nhất. - Giáo viên giữ vai trò chủ động điều khiển. - Không phối hợp nhiều phương pháp dạy học trong một tiết dạy. - Phương pháp, dụng cụ giảng dạy không khoa học. - Gây áp lực đến với học sinh dẫn đến học sinh bị ức chế. - Phương pháp học của học sinh: - Chưa có sự chú trọng đến việc học bộ môn, học thuộc lòng một cách thụ động, ít có sự liên tưởng,tư duy, liên hệ thực tế nên dễ quên đi những kiến thức vừa học. - Quan điểm các em học để đối phó, để kiểm tra, thi cử lấy điểm, thành tích. - Trong quá trình học, đa số các em thụ động, ít phát biểu ý kiến, chỉ mải nghe, ghi những gì mà giáo viên ghi lên bảng. Khi về nhà thì học thuộc bài một cách máy móc . - Phần lớn các em đợi gần đến thi hoặc kiểm tra mới học. - Các em chưa biết tổ chức cách học theo nhóm, theo tổ. * Sử dụng Bản đồ tư duy và một số biện pháp nhằm phát triển sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của học sinh. Để nâng cao sự ghi nhớ, thông hiểu, vận dụng kiến thức mới của học sinh tôi đã tác động đến nhiều mặt. Ở đây tôi tập trung tác động đến hai đối tượng quyết định của quá trình dạy - học để chuẩn bị và bổ sung phương pháp mới sử dụng Bản đồ tư duy hiệu quả mà tôi đã sử dụng - Đối với GV: + Nắm được các yếu tố ảnh hưởng đến sự ghi nhớ cũng như nguyên nhân dẫn đến sự quên của học sinh. Nắm được tâm sinh lý của học sinh THPT để có phương pháp giảng day cho phù hợp với các em. Tạo bầu không khí học tập thoải mái, sôi động, sinh động không gây áp lực cho các em để các em có thể ghi nhớ tốt hơn. + Trong giờ lên lớp, giáo viên phải phối hợp nhiều phương pháp khác nhau nhằm phát huy tối đa ưu điểm cũng như khắc phục khuyết điểm của từng phương pháp từ đó giúp các em tiếp thu kiến thức mới được nhanh chóng. Cụ thể như phối hợp: Phương pháp thuyết trình, vấn đáp, trực quan + Ngoài những tài liệu trong sách giáo khoa, giáo viên cần tìm hiểu cung cấp cho học sinh nhiều tư liệu tham khảo, để giúp học sinh ôn tập và củng cố những kiến thức học ngay trên lớp một cách tốt hơn. Trong giờ học trên lớp, giáo viên có thể những câu hỏi đơn giản mà thú vị nhằm kích thích học sinh tích cực học tập và tư duy độc lập. + Tổ chức cho các em học theo nhóm để các em có cơ hội phát huy khả năng độc lập của bản thân và tạo cơ hội cho các em có thể tự đánh giá, kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức lẫn nhau và của chính bản thân các em. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các em có thể tự đánh giá, kiểm tra khả năng nắm tri thức của mình.. + Giáo viên cho các em trình bày kiến thức mình có được, học sinh làm thực hành để các em có thể vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế. - Đối với học sinh: + Chuẩn bị bài trước khi lên lớp. + Biết phân phối thời gian học tập hợp lý cho từng môn học. + Lựa chọn phương pháp học riêng cho mình để ghi nhớ bài thật tốt. + Biết liên hệ kiến thức đã học với thực tiễn. + Thường xuyên tổ chức học theo nhóm để trao đổi khả năng nắm vững các kiến thức đã học. + Khi có những thắc mắc về bài học cần chủ động hỏi giáo viên giảng dạy. + Vào lớp cần phải năng động, tự tìm tòi, học hỏi, học cách học * Sử dụng Bản đồ tư duy Từ đầu năm học, theo định hướng của ngành chống đọc chép, tôi đã giới thiệu đến học sinh các kiểu ghi chép theo kiểu đề mục, kiểu trích dẫn, kiểu luận đề, kiểu tự do. Thực tế, các kiểu ghi chép này các em cũng đã thực hiện rồi nhưng ít được biết đến tên và tác dụng cũng như hiệu quả của từng kiểu ghi. Thông thường, tôi nhận thấy ở trường học sinh thường được hướng dẫn ghi chép bài học theo kiểu đề cương, trích dẫn và luận đề còn cách ghi chép theo kiểu tự do dành cho việc dự hội thảo hay chuyên đề Nhưng điều đáng quan tâm là các kiểu ghi chép trên nếu được kết hợp với việc hệ thống kiến thức bài học theo kiểu Bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh nhớ lâu hơn, gây hứng thú và niềm đam mê học tập hơn cho học sinh, giúp cho các kiến thức ấy "đi thẳng vào đầu" học sinh một cách nhanh chóng, hiệu quả hơn. Để cải thiện việc ghi chép của mình, tôi đã yêu cầu học sinh cần lưu ý: + Làm bài tập về nhà trước khi đến lớp, đọc trước bài học mới. + Đi học đầy đủ, nếu bạn bỏ một buổi học thì bạn phải mượn vở của bạn cùng lớp để ghi lại. + Ngoài các loại bút thông thường, học sinh cần trang bị thêm các loại bút dạ quang, bút màu để làm nổi những thông tin quan trọng. + Dùng các ký hiệu để ghi bài nhanh hơn. + Chú ý lắng nghe những lời giảng của giáo viên. Không cần ghi lại mọi lời giảng của giáo viên mà hãy tư duy để ghi những điều quan trọng nhất. Luôn động não chứ đừng chỉ ghi chép như một cái máy. + Nếu bỏ lỡ thông tin nào, hãy cách ra vài dòng để bổ sung sau, bằng cách hỏi lại giáo viên hay các bạn khác. + Dành khoảng thời gian để xem xét lại những ghi chép. + Ghi chép khi đọc một thông tin, một bài học mới nào đó ở sách giáo khoa sẽ giúp bạn nhớ được các thông tin đó. Để sử dụng Bản đồ tư duy trong khi dạy học kiến thức mới, tôi đã tổ chức các hình thức lập bản đồ tư duy theo: * Nội dung từng phần Khi dạy nội dung kiến thức từng phần, chúng ta có nhiều cách để cung cấp kiến thức cho học sinh, nhưng khi dạy với Bản đồ tư duy chúng tôi thường sử dụng một số phương pháp sau: - Hướng dẫn học sinh đọc sách giáo khoa để tìm ra các sự kiện, sau đó giáo viên phân tích đào sâu....Giáo viên liệt kê các sự kiện lên Bản đồ tư duy để học sinh trình bày hoàn chỉnh sự kiện. Ví dụ: Khi dạy bài 13 Lịch sử 12 “ Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1925 đến năm 1930” Đến phần II.2. “ Hội nghị thành lập Đảng” giáo viên hướng dẫn học sinh lập Bản đồ tư duy theo các nội dung: Hoàn cảnh, nội dung, y nghĩa, cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. *Bản đồ tư duy dạy toàn bài. Trong nội dung chương trình môn lịch sử, có một số bài chúng ta có thể thực hiện dạy toàn bài theo Bản đồ tư duy, chủ yếu là những bài mà sách giáo khoa trình bày những khái niệm, những sự kiện có hệ thống, học sinh đọc sách giáo khoa có thể trình bày được những khái niệm. Chúng ta có thể cho học sinh đọc sách giáo khoa, giáo viên hướng dẫn học sinh vẽ Bản đồ tư duy vào vở và học bài theo Bản đồ tư duy. Ví dụ: Khi dạy bài 21- Lịch sử 12 “ Xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài gòn ở miền Nam( 1954- 1965)” Khi dạy học sinh hoàn toàn bằng bảng tôi thường dành một góc bảng bên phải để cùng học sinh hoàn thiện Bản đồ tư duy. Sau khi học xong mỗi phần với các kiến thức cần ghi nhớ thì Bản đồ tư duy lại thêm những nhánh nữa. Khi kết thúc bài học mới cũng là lúc giáo viên và học sinh đã hoàn thành xong Bản đồ tư duy cho bài học. Khi dạy học sinh hoàn toàn bằng máy chiếu, tôi thường dùng bảng như một “bảng nháp” để cùng học sinh hoàn thiện Bản đồ tư duy. Ngược lại, khi dùng bảng, với những bài giảng có nội dung kiến thức ngắn, những lần đầu khi học sinh làm quen với Bản đồ tư duy tôi vẽ trực tiếp trên phần mềm để học sinh dễ quan sát và định hướng những công việc cần làm. Bên cạnh đó, cũng có những tiết dạy tôi cho học sinh hoạt động nhóm: Sau khi đã học xong nội dung kiến thức bài học, trước khi sang phần bài tập, củng cố tôi cho học sinh hoàn thành Bản đồ tư duy theo nhóm hoặc hoàn thành theo kĩ thuật “khăn trải bàn”. Tuy nhiên, quan trọng nhất là cho dù thực hiện theo cách nào thì sau đó học sinh phải lên trình bày, thuyết minh thông qua Bản đồ tư duy mà giáo viên và học sinh hoặc nhóm mình đã hoàn thành. Học sinh khác nhận xét, bổ sung. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh Bản đồ tư duy từ đó dẫn dắt đến kiến thức trọng tâm của bài học. Giáo viên giới thiệu Bản đồ tư duy là một sơ đồ mở nên không yêu cầu tất cả các nhóm học sinh có chung 1 kiểu Bản đồ tư duy, tôi chỉ chỉnh sửa cho học sinh về mặt kiến thức và góp ý thêm về đường nét vẽ và hình thức (nếu cần). 3.3. Sử dụng Bản đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức Củng cố bài giảng là một khâu quan trọng của bài giảng, là một yếu tố dẫn đến sự thành công của bài giảng. Củng cố bài giảng giúp học sinh nhớ lại và khắc sâu kiến thức hơn. Ngoài việc xác định kiến thức trọng tâm, HS còn có thể tự đánh giá kết quả học tập của mình. Từ đó các em có thể điều chỉnh lại phương pháp học sao cho phù hợp. Bằng các phương pháp củng cố bài giảng cụ thể, giáo viên sẽ giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động trong việc tiếp thu nội dung bài, đồng thời mở rộng và phát triển tư duy cho học sinh. Củng cố bài giảng còn tạo điều kiện tương tác giữa giáo viên và học sinh. Điều đó tạo hứng thú học tập cho học sinh, nuôi dưỡng bầu không khí lớp học, tạo điều kiện để học sinh phát biểu ý kiến. Một số phương pháp củng cố bài thường dùng: +Củng cố bài giảng bằng thiết kế và sử dụng các sơ đồ, bảng biểu. Biện pháp củng cố này giúp HS hiểu được kiến thức thông qua khả năng phân tích, so sánh và móc nối các kiến thức. Thường áp dụng với những bài mang tính so sánh hay tổng quát, có thể sử dụng các sơ đồ, bảng biểu để hệ thống lại kiến thức. +Củng cố bài giảng bằng việc sử dụng hệ thống câu hỏi, bài tập. Biện pháp này đánh giá việc học của học sinh, rèn cho học sinh khả năng diễn đạt. Nhưng sẽ tạo áp lực cho các học sinh tiếp thu chậm và không hiểu bài ngay tại lớp. Phương pháp áp dụng đối với những bài học nhiều lý thuyết. +Củng cố bài giảng bằng việc tổ chức các trò chơi. Biện pháp này tạo sự vui vẻ, hứng khởi cho học sinh đối với môn học. Nhưng có hạn chế là tốn nhiều thời gian để tổ chức cho lớp tham gia trò chơi. Nguyên tắc cơ bản là trò chơi phải đơn giản, đi sâu vào vấn đề trọng tâm của bài. +Củng cố bài giảng bằng cách cho học sinh tự tổng kết kiến thức. Biện pháp củng cố này rèn cho học sinh kĩ năng trình bày vấn đề trước đám đông và kĩ năng tóm lược vấn đề Phương pháp áp dụng với những bài nội dung đơn giản, dễ tổng kết lại kiến thức. Khi dạy xong bài 4- Lịch sử 12 (Các nước Đông Nam Á ) Giáo viên cùng học sinh hoàn thiện BĐTD sau: 3.4. Sử dụng Bản đồ tư duy trong việc dạy tiết ôn tập, tổng kết kiến thức * Những điểm cần chú ý về mặt phương pháp khi tiến hành bài ôn tập, tổng kết Bài ôn tập tổng kết không phải chỉ là sự tái hiện, giảng lại kiến thức cho học sinh mà phải thể hiện được sự hệ thống hóa, khái quát
Tài liệu đính kèm: