Đề tài Một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 học tốt môn Làm quen với Toán tại trường mầm non Hoa Sen

Đề tài Một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 học tốt môn Làm quen với Toán tại trường mầm non Hoa Sen

Khi thực hiện đề tài này cần sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và phụ huynh nhưng một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em mình, chưa phối hợp được với giáo viên để giáo dục trẻ.

*. Các nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu

- Các nguyên nhân ưu điểm của vấn đề nghiên cứu:

+ Nguyên nhân chủ quan:

Đa số các bậc cha mẹ học sinh biết được tầm quan trọng của môn học làm quen với toán.

Giáo viên chủ nhiệm luôn học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, biết lắng nghe, biết sửa sai, không bảo thủ nên chuyên môn nghiệp vụ tương đối vững vàng.

+ Nguyên nhân khách quan

Giáo viên được bố trí công tác phù hợp năng lực, giáo viên có tinh thần tự học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình.

Một sô phụ huynh nhận thức được việc cho con em mình đến trường lớp mầm non là quan trọng trong việc phát triển toàn diện cho trẻ.

Cơ sở vật chất trang thiết bị được Ủy Ban nhân dân xã EaBông rất quan tâm, phân hiệu thuộc Buôn Kruế, Buôn Năc đã được đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ.

 

doc 22 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 1485Lượt tải 2 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số biện pháp giúp trẻ 5 - 6 học tốt môn Làm quen với Toán tại trường mầm non Hoa Sen", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n toàn diện về mọi mặt cho trẻ ngay từ những năm tháng đầu đời. Hiệu quả của việc hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi, không chỉ phụ thuộc vào việc xây dựng hệ thống các biểu tượng toán học cần hình thành cho trẻ mà còn phụ thuộc vào phương pháp biện pháp tổ chức các hoạt động trọng tâm là tiết học toán về hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ như: cao hơn, thấp hơn, to hơn, nhỏ hơn, dài nhất ngắn nhất, phân biệt các chiều đo của vậtTrẻ còn rất khó hiểu tính tương đối của các chiều đo kích thước khi thay đổi cách đặt các vật; có trẻ còn lúng túng khi thực hiện yêu cầu phân biệt 3 chiều đo của vật theo trình tự tăng dần hoặc giảm dần khi sắp đặt vật. 
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu:
* Ưu điểm và hạn chế của vấn đề nghiên cứu:
- Ưu điểm của vấn đề nghiên cứu:
Lớp có 2 giáo viên nhiệt tình yêu nghề mến trẻ, một số cha mẹ học sinh đã quan tâm đến việc học của con em nên số trẻ ra trường lớp mầm non tương đối tăng so với các năm về trước.
Cơ sở vật chất tương đối đảm bảo, sân trường rộng rãi thống mát, đồ dùng đồ chơi đầy đủ ở phân hiệu buôn Kruế, Hòa Trung.
Bản thân tôi luôn có tinh thần học hỏi, tham gia để đúc rút kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mình.
- Hạn chế của vấn đề nghiên cứu
Trường lại chia  thành năm điểm cách nhau xa, cơ sở vật chất phân hiệu Buôn Mblớt, Buôn Sah, Buôn Năc đang phải mượn nhờ của nhà cộng đồng. 
Trường có 95% học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số, điều kiện sống và sinh hoạt của các em đang hết sức khó khăn, bố mẹ thường xuyên đi làm nương rẫy ở xa bỏ mặc con cái ở nhà hoặc dẫn đi theo.
Các cháu tuy cùng độ tuổi nhưng trình độ nhận thức không đồng đều. Có cháu phát âm chuẩn, nhanh nhớ, biết cầm bút, có kỹ năng đo, đếm, thêm bớt.... Có nhiều cháu phát âm còn ngọng, không chuẩn, nói câu chưa tròn. Một số trẻ không được học qua lớp Mầm, Chồi nên trẻ còn ngỡ ngàng khi đo, đếm, thêm bớt. Bên cạnh đó một số phụ huynh chưa quan tâm đúng mức đến việc học của con em mình.
Khi thực hiện đề tài này cần sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và phụ huynh nhưng một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em mình, chưa phối hợp được với giáo viên để giáo dục trẻ. 
*. Các nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu
- Các nguyên nhân ưu điểm của vấn đề nghiên cứu:
+ Nguyên nhân chủ quan:
Đa số các bậc cha mẹ học sinh biết được tầm quan trọng của môn học làm quen với toán.
Giáo viên chủ nhiệm luôn học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, biết lắng nghe, biết sửa sai, không bảo thủ nên chuyên môn nghiệp vụ tương đối vững vàng.
+ Nguyên nhân khách quan
Giáo viên được bố trí công tác phù hợp năng lực, giáo viên có tinh thần tự học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình.
Một sô phụ huynh nhận thức được việc cho con em mình đến trường lớp mầm non là quan trọng trong việc phát triển toàn diện cho trẻ.
Cơ sở vật chất trang thiết bị được Ủy Ban nhân dân xã EaBông rất quan tâm, phân hiệu thuộc Buôn Kruế, Buôn Năc đã được đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ. 
- Các nguyên nhân hạn chế của vấn đề nghiên cứu:
+ Nguyên nhân chủ quan:
Do vùng đồng bào dân tộc thiểu số điều kiện kinh tế khó khăn nên việc tiếp cận công nghệ thông tin trên mạng, soạn giảng trên máy vi tính còn ít.
Các cháu học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số do bố mẹ đi làm rẫy mang đi theo nên việc đi học chuyên cần chưa cao
Đồ dùng phục vụ tiết hoạt động chung và các hoạt động trong ngày chưa đa dạng như: Những vật mẫu, những con vật thật, đồ vật ...
+ Nguyên nhân khách quan
 Một số cha mẹ học sinh chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của việc cho con em mình đến trường mầm non.
Đặc thù là vùng đồng bào Dân tộc thểu số mà là vùng đặc biệt khó khăn nên việc đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị còn hạn chế.
	3. Nội dung và hình thức của giải pháp:
	a. Mục tiêu của giải pháp
Từ những nguyên nhân, các yếu tố thực trạng nêu trên tôi lựa chọn các giải pháp biện pháp phù hợp. Những giải pháp biện pháp đó nhằm mục đích giúp trẻ có thể phát huy hết được tính tích cực, chủ động, sáng tạo khi hoạt động. Đồng thời trau dồi thêm kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. 
- Lựa chọn các biện pháp, giải pháp phù hợp sẽ giải quyết được vấn đề từ lòng tin đến thay đổi cách nhìn của các bâc cha mẹ khi đưa con em đi học ở trường lơp mầm non, bằng nhiều hình thức tổ chức các hoạt động phong phú, hấp dẫn khác nhau càng gây hứng thú thu hút trẻ, trẻ càng dễ tiếp thu dễ nhớ lâu quên, nhẹ nhàng lĩnh hội kiến thức hơn. 
- Khi áp dụng những biện pháp này thành công sẽ mang lại kết quả sau:
 Giáo viên có định hướng rõ ràng trong việc trang trí môi trường trong và ngoài lớp cũng như công tác tự làm đồ dùng dạy học..dạy trẻ hàng ngày, tạo được mối liên hệ phối hợp giữa giáo viên và cộng đồng.
Trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực, phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú hơn trong mọi hoạt động. 
Trẻ mạnh dạn, tự tin, phản ứng tốt với mọi tình huống hàng ngày của trẻ. 
Cha mẹ học sinh thấy được sự thay đổi của con em mình, từ đó có sự phối hợp tốt hơn giữa nhà trường, giáo viên và cha mẹ học sinh để công tác thu hút trẻ đến trường từ đó để chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng tốt hơn.
 	b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp.
	Biên pháp 1. Tự học tự rèn để nâng cao chuyên môn.
Thực hiện một số biện pháp giúp trẻ học tốt môn làm quen với toán là nâng cao chất lượng giáo dục nhằm giúp trẻ luôn sáng tạo trong cách nghĩ, cách thể hiện qua minh hoạ theo từng đề tài của từng chủ đề, chủ đề nhánh khác nhau. Khơi gợi ở trẻ tính tò mò, sáng tạo và khả năng tư duy, ghi nhớ trong khi thể hiện.
Để dạy môn làm quen với toán có hiệu quả cần phải sử dụng những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Phương pháp đặc trưng của môn học là phương pháp trực quan, thực hành, luyện tập: đếm, thêm bớt, tạo nhóm, so sánh...trong các tình huống cụ thể, giáo viên cần phối hợp với các phương pháp nêu vấn đề, phương pháp đóng vai, phương pháp đàm thoại giúp cho học sinh cảm thấy giờ học làm quen với toán vừa vui vẻ, vừa nhẹ nhàng, vừa thiết thực và mỗi bé đều có thể chiếm lĩnh tri thức của môn làm quen với toán một cách rõ ràng mạch lạc, chính xác. Phấn đấu nâng cao chất lượng toàn diện cho trẻ theo độ tuổi của nội dung và giáo dục đổi mới trên cơ sở xây dựng tiết học bằng các hình thức đa dạng, phong phú nhưng mang tính vừa sức dựa trên các yếu tố tâm lý trẻ.
* Học hỏi đúc rút kinh nghiệm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bản thân:
 Tôi luôn có tinh thần học hỏi để trau dồi thêm kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân.
 Tham gia đầy đủ các buổi họp và bồi dưỡng chuyên môn do trường tổ chức; Dự  giờ chéo trong khối, nghiên cứu và học tập các chương trình mới do Phòng giáo dục tổ chức.
Tham khảo thêm sách báo, tư liệu qua mạng; Đầu tư và làm nhiều đồ dùng đồ chơi, tạo các góc học trong lớp để trẻ được tiếp cận và học hỏi mọi nơi mọi lúc.
Thực hiện trên tiết học là hoạt động chủ đạo của trẻ, giáo viên là người hướng dẫn, gợi ý, kích thích họat động, sáng tạo tích cực.
Tăng cường làm đồ dùng và và chú trọng sử dụng trực quan. Biện pháp hữu hiệu giúp tiết học đạt kết quả là gây sự chú ý của trẻ bằng cách sử dụng đồ dùng trực quan đẹp kết hợp với sự khéo léo của giáo viên khi sử dụng đồ dùng trực quan giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách trọn vẹn, chính xác, phấn khởi. 
Thông qua các môn học khác lồng ghép đan cài các hoạt động.
Củng cố các kiến thức mọi lúc mọi nơi, dạy trẻ vận dụng các kiến thức vào trong cuộc sống, ôn luyện mọi lúc mội nơi cũng là cách hữu hiệu giúp cho chất lượng dạy học ngày càng nâng lên. Tôi luôn chú trọng đến việc ôn tập cho trẻ vì đặc điểm của trẻ là mau nhớ nhưng cũng rất mau quên nên phải thường xuyên củng cố.
Biện pháp 2: Xác đinh loại tiết để chọn phương pháp thích hợp, lấy trẻ làm trung tâm.
Thực hiện trên tiết học là hoạt động chủ đạo của trẻ, giáo viên là người lập kế hoạch, xác định loại tiết, hướng dẫn, gợi ý, kích thích trẻ họat động, sáng tạo tích cực.
Ví dụ: Trẻ đếm đến 8, nhận biết các nhóm có 8 đối tượng. Nhận biết số 8. Chủ đề “Thế giới động vật” Chủ đề nhánh “Con vật đáng yêu quanh bé” Cô phải chuẩn bị cho mỗi trẻ 8 con vật đẹp, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để tạo sự phát triển trí lực cho trẻ nhận biết các dấu hiệu trong bản chất của cách đếm, cách thêm bớt nhằm giúp trẻ nhấn mạnh tính bất biến của môn học thì cô giáo phải dùng lời nói dễ hiểu, gần gũi với trẻ để khơi gợi trẻ chú ý và suy nghĩ ví dụ: Cô soạn trên giáo án điện tử, ở trong mỗi chuồng có 6 hoặc 7 và 8 con chó, con gà, con vịt, con mèo ôn gợi nhớ cô cho trẻ lên tìm con vật bé yêu có số lượng là 7 và chọn số tương ứng, nếu bé chọn đúng con vật có số lượng 7 thì có tiếng vỗ tay và khen bé chọn đúng rồi còn bé chọn sai thì hiện lên hình mặt người khóc và nói tiếc quá bé chọn nhầm rồi. Ngoài ra ở mọi hoạt động trong ngày cô luôn lồng ghép để trẻ đếm, tổ chức cho trẻ chơi hoạt động góc ở mỗi góc có 8 trẻ, giờ ăn một bàn có 8 trẻ, tổ chức trò chơi một nhóm 8 bạn chơi.
* Quá trình thực hiện cần chú ý đến những yêu cầu sau:
Theo phương pháp đổi mới lấp trẻ làm trung tâm, trẻ là chủ thể tích cực nên tôi đã áp dụng phương pháp này .
Ví dụ: Khi vào tiết học “Đếm 8 nhận biết các nhóm có 8 đối tượng. Nhận biết số 8”.Cô cho trẻ ôn số lượng 7, chuẩn bị tiết mục văn nghệ chọn 7 cháu lên biểu diễn, cho trẻ chọn số quà tương ứng với bạn mang tặng, cho trẻ tìm chữ số tương ứng ở góc bé học chữ số trong lớp. 
Bài mới: Tổ chức cho trẻ luyện tập cả lớp thực hiện cùng bài hướng dẫn của cô để thời gian trẻ chơi trò chơi luyện tập nhiều hơn. 
Luyện tập cá nhân: Cho 2-4 trẻ thi đua nhau chọn mua con vật bé yêu có số lượng 8 đem nó về đúng nơi ở của nó.
Tổ chức trò chơi để cũng cố kiến thức số trẻ trong lớp cùng tham gia chơi: Trò chơi về đúng chuồng, chia lớp thành 4 đội, mỗi đội chọn một con vật yêu thích, cùng con vật đi kiếm ăn khi nào có hiệu lệnh của cô trẻ chạy về chuồng có con vật đó có số lượng 8, nếu trẻ nào chạy sai thì con vật trẻ yêu không có chuồng. 
* Phát huy tính tích cực cho trẻ 
Giáo viên cần tạo điều kiện cho trẻ suy nghĩ và tự hành động, thậm chí còn để trẻ tự suy nghĩ cả bài mới là biện pháp kích thích gợi mở hướng dẫn để trẻ hoạt động tích cực (dựa vào sự nhận thức của học sinh)
* Dạy học vừa sức 
Trên cở sở giáo viên phải cân nhắc lựa chon nội dung sao cho phù hợp, hợp lí giữa nội dung các kiến thức lí tính và cảm tính 
Để đảm bảo tình vừa sức cho trẻ những kiến mới truyền đạt cho trẻ cần được phức tạp dần được cũng cố dần qua các bài tập luyện phong phú và được ứng dụng vào các dạng hoạt động khác nhau của trẻ như vậy sự mở rộng dần, phức tạp dần nội dung dạy học sẻ giúp trẻ dễ dàng lĩnh hội kiến thức và kỹ năng tạo cho trẻ hứng thú học toán.
Ví dụ: Dạy trẻ thêm bớt trong phạm vi 8, cô dạy trẻ đếm 8 đối tượng, cho trẻ thêm bớt tự do và trẻ nhận xét kết quả thêm bớt, cho trẻ bớt theo yêu cầu bớt 1, 2, 3... thêm vào 1,2,3... cho trẻ thêm bớt nhanh dần không theo thứ tự 8 bớt 5 còn mấy, 3 thêm 4 là mấy?
* Đảm bảo tính khoa học
Trong quá trình hình thành biểu tượng toán học về các hình dạng cần phải đảm bảo tính chính xác khoa học và tất cả mọi mặt như ngôn ngữ kí hiệu hình vẽ. Kiến thức suy luận thông qua hoạt động mà tư duy và ý thức phát triển tốt. 
Để đảm bảo tính ý thức và phát huy tính tích cực của trẻ trong quá trình lĩnh hội kiến thức cần dạy trẻ nhận biết những dấu hiệu nhận biết của đối tượng bằng cách thay đổi các dấu hiệu trong bản chất và giữ nguyên bản chất của đối tượng. Đồ dùng đa dạng màu sắc tươi sáng, sắp xếp đồ dùng trực quan ở nhiều vị trí khác nhau để trẻ đếm. Qua hiều cách đếm trẻ nắm bắt được các dấu hiệu đặt trưng của số lượng và có biểu tượng chính xác về chúng.
Ví dụ: Dạy trẻ đếm đến 8, nhận biết các nhóm có 8 đối tượng. Nhận biết số 8. Cần xác định mục đích yêu cầu để cung cấp đúng kiến thức của tiết đó, không dạy thêm bớt hay chia nhóm. Đồ dùng trực quan chính xác, con gà hình ảnh con gà chính xác là con gà.
Biện pháp 3: Làm và sử dụng đồ dùng trực quan
Tăng cường làm đồ dùng và chú trọng sử dụng đồ dùng trực quan hợp lý, phù hợp với nội dung bài dạy, đồ dùng đa dạng màu sắc kích thước phong phú.
Tăng cường làm đồ dùng và và chú trọng sử dụng trực quan. Biện pháp hữu hiệu giúp tiết học đạt kết quả là gây sự chú ý của trẻ bằng cách sử dụng đồ dùng trực quan đẹp kết hợp với sự khéo léo của giáo viên khi sử dụng đồ dùng trực quan giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách trọn vẹn, chính xác, phấn khởi.
Ví dụ: Cô cùng trẻ tổ chức làm đồ dùng học tập vào buổi chiều cuối tuần, qua buổi làm đồ dùng giúp cô nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý và năng khiếu của trẻ hơn.
Đầu tuần cô cho trẻ biết tuần này trẻ đang học chủ đề gì của tuần “Nghề ở bộ đội” cô hỏi trẻ thích tặng chú bộ đội món quà gì nhân ngày thành lập quân đội nhân dân việt nam 22/12. Sau đó cô định hướng nguyên vật liệu như hộp sửa chua, hộp bánh đến cuối tuần cô cùng trẻ thực hiện sử dụng nguyên vật liệu trẻ đem đến cùng làm, cô cho trẻ chọn 6 bạn một nhóm, nhóm 1 rửa hộp sửa chua cho sạch, nhóm 2 lau hộp sửa chua cho khô, nhóm 3 chọn giấy màu cô yêu cầu, nhóm 4 cùng cô dán lá cờ và ngôi sao vào cây, nhóm 5 đổ cát và xi măng nước cô chuẩn bị sẵn và cho trẻ trộn cho đều, nhóm 6 cho trẻ hồ đã trộn vào trong hộp sửa chua rồi cắm cột cờ vào. Sau khi trẻ hoàn thành cho cho trẻ đếm xem trẻ làm được mấy cột cờ (8 cột cờ). Cho trẻ tham gia làm đồ chơi trẻ phấn khởi vui vẻ tích cực hoạt động gúp trẻ nhớ lâu hơn về nhà trẻ tự khoe với ba mẹ hôm nay con làm được 8 lá cờ. Qua đó nhằm giúp trẻ cũng cố kiến thức kỷ năng đếm chính xác và nhớ lâu hơn. 
* Sử dụng đồ dùng đồ chơi 
Đồ dùng trực quan “Là biện pháp hữu hiệu giúp tiết học đạt kết quả, gây sự hứng thú chính là đồ dùng trực quan nhằm giúp trẻ lĩnh hội, nội dung học tập, mặt khác việc sử dụng đồ dùng trực quan đẹp cộng với sự khéo léo của giáo viên sẻ giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách chính xác, trọn vẹn và phấn khởi, đồ dùng học tập hợp lý còn tạo điều kiện cho sự chuyển dần từ quá trình lĩnh hội vào tri giác, nên đối với đồ dùng phải có màu sắc đẹp kích thước to, nhỏ khác nhau, đa dạng phong phú, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho trẻ.
Ví dụ: Dạy trẻ thêm bớt trong phạm vi 8 cô nên sử dụng vật mẫu một số loại hoa, qua đó ngoài học toán cung cấp cho trẻ biết tên hoa, màu sắc của hoa, nhận dạng được một số loại hoa.
Biện pháp 4: Lồng ghép vào các tiết học khác và các trò chơi.
Thông qua các môn học khác lồng ghép đan cài các hoạt động. Trong quá trình sử dụng lồng ghép đan cài cô nên sử dụng trực quan và thực hành, thiết kế hình thức “Học mà chơi, chơi mà học” thông qua hình ảnh chơi nhẹ nhàng để trẻ hứng thú và tích cực hoạt động thì hiệu quả học đếm tốt hơn.
Ví dụ: Trong tiết dạy trẻ mối quan hệ hơn kém trong phạm vi 8. Cô lồng ghép vào hoạt động ngoài trời thông qua trò chơi dân gian và trò chơi tự do cô chia lớp thành nhóm có 8 trẻ chơi trò chơi “Bẫy chuột” cô hỏi có 8 bạn mà có 2 bạn làm bẫy còn mấy bạn làm chuột, nhóm có 6 bạn làm bẫy có mấy bạn làm chuột. Cô lồng ghép vào hoạt động góc để trẻ nắm số 8 cô cho trẻ chọn hoa theo màu và trong mỗi bông hoa cô gắn số 8 cho trẻ nhận dạng, Ở mỗi góc chơi cô cho 8 bạn một góc, ở góc nghệ thuật cô cho trẻ tô vẽ nặn động vật nuôi trong gia đình có số lượng 8, ở góc học tập cô cho trẻ đồ lại theo nét chầm mờ những nhóm con vật thêm vào cho đủ số lượng 8. Trong giờ làm quen văn học dạy thơ, khi gọi trẻ đọc thơ theo nhóm cô có thể gọi 8 trẻ đọc một lần, đếm cuối buổi học cô chuẩn bị chọn 8 trẻ đọc thơ hay, cho trẻ vỗ tay khen 8 bạn, mỗi bạn vỗ một tiếng (Trẻ biết vỗ 8 tiếng) trong quá trình trẻ vỗ tay trẻ đếm, nếu trẻ nào vỗ sai cô chú ý và bồi dưỡng cho trẻ đó để trẻ học đếm tốt hơn. 
* Sử dụng trò chơi 
Nhằm tạo cho trẻ thoải mái ''Học mà chơi, chơi mà học''. Sử dụng lồng ghép vào các tiết học như trên tiết dạy tôi sử dụng các trò chơi, câu đố thơ ca để kích thích trẻ hoạt lồng một số môn học phù hợp như văn học thể dục, tạo hình nhất là tổ chức các trò chơi mới lạ ở hoạt động chung. Ví dụ: Hoạt động góc ở góc nghệ thuật cho trẻ tô màu những con vật có số lượng 8, góc học tập cho trẻ tô theo nét chấm mờ những nhóm có con vật có số lượng 8. 
Trong lớp trên tiết dạy tôi sử dụng câu đố trò chơi, thơ ca để kích thích trẻ hoạt lồng ghép vào một số môn học phù hợp. Cho trẻ cắt con vật hay một số loại hoa  trong có số lượng đúng với tiết học để dán và đóng thành Anbum, có thể thực hiện vào giờ chơi tự do hay hoạt động góc. Ở góc thiên nhiên của lớp, nếu học đến số 8 chuẩn bị 8 cây và chuẩn bị 8 hạt cho trẻ chăm sóc cây và gieo 8 hạt, đến học số lượng 9 thêm 1 cây và gieo thêm 1 hạt nửa cứ như vậy cho đến số lượng 10, cho trẻ thay phiên nhau mỗi ngày được chơi ở góc thiên nhiên, qua góc chơi này cho trẻ đếm xen trẻ tưới chăm sóc mấy cây, đếm xem có bao nhiêu hạt được gieo xuống đất, bao nhiêu cây nẩy mầm. Các môn học lồng ghép đan xen lẫn nhau tái tạo khắc sâu kiến thức nhẹ nhàng thoải mái “Học mà chơi, chơi mà học"
Sử dụng lồng ghép vào các tiết học như trên tiết dạy tôi sử dụng các trò chơi, câu đố thơ ca để kích thích trẻ hoạt động, lồng ghép một số môn học phù hợp như văn học thể dục, tạo hình nhất là tổ chức các trò chơi mới lạ ở hoạt động chung. 
Biện pháp 5: Hệ thông câu hỏi
Hệ thống câu hỏi giúp trẻ phát huy được tính tích cực sáng tạo, giúp trẻ nắm được kiến thức một cách lôgic, câu hỏi đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Bằng hệ thống câu hỏi: Và bài tập nhằm kích thích trẻ phát triển về trí lực của trẻ một cách hưng phấn dẫn dắt trẻ tự tìm ra kết quả, tự đưa ra kết luận khái quát bằng lời giáo viên cần đặt ra cho trẻ vào các tình huống có vần đề buột trẻ phải suy nghĩ.
Ví dụ: Cho trẻ so sánh hai nhóm đồ vật để trẻ tự nhận xét về 2 nhóm đồ vật cô sử dụng một số câu hỏi gợi mở để trẻ suy nghĩ. Cô hỏi 2 nhóm như thế nào với nhau? (Trẻ có thể trả lời 2 nhóm không bằng nhau, gợi ý cho trẻ khác trẻ lời nhóm nhiều hơn nhóm thì ít hơn) tại sao con biết 2 nhóm không bằng nhau? (Trẻ trả lời vì nhóm có 8, nhóm có 7 đối tượng, nhóm dư 1 nhóm thiếu 1) Trẻ tự suy nghĩ và tìm ra câu trẻ lời, và cô là người động viên khuyến khích trẻ để trẻ được trình bày ý kiến của mình.
Hệ thống câu hỏi bài tập cô đặt ra câu hỏi dựa trên tri giác và trí nhớ tái tạo của trẻ nhằm ghi nhận những kiến thức của đối tượng yêu cầu trẻ miêu tả những kiến thức mà trẻ vừa quan sát hay nhắc lại nhiệm vụ của cô giáo.
Ví dụ: Có bao nhiêu con? hai nhóm như thế nào với nhau? Tại sao không bằng nhau? Muốn bằng nhau làm thế nào?
Câu hỏi tái tạo có nhận thức nhằm giúp trẻ nắm vững và cũng cố những kiến thức một cách sâu sắc hơn 
Ví dụ: Trong bình hoa của con có bao nhiêu bông hoa, có bao nhiêu cành hoa? muốn mỗi cành đêu có bông hoa các con làm thế nào? Dùng đồ dùng gì thực hiện thêm bông hoa? (Dùng kéo và giấy màu cắt hoa, dùng bút chì đen và màu sáp vẽ tô thêm hoa, dùng giấy màu xé dán bông hoa, dùng kéo cắt hình ảnh bông hoa) 
Khi sử dụng câu hỏi giáo viên cần chú ý đặt câu hỏi phải ngắn gọn cụ thể đủ ý, nội dung câu hỏi phải vừa sức trẻ, các khái niệm trong câu hỏi phải quen thuộc với trẻ nên đặt nhiều dạng câu hỏi cho một vấn đề các câu hỏi phải có hệ thống, phải kích thích sự suy nghĩ của giáo viên, phải đặt câu hỏi mang tính đa dạng để mở rộng vốn từ cho trẻ, tập cho trẻ hiểu và sử dụng nhiều cách đặt câu hỏi để cho trẻ ứng dụng vào các tình huống khác nhau của cuộc sống.
Biện pháp 6: Công tác tuyên truyên và phối hợp với cha mẹ trẻ
Đặc điểm của trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ 5 tuổi nói riêng là trẻ chóng nhớ mà cũng mau quên, vì vậy để giúp trẻ hình thành kỹ năng về toán học cho trẻ thì điều quan trọng nhất là phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình, trong đó yếu tố quyết định chính là cha mẹ học sinh. Việc giáo dục các thói quen ở trẻ sẽ thành công nếu có sự tiến hành thường xuyên, theo giờ giấc nhất định ngay khi trẻ ở trường và lúc trẻ về nhà. 
Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Mỗi giải pháp, biện pháp đều có tác dụng riêng nhưng đều có tác dụng hỗ trợ cho nhau và có mối quan hệ giữa các biện pháp và giải pháp là cùng chung một nhiệm vụ cung cấp các kiến thức, giúp trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động một cách tíc

Tài liệu đính kèm:

  • doc_kinh_nghiem_nga_16_17_sua_138_2021812.doc