SKKN Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5

SKKN Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5

Tập hợp nghiên cứu các bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa

- Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ

+ Đối với từ đồng âm: phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: Cánh đồng (1) – tượng đồng (2) – một nghìn đồng(3).

Bài tập này, giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ “đồng” ở mỗi trường hợp: “đồng”(1) chỉ khoảng đất rộng, bằng phẳng, dùng để cày cấy, trồng trọt. “đồng” (2) là kim loại. Nghĩa của các từ “đồng” khác nhau, chúng là những từ đồng âm. (Dùng tranh ảnh minh họa)

+ Đối với từ nhiều nghĩa:

Trong những câu sau câu nào có từ “chân” mang nghĩa gốc và câu nào có từ

“chân” mang nghĩa chuyển ?

Chân: a. Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân

 b. Bé đau chân

Đối với bài tập trên giáo viên yêu cầu học sinh nêu được nghĩa của từ “chân” trong mỗi câu và xác định nghĩa chuyển, nghĩa gốc “chân” trong câu (a) chỉ một bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng – nghĩa chuyển, “chân” trong câu (b) chỉ một bộ phận của cơ thể đỡ và di chuyển cơ thể – nghĩa gốc.

 

doc 25 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 2715Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u các nét nghĩa khác nhau của một từ. Dạng bài tập về phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa không có, trong khi đó khả năng tư duy trừu tượng của các em còn hạn chế.
c. Mặt mạnh, mặt yếu
- Mặt mạnh :
Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học, các thầy giáo, cô giáo thường quan tâm tới nhiệm vụ bồi dưỡng và nâng cao năng lực dùng từ ngữ, cách nói, viết câu chính xác qua giờ Luyện từ và câu. Từ đó kiến thức của các em sẽ làm cơ sở cho kĩ năng giao tiếp. Học sinh càng hứng thú khi viết văn, càng thêm yêu quý tiếng Việt và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
- Mặt yếu :
 Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là hai mảng kiến thức quan trọng. Trong thực tế thì đa số học sinh kể cả học sinh giỏi và không ít giáo viên nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. 
d. Nguyên nhân 
- Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức giống nhau: đọc - viết giống nhau, chỉ khác nhau về ý nghĩa.
- Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có dạng bài tập phối hợp cả hai kiến
thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học sinh rèn kĩ năng phân biệt
- Học sinh còn chưa phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa
- Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là vấn đề khó kể cả giáo viên thậm chí đối với các nhà ngôn ngữ học vẫn còn nhiều bàn cãi.
- Vốn từ vựng của các em học sinh còn hạn chế.
     Từ thực trạng trên, làm thế nào để học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ? Mấu chốt của vấn đề là cả giáo viên và học sinh cần phải hiểu bản chất kiến thức: Từ đồng âm là nghĩa của các từ trong văn cảnh đều là nghĩa gốc (còn gọi là nghĩa chính hay nghĩa đen). Còn từ nhiều nghĩa thì chỉ là một từ có một nghĩa gốc còn các nghĩa khác là nghĩa chuyển được hiểu rộng ra từ nghĩa gốc.
e. Phân tích và đánh giá của các vấn đề thực trạng đã nghiên cứu
* Việc dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa của giáo viên
Trong quá trình dạy học các bài học này, mỗi giáo viên đều làm đúng vai trò hướng dẫn, tổ chức cho học sinh. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết học có hạn nên giáo viên chưa lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong các bài học. Do đó, sau bài học, học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội dung học một cách tách bạch. Đôi khi giảng dạy nội dung này, giáo viên còn khó khăn khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể ngoài sách giáo khoa để minh hoạ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
* Về việc học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa của học sinh
Trong thực tế, học sinh làm các bài tập về từ đồng âm nhanh và ít sai hơn khi học các bài tập về từ nhiều nghĩa, cũng có thể do từ nhiều nghĩa trừu tượng hơn. Đặc biệt khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ có quan hệ đồng âm, các nghĩa của từ nhiều nghĩa trong một số văn cảnh thì đa số học sinh lúng túng và làm bài chưa đạt yêu cầu. Ban đầu, khi học từng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa thì phần đa các em làm được bài, song khi làm các bài tập lồng ghép để phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa thì chất lượng bài làm yếu hơn.
Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không tốt tới chất lượng giờ dạy, không gây hứng thú học tập cho học sinh. Chính vì vậy tôi đã sử dụng một số biện pháp giúp các em học sinh biết cách phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
- Hiểu lý thuyết về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa một cách chắc chắn.
- Vận dụng vào các bài tập để phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
- Từ vốn từ vựng mà học sinh đã tích lũy được trong môn Tiếng Việt, các em vận dụng vào nói, viết văn, biết trình bày một vấn đề gãy gọn, chính xác, mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
- Rèn luyện kiến thức và kĩ năng tìm hiểu về nghĩa của từ thông qua cách giải quyết vấn đề đơn giản, gần gũi với cuộc sống.
	- Gợi vấn đề cần giải quyết, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo. Giáo viên tạo tình huống có vấn đề như một câu hỏi lửng, giúp học sinh cảm nhận được vấn đề trong tình huống đó. Sau đó chính giáo viên đưa ra các vấn đề trình bày và giải quyết vấn đề, học sinh theo dõi các tình tiết tiến hành, phát triển và giải quyết vấn đề.
	- Rèn luyện cách diễn đạt ngắn gọn, biết dùng vốn từ của mình để giải nghĩa từ chính xác. Trên cơ sở đó, phân biệt được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
	- Hướng dẫn học sinh làm sổ tích lũy môn Tiếng Việt
	- Thi viết đoạn văn hay theo chủ đề, trong đó có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
- Coi trọng việc dạy các tiết học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. 
a. Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
+ Từ đồng âm: Là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa (theo SGK TV5 - tập 1 - trang 51)
Ví dụ: 
 bò trong kiến bò: chỉ hoạt động di chuyển ở tư thế áp bụng xuống nền bằng cử động của toàn thân hoặc những cái chân ngắn.
 bò trong trâu bò: chỉ loài động vật nhai lại, sừng ngắn, lông thường có màu vàng, được nuôi để lấy sức kéo, thịt, sữa...
 đầm trong đầm sen: chỉ vùng trũng to và sâu giữa đồng để giữ nước.
 đầm trong bà đầm : chỉ đàn bà, con gái phương Tây.
 đầm trong cái đầm đất: chỉ vật nặng, có cán dùng để nện đất cho chặt.
- Đây là kiến thức cô đọng, súc tích nhất dành cho học sinh Tiểu học ghi nhớ, vận dụng khi làm bài tập, thực hành.
- Đối với giáo viên Tiểu học, cần chú ý thêm từ đồng âm được nói tới trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5 gồm cả từ đồng âm ngẫu nhiên (nghĩa là có 2 hay hơn 2 từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau nhưng giữa chúng không có mối quan hệ nào, chúng vốn là những từ hoàn toàn khác nhau) như trường hợp “câu” trong “câu cá” và “câu” trong “đoạn văn có 5 câu” là từ đồng âm ngẫu nhiên và cả từ đồng âm chuyển loại (nghĩa là các từ giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa, đây là kết quả của hoạt động chuyển hóa từ loại của từ).
- Ví dụ: + cuốc (danh từ): cái cuốc; đá (danh từ): hòn đá
	 + cuốc (động từ): cuốc đất; đá (động từ): đá bóng
- Từ đồng âm hình thành do nhiều cơ chế: do trùng hợp ngẫu nhiên( gió bay, bọn bay, cái bay), do chuyển nghĩa quá xa mà thành (lắm kẻ vì, vì lý do gì), do từ vay mượn trùng với từ có sẵn (đầm sen, bà đầm; la mắng, nốt la), do từ rút gọn trùng với từ có sẵn (hụt mất hai ly, cái ly; hai ký, chữ ký...)
Trong giao tiếp cần chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ hoặc dùng với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm.
- Từ nhiều nghĩa: là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển.
 Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng Việt 5, tập 1 - trang 67)
Ví dụ :
+ Đôi mắt của bé mở to (bộ phận quan sát của con người mọc ở trên mặt)
+ Từ “mắt” trong câu “Quả na mở mắt” là nghĩa chuyển.
Đối với giáo viên có thể hiểu: Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế khách quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so sánh từ nhiều nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật, hiện tượng biểu đạt một khái niệm thì từ ấy chỉ có một nghĩa. Từ nào là tên gọi của nhiều sự vật, hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm thì từ ấy là từ nhiều nghĩa.
 	Nhờ vào quan hệ liên tưởng tương đồng (ẩn dụ) và tương cận (hoán dụ) người ta liên tưởng từ sự vật này đến sự vật kia trên những đặc điểm, hình dáng, tính chất giống nhau hay gần nhau giữa các sự vật ấy. Từ chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành động này (nghĩa 1) chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất, hành động khác nghĩa (nghĩa 2), quan hệ đa nghĩa của từ nảy sinh từ đó. 
Ví dụ: Chín: (1) chỉ quả đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ phát triển cao nhất, hoàn thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng.
	 (2) Chỉ quá trình vận động, quá trinh rèn luyện từ đó, khi đạt đến sự phát triển cao nhất. (Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín, tài năng đã chín)
	 (3) Sự thay đổi màu sắc nước da (ngượng chín cả mặt )
	 (4) Trải qua một quá trình đã đạt đến độ mềm (cam chín)
Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa, trước hết phải, miêu tả thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa
Đối với học sinh lớp 5, chúng ta không thể yêu cầu học sinh nắm vững các thành phần ý nghĩa của từ, cách thức chuyển nghĩa của từ song yêu cầu học sinh phải giải nghĩa một số từ thông qua các câu văn, các cụm từ cụ thể, xác định được nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ, phân biệt từ nhiều nghĩa với từ đồng âm, tìm được một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của từ, đặt câu với các nghĩa của từ nhiều nghĩa.
b. Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
 Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm. Giáo viên tổ chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp học sinh phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được những kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bước tiếp theo giáo viên tổng hợp kiến thức như nội dung phần ghi nhớ. Đến đây, nếu là học sinh khá - giỏi, giáo viên có thể cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ. Sang phần luyện tập, tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Trong quá trình dạy học các bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên cần sử dụng đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh hoạ nhằm giúp học sinh dễ dàng phân biệt nghĩa của từ.
 Ví dụ:
 Cánh đồng Tượng đồng Một nghìn đồng
- Để phân biệt nghĩa từ đá trong ví dụ: 
 đá bóng
hòn đá
Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên chủ yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh củng cố, nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa
+ Yêu cầu học sinh hiểu và nắm ghi nhớ để vận dụng
Tâm lí học sinh làm những bài tập đơn giản, để lộ kiến thức, ngại học thuộc lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư duy. Biết vậy giáo viên cho học sinh ngắt ý của phần ghi nhớ cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại cho đọc toàn phần, đọc theo nhóm đôi, có lúc thi đua xem ai nhanh nhất, ai đọc tốt. Cách làm này tôi đã cho các em thực hiện ở các tiết học trước đó (về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa) do đó dạy đến từ đồng âm, từ nhiều nghĩa các em cứ sẵn cách tổ chức như trước mà thực hiện. Và kết quả có tới 27/30 học sinh thuộc ghi nhớ một cách trôi chảy tại lớp chỉ còn 3 em có thuộc song còn ấp úng, chưa tự tin.
+ Giúp học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau 
Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau (nói đọc giống nhau viết cũng giống nhau). Ta thấy rõ ràng là “đường” (1) trong “đường rất ngọt”, “đường” (2) trong “đường dây điện thoại” và “đường” (3) trong “ngoài đường xe cộ đi lại nhộn nhịp” đều phát âm, viết giống nhau. Vậy mà “đường” (1) với “đường” (2) và “đường” (1) với “đường” (3) lại có quan hệ đồng âm, còn “đường” (2) với “đường” (3) lại có quan hệ nhiều nghĩa.
- Để có được kết luận trên đây, trước hết học sinh phải hiểu rõ nghĩa của các từ đường (1), đường (2), đường (3) là gì ?
Đường (1) đường rất ngọt: chỉ một chất có vị ngọt.
Đường (2) đường dây điện thoại: chỉ dây dẫn, truyền điện thoại phục vụ cho việc thông tin liên lạc.
Đường (3) ngoài đường, xe cộ đi lại nhộn nhịp: chi lối đi cho các phương tiện giao thông, người, động vật.
Xét nghĩa của 3 từ “đường” trên ta thấy :
Từ đường (1) và từ đường (2) có nghĩa hoàn toàn khác nhau không liên quan đến nhau - kết luận hai từ đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự như trên từ đường (1) và từ đường (3) cũng có mối quan hệ đồng âm.
Từ đường (2) và từ đường (3) có mối quan hệ mật thiết về nghĩa trên cơ sở của từ đường (3) chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ đường (2) (truyền đi) theo vệt dài (dây dẫn). Như vậy từ đường (3) là nghĩa gốc, còn từ đường (2) là nghĩa chuyển – kết luận từ đường (2) và từ đường (3) có quan hệ nhiều nghĩa với nhau.
- Để có thể giải nghĩa chính xác các từ “đường” như trên, các em phải có vốn từ phong phú, có vốn sống. Vì vậy trong dạy học tất cả các môn, giáo viên luôn chú trọng trau dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh, nhắc học sinh có ý thức tích lũy cho mình vốn sống và yêu cầu mỗi học sinh phải có được một cuốn từ điển Tiếng Việt, biết cách tra từ điển Tiếng Việt đồng thời nắm được một số biện pháp giải nghĩa từ, lập sổ tay tiếng Việt
Tiếp đó học sinh căn cứ vào khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để xác định mối quan hệ giữa các từ.
* Tổ chức dạy trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức 
Trong chương trình sách giáo khoa, bài dạy về từ nhiều nghĩa được sắp xếp sau bài dạy về từ đồng âm. Như vậy để phòng xa sự nhầm lẫn giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa thì ngay ở bài dạy về từ đồng âm ngoài ví dụ đúng về các trường hợp không phải đồng âm, giáo viên có thể lấy thêm một số ví dụ khác để các em nhận xét.
Ví dụ: Từ “đi” trong các trường hợp sau đây có phải hiện tượng đồng âm hay không ?
- Mẹ hay đi bộ vào buổi tối để giảm béo. 
- Bố mới đi Hà Nội về.
- Hè này, cả nhà em đi du lịch.
- Cụ ốm nặng, đã đi hôm qua rồi.
- Anh đi con mã, tôi đi con tốt.
- Thằng bé đã đến tuổi đi học.
Bài tập này chủ yếu yêu cầu học sinh nhận diện từ “đi” trong các câu văn trên là hiện tượng đồng âm hay không phải đồng âm, không yêu cầu học sinh giải thích gì và sẽ có hai phương án trả lời: đồng âm/không đồng âm. Đến đây giáo viên gợi mở để biết từ “đi” trong các câu văn trên có phải là quan hệ đồng âm hay không, yêu cầu các em về nhà suy nghĩ tìm hiểu sách giáo khoa các tiết luyện từ và câu sau sẽ giúp các em tìm câu giải đáp.
Để không mất nhiều thời gian tiết học cho nội dung trên, giáo viên viết sẵn nội dung câu hỏi gợi mở ra bảng phụ và tiến hành sau khi học sinh lấy ví dụ về từ đồng âm để khẳng định lại ghi nhớ. Lúc đó tự các em sẽ có một sự so sánh giữa các ví dụ về từ đồng âm với ví dụ trên đây, đồng thời giáo viên kích thích đươc tư duy của học sinh. Trước khi kết thúc tiết học, giáo viên cũng không quên nhắc học sinh về nhà tiếp tục suy nghĩ trả lời giải thích về hiện tượng từ “đi” trong các câu văn đã cho.
Trong bài dạy “Từ nhiều nghĩa” giáo viên có thể lấy thêm một hai trường hợp về từ nhiều nghĩa, sau đó quay lại lấy một ví dụ về từ đồng âm cho học sinh nhận định về các từ trong ví dụ.
Ví dụ: từ “chỉ” trong các trường hợp sau là từ đồng âm hay nhiều nghĩa? Vì sao ?
Cái kim sợi chỉ – chiếu chỉ – chỉ đường – một chỉ vàng. Ở câu hỏi này, giáo viên yêu cầu học sinh giải thích lí do lựa chọn để khẳng định kiến thức và khả năng nhận diện, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Sau khi học sinh trả lời giáo viên chốt lại từ “chỉ” trong các trường hợp trên có quan hệ đồng âm vì nghĩa của từ “chỉ” trong mỗi trường hợp khác nhau, không có quan hệ với nhau.
Nội dung trên, giáo viên cũng tiến hành trong khoảng 2-3 phút, dành thời gian cho các em làm bài tập phần luyện tập. Cuối tiết học nhấn mạnh: “HS cần lưu ý phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, tránh nhầm lẫn đáng tiếc giữa hai hiện tượng này”.
c. Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Biện pháp này thực ra ít khi vận dụng bởi nếu học sinh đã hiểu đúng nghĩa của từ, thuộc nhớ được thì không cần thiết phải dùng đến cách dựa vào yếu tố từ loại, tuy nhiên đối với một số học sinh trung bình và yếu giáo viên có thể kết hợp cả 3 biện pháp.
Nếu trong thực tế hàng ngày học sinh có thể bắt gặp hiện tượng một từ nào đó phát âm gần nhau nhưng xét về từ loại khác nhau thì kết luận đó là hiện tượng đồng âm. Chẳng hạn khi chơi đùa học sinh hò reo đồng thanh để cổ vũ cho một học sinh được mệnh danh là “cụ cố” vì em này nhỏ, yếu:
“Cố lên cụ cố.ơi !”
“Cố” thứ nhất là tính từ, “cố” thứ 2 là danh từ. Đây là hiện tượng đồng âm dễ nhận diện.
Tùy trường hợp những từ phát âm giống nhau nhưng cùng từ loại (cùng loại danh từ, động từ, tính từ) thì phải vận dụng biện pháp giải nghĩa từ trong văn cảnh đồng thời xét xem các từ đó có mối quan hệ về nghĩa hay không để tránh nhầm lẫn những từ đồng âm với từ nhiều nghĩa hoặc quan hệ đồng nghĩa nếu có. Trong trường hợp này thông thường dựa vào ngữ cảnh để nhận biết nghĩa của từ đồng âm. Ngữ cảnh có tác dụng hiện thực hóa nghĩa của từ và giúp con người sử dụng ngôn ngữ tránh sự nhầm lẫn.
VD: - đồng tiền – cánh đồng
 - con cò – cò súng
Xét câu văn sau: “Hôm nay tôi đánh rơi mười nghìn đồng ngay đoạn cánh đồng làng”. Các từ trong câu có mối quan hệ với từ ‘đồng’ thứ nhất gồm “đánh rơi” “mười nghìn”, nếu chỉ dừng lại ở đánh rơi 10 nghìn thì người đọc chưa rõ mười nghìn đồng tiền Việt Nam hay tiền nước nào và chưa xác định rõ giá trị số tiền đánh rơi. Có từ “đồng” ngay sau cụm từ “đánh rơi mười nghìn đồng” thì ta hiểu rõ số tiền đánh rơi ở đây là tiền Việt Nam và xác định được giá trị của nó. Vậy từ “đồng” thứ nhất là đơn vị tiền Việt Nam, từ “đồng” thứ 2 nằm trong mối quan hệ với từ “qua”, “cánh”, “làng”, “đồng” trong “cánh đồng” là khoảng đất rộng bằng phẳng trồng lúa hoặc hoa màu.
Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với từ nhiều nghĩa, hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại. Từ “đi” trong các trường hợp sau đều là động từ: đi bộ; đi chơi; đi ngủ; đi máy bay.
Vì vậy gặp những từ có cùng vỏ âm thanh giống nhau thì học sinh không được vội vàng phán quyết ngay hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa mà phải suy nghĩ thật kĩ. Giải nghĩa chính xác các từ đó trong văn cảnh, tìm ra điểm khác nhau hoàn toàn hay giữa chúng có sự liên hệ với nhau về nghĩa. Trong một số bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi, có một số trường hợp giống nhau về âm thanh nhưng khó phân biệt hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa.
VD: Các từ trong mỗi nhóm dưới đây có quan hệ như thế nào?
a) Đánh cờ, đánh giặc, đánh trống
b) Trong veo, trong vắt, trong xanh
c) Thi đậu, xôi đậu, chim đậu trên cành 
Xét về từ loại thì nhóm (c) các từ “đậu” có quan hệ đồng âm với nhau vì đậu “trong thi đậu” là tính từ (đỗ, trúng tuyển) “đậu” trong “xôi đậu” là danh từ (chỉ một loại quả, củ dùng làm lương thực, thức ăn), “đậu” trong “chim đậu trên cành” là động từ “nghỉ, tạm dừng lại”. Ở nhóm (a), các từ “đánh” đều là động từ nhưng xét về nghĩa các từ “đánh cờ” (một trò chơi), “đánh giặc” (chiến đấu với kẻ thù bằng nhiều cách) và “đánh trống” (dùng dùi hoặc tay đánh vào mặt trống cho phát ra âm thanh) thì nghĩa của chúng có liên quan đến nhau, đều tác động đến một sự vật khác, làm cho sự vật đó có sự thay đổi, vì vậy các từ “đánh” ở nhóm (a) có quan hệ nhiều nghĩa.
Tuy nhiên các từ “trong” ở nhóm (b) cũng là các từ có cùng từ loại (tính từ). Song chúng lại có quan hệ đồng nghĩa với nhau.
Trong quá trình dạy bồi dưỡng học sinh giỏi để giúp học sinh làm tốt các bài tập như trên, giáo viên yêu cầu các em luôn nắm chắc nghĩa của từ và suy xét kĩ lưỡng nghĩa của các từ đó, không được bộp chộp ngộ nhận hoặc mới chỉ hiểu nghĩa mang máng mà đã vội kết luận mối quan hệ giữa các từ đã cho.
d. Tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
 	Sau các bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cùng với các bài luyện tập, có thể giúp học sinh rút ra sự so sánh như sau :
- Điểm khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
Từ đồng âm
Từ nhiều nghĩa
- Là hai hoặc nhiều từ có cùng hình thức ngữ âm: (hòn) đá và đá (bóng)
 - Các nghĩa hoàn toàn khác biệt nhau không có bất cứ mối liên hệ gì: 
Ví dụ: (hòn) đá chỉ chất rắn có sẵn trong tự nhiên, thường thành tảng, hòn rất cứng. Còn đá (bóng) chỉ hành động dùng chân hất mạnh vào một vật nhằm đưa ra xa hoặc làm tổn thương.
 - Không giải thích được bằng cơ chế chuyển nghĩa.
- Là một từ nhưng có nhiều nghĩa: (hòn) đá và (nước) đá.
- Các nghĩa có mối liên quan với nhau. 
Ví dụ: hòn (đá) chỉ chất rắn có trong tự nhiên, thường thành tảng, khối vật cứng. Còn (nước) đá chỉ nước đông cứng lại thành tảng giống như đá.
- Do cơ chế chuyển nghĩa tạo thành.
e. Tập hợp nghiên cứu các bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa
- Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ 
+ Đối với từ đồng âm: phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ sau: Cánh đồng (1) – tượng đồng (2) – một nghìn đồng(3).
Bài tập này, giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ “đồng” ở mỗi trường hợp: “đồng”(1) chỉ khoảng đất 

Tài liệu đính kèm:

  • docTIÊNG VIỆT - Võ Thị Kim Yến (Trần Phú).doc