Đề tài Một số biện pháp gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh tiểu học

Đề tài Một số biện pháp gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh tiểu học

Kết hợp khăng khít nhà trường và gia đình ( Công tác xã hội hóa giáo dục)

 Để việc dạy – học Tiếng Anh đạt hiểu qủa cần sự giúp đỡ, kết hợp chặt chẽ với gia đình. Với sự ra đời của thông tư 30 /2014/TT-BGDĐT, phụ huynh học sinh đã hiểu rõ và nhận thức được cách thức đánh giá học sinh theo hướng đổi mới, không còn trường hợp băn khoăn hay thắc mắc gì về việc không cho điểm học sinh, đa số đều đồng ý đó là cách giảm được áp lực học tập cho các em, chỉ rõ những hạn chế của học sinh, phương hướng giải quyết để gia đình, nhà trường, học sinh cùng phối hợp thực hiện. Đặc biệt là kịp thời động viên, khuyến khích các em tích cực phát huy hết khả năng của mình. Hơn thế phụ huynh càng có điều kiện để quan tâm con em mình hơn, đồng hành cùng nhà trường trong việc học của con nhiều hơn.Thời gian các em ở tại nhà rất nhiều, nếu tại gia đình các bậc phụ huynh không quan tâm tới việc học Tiếng Anh của các em thì công sức thầy cô giảng dạy cố gắng trên lớp xem như muối đổ biển. Phụ huynh cũng là một kênh thông tin để đánh giá học sinh, có thể phản hồi lại những lời phê, nhận xét của giáo viên.Và nhất là cuối học kỳ, phụ huynh cũng được trao đổi về khen thưởng đối học sinh. Trẻ đang lứa tuổi ham chơi nên dễ quên khi không được nhắc nhỡ ôn luyện. Một số phụ huynh quan tâm đến việc học của các em nhưng phương pháp sử dụng chưa khoa học nên kết quả không giúp con yêu môn Tiếng Anh mà nhận lại một kết quả hoàn toàn ngược với mong muốn ban đầu. Sau đây là một vài mẹo nhỏ để những phụ huynh chỉ nói tiếng Việt có thể giúp con mình luyện tập tiếng Anh tại nhà, phụ huynh cần nhớ kĩ 2 điều sau: tích cực học và luyện tập đúng cách, tránh quá tải các bài tập làm trên giấy.

 

doc 26 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 15077Lượt tải 9 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Một số biện pháp gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác em học sinh chưa nắm bắt được tầm quan trọng của môn học này, nên việc dạy – học môn Tiếng Anh ở địa phương tôi còn gặp không ít khó khăn, hơn nữa các thiết bị dạy học, đồ dùng dạy học cũng đang thiếu thốn nhiều. Chính vì vậy mà tôi luôn băn khoăn làm thế nào để học sinh thích học môn Tiếng Anh, làm thế nào để việc học của học sinh có hiệu quả. Bên cạnh đó có thể hiểu rằng hứng thú học tập là thái độ yêu thích đặc biệt của học sinh đối với việc học, được thể hiện qua nhiều mức độ như: sự chú ý, tập trung, sự ham thích và cao nhất là niềm đam mê đối với một đối tượng trong quá trình học. Đối với mỗi mức độ của hứng thú, học sinh ở những lứa tuổi khác nhau có những biểu hiện khác nhau, nhưng ở cấp tiểu học đa số các em đều chỉ thể hiện ở mức chú ý, tập trung chứ rất ít học sinh đạt tới mức độ đam mê do các em chưa ý thức được những lợi ích của việc học tập.Hơn nữa, đây là năm đầu tiên các em làm quen với ngôn ngữ mới nên các em gặp nhiều bỡ ngỡ về cách ngữ điệu, chữ viết, cách phát âm hoàn toàn khác tiếng mẹ đẻ.Do đó, thiết nghĩ mỗi người giáo viên tiểu học phải là một người đưa đường bền bỉ, là người bạn đồng hành của tất cả các em trên con đường đi tìm niềm đam mê đối với tri thức. Hơn ai hết, giáo viên tiểu học phải coi trọng việc bồi dưỡng hứng thú học tập cho các em ngay từ những buổi học đầu tiên, những bài học đầu tiên. Đây là một quá trình lâu dài và đòi hỏi sự khéo léo trong nghệ thuật sư phạm.
 Chính vì thế việc thiết kế chương trình giảng dạy cũng phải phù hợp cho từng đối tượng của từng bậc học, lựa chọn phương pháp, thủ thuật khoa học phù hợp mới tạo được khả năng tư duy và phát triển khả năng học tập một cách độc lập, tạo niềm say mê, thích thú cho cả thầy và trò trong quá trình giảng dạy và học tập môn Tiếng Anh. 
Kết quả điều tra: 
46 học sinh
Rất thích
Thích
Bình thường
Không thích
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Trước khi áp dụng đề tài
5
10,8
10
21,7
10
21,7
21
45,7
Kĩ năng nghe
Kĩ năng nói
 4,5 – 5
3,5 - 4,25
2,5 - 3,25
1
0,75
0,5
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Trước
8
17
10
22
28
61
4
9
3
7
39
85
Kĩ năng đọc - viết
3,75 – 4
2,75 -3,5
2,0 - 2,5
< 2
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Trước
4
8,7
9
19,6
13
28,3
20
43,4
-Tổng hợp 4 kĩ năng
Tổng điểm 4 kĩ năng
Hiệu quả của đề tài
9 - 10
7 – 8
5 – 6
SL
%
SL
%
SL
%
Trước khi áp dụng đề tài
2
4,3
9
19,6
35
76,1
 III.Giải pháp – biện pháp:
a.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Bác Hồ kính yêu của chúng ta từng nói “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người.” Giáo viên chính là những người gieo hạt.Vậy để có mầm xanh khỏe mạnh đáp ứng được nhu cầu cao của thời đại công nghệ và hội nhập thì bản thân mỗi giáo viên ngoài việc phải luôn tìm tòi, trau dồi nghiệp vụ của bản thân, còn luôn trăn trở với công việc trồng người này. Để góp phần năng cao năng lực và ham mê học tập của học sinh hơn thế nữa giúp các em có một nền tảng và tâm thế vững vàng cho các cấp học sau.Tạo không khí thoải mái cho trẻ khi tiếp cận với một ngoại ngữ mới một cách nhẹ nhàng. Thêm vào đó giúp các trẻ em phát triển tính tò mò, hứng thú và mong muốn nói được một thứ tiếng khác tiếng mẹ đẻ tạo thành động cơ, sự ham thích học ngoại ngữ. 
b.Nội dung –cách thức thực hiện giải pháp
 b.1.Biện pháp thứ nhất:
Giúp trẻ có phong thái thật thoải mái trong giờ học. Biến mỗi tiết học là một niềm vui.
 Hay nói cách khác là giúp trẻ say mê việc học, bằng cách lôi cuốn trẻ bằng những câu chuyện thú vị, những bài hát thường nghe. Giáo viên thường xuyên đọc những đoạn thơ Tiếng Anh mà trẻ thích cho trẻ nghe.Khi đọc kết hợp gõ phách và chú ý trước khi đọc giáo viên phải quảng bá tính hấp dẫn của đoạn thơ đó. Giáo viên gọi hai em đứng cách xa nhau đứng lên đọc lại mẫu đoạn thơ. Một em đọc câu thứ nhất, em kia đọc một câu thứ hai cho cả lớp nghe. Đôi khi có thể kết hợp một em học sinh cùng với giáo viên để gia tăng sự chú ý cho học sinh. Hãy để trẻ cùng vui chơi ca hát với tiếng Anh. Để trẻ nghe từng câu, từng câu trong bài hát Tiếng Anh và dạy trẻ hát lại câu hát đó. Nhũng bài hát ngắn gọn dễ nhớ và giải nghĩa tiếng Việt để trẻ hiểu. Việc dạy trẻ hát và nghe các bài hát Tiếng Anh rèn luyện kỹ năng nghe cho trẻ rất tốt. Không chỉ âm nhạc mà những hình vẽ ngộ nghĩnh khi giáo viên vẽ để giới thiệu từ cũng sẽ gây sự chú ý cao độ từ phía trẻ, trẻ con thường rất tò mò, trước hết chúng xem cô giáo vẽ con gì, cái gì, đẹp hay xấu và để lại cho trẻ dấu ấn dễ nhớ, mà lại khắc sâu. Nhìn vào hình vẽ trẻ sẽ đọc từ vựng tương ứng hoặc viết từ xuống dưới hình hay đặt câu có chứa từ của hình vẽ minh họa. Với một hình vẽ nhưng có thể giới thiệu cho học sinh nhiều tình huống sử dụng khác nhau.
 Ví dụ: Với bức tranh vẽ một quả táo giáo viên có thể yêu cầu học sinh hoàn thành bốn câu sau:
I like an....... (apple) . 
My favourite fruit is an..... (apple)
I have got an ............. (apple)
This.........is for you (apple)
 Nhiều người vẫn thường hay đùa giáo viên cấp 1 là một nghệ sĩ tài ba với tài biến hóa:Không chỉ vẽ tranh, đọc mẫu, viết mẫu mà còn làm động tác, sử dụng ngôn ngữ cơ thể để biểu đạt: Tiếng con vật(chim, chó, mèo...) hành động(nhảy, hát...). Học sinh sẽ đoán từ qua điệu bộ cử chỉ của người giáo viên hay có thể bắt chước vừa đọc, vừa làm điệu bộ. Thủ thuật này lôi cuốn toàn bộ các em tham gia bởi trẻ có cơ hội được thể hiện năng khiếu của mình. Qua đó giúp trẻ hình thành sự độc lập và sự tự tin.
b.2.Biện pháp thứ hai:
 Thường xuyên tổ chức các trò chơi tập thể. Mỗi tổ sẽ chịu trách nhiệm tổ chức sinh hoạt lớp một tuần.Kế hoạch sinh hoạt lớp sẽ được giáo viên thông qua và thực hiện.Khi các em tự tổ chức các em sẽ cảm thấy vai trò của mình quan trọng hơn. Giáo viên có thể kích thích tinh thần trách nhiệm của học sinh bằng cách trao cho các em một số chức vụ. Đây là cách khá hiệu quả vì các em sẽ gắng hết sức để khẳng định mình.Các em có khả năng sáng tạo theo cách các em mong muốn. Chính các em đã biến giờ sinh hoạt lớp đơn thuần và nhạt nhẽo thành thú vị, sôi động.
 Một số trò chơi như tổ chức thi “Rung chuông vàng” giữa các tổ với nhau. “Đường lên đỉnh Olympia”. Nội dung câu hỏi do các em tự sưu tầm và có ý kiến của giáo viên để cho câu hỏi sát với nội dung bài học mà chống nhàm chán.Các tiết mục đọc thơ, hát, kịch hay đố vui bằng Tiếng Anh cũng được đan xen.Tham gia vào trò chơi giúp các em cảm thấy thoải mái vừa ôn lài kiến thức vừa trút bao căng thẳng mệt mỏi của giờ học tập. Giúp các em có một tâm thế thoả mái cho những tiết học tiếp theo.
b.3. Biện pháp thứ ba:
 Trẻ em học tiếng anh qua phương pháp học mà chơi-chơi mà học.
 Để thu hút trẻ em học tiếng anh tốt nhất là nên thu hút trẻ em vào những trò chơi đơn giản giúp trẻ em tiếp cận với tiếng Anh dễ dàng hơn. Lưu ý nên chọn lựa trò chơi phù hợp với cả lớp để tất cả học sinh đều được tham gia.Trò chơi phải phù hợp với lứa tuổi. Và tránh hình phạt mang tính bôi nhọ danh dự các em.
Cách tổ chức chơi một số trò chơi:
TRÒ CHƠI 1: “DÀI – NGẮN – CAO – THẤP” 
* Mục đích giải trí: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt 
* Mục đích giáo dục: Luyện khả năng nghe về tính từ chỉ độ dài
* Số lượng người tham gia: Cả lớp 
* Thời gian: 3 – 5 phút 
* Cách chơi: 
 Giáo viên phổ biến trò chơi gồm 4 động tác: Giơ hai tay lên trước mặt theo chiều thẳng đứng một khoảng. Khoảng cách giữa hai tay xa nhau (Cao-Tall) tương tự Giơ hai tay lên trước mặt chiều thẳng đứng có một khoảng. Khoảng cách giữa hai tay gần nhau(Thấp -short), tiếp tục giơ hai tay lên trước mặt theo chiều ngang có một khoảng. Khoảng cách giữa hai tay xa nhau (Dài -long) Tương tự giơ hai tay lên trước mặt theo chiều ngang có một khoảng. Khoảng cách giữa hai tay gần( Ngắn -short) và yêu cầu học sinh làm theo lời hướng dẫn mà không làm theo hướng tay chỉ của giáo viên. Lần đầu giáo viên làm đúng như vậy vừa hô để tạo cho các em có định hướng về từ vựng. 
 Sau đó giáo viên bắt đầu hô một đường nhưng làm một nẻo.
Ví dụ. Một người quản trò hô “Short” và Khoảng cách giữa hai tay xa nhau. Học sinh hô “short” vừa nhìn người quản trò làm lưu ý khoảng cách giữa hai tay gần nhau chứ không làm khoảng cách giữa hai tay xa nhau.Nếu học sinh hô hoặc làm khác phải thì bị bắt phạt
TRÒ CHƠI 2: “Slap the board - Đập bảng”
* Mục đích giải trí: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt 
* Mục đích giáo dục: Luyện và thực hành một số từ vựng.
* Số lượng người tham gia: Cả lớp 
* Thời gian: 3 – 5 phút 
* Cách chơi:
 	Giáo viên viết từ vựng lên bảng gọi một bạn làm trọng tài, ghi điểm và hai bạn lên làm người chơi. Giáo viên hướng dẫn luật chơi. Hai người chơi mặt quay xuống lớp , khi trọng tài gọi bất kỳ bạn nào đứng lên đọc từ có thể là Tiếng Anh hoặc Tiếng Việt thì người chơi sẽ nhanh tay đập vào từ vừa nghe.Ai đập nhanh và chính xác ghi được năm điểm hai người chơi sẽ được nghe năm lần.Sau đó trọng tài tổng kết tuyên bố người thắng cuộc. Do đó tất cả đều phải thật sự lắng nghe để xem bạn nhắc đến ai và từ gì rồi qua đó giáo viên đã giúp học sinh nhớ từ cũng như là rèn sự tập trung. Đồng thời rèn được cho học sinh 2 kĩ năng nghe, nói cùng một lúc.
 Ví d ụ: Giáo viên muốn ôn lại từ vựng về gia đình.Giáo viên sẽ viết từ lên bảng. 
TRÒ CHƠI 3: “ Xì điện”                          
* Mục đích giải trí: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt 
* Mục đích giáo dục: Luyện và thực hành một số từ vựng và ngữ pháp.
* Số lượng người tham gia: Cả lớp
* Thời gian: 3 – 5 phút 
* Cách chơi:
 	Đây là một hình thức gần giống như thủ thuật “Repitation drill”, với thủ thuật này trẻ cần tập trung cao độ, mắt nhìn và tai nghe để phản xạ nhanh lại theo yêu cầu của cô giáo. Giáo viên dùng những thẻ của bộ sách giáo khoa, giáo viên đưa thẻ (hình vẽ minh họa) và đọc từ tương ứng. Nếu từ giáo viên đọc là từ của hình vẽ thì học sinh đọc theo và vỗ tay, nếu từ giáo viên đọc không đúng với hình vẽ thì học sinh đọc to từ chúng tìm ra nhưng không vỗ tay. Để không nhàm chán có thể thay bằng cách đứng lên nếu cô đọc đúng với hình còn sai thì ngồi yên. Nếu phòng học rộng thì cho học sinh xếp thành hai hàng dọc sau đó giáo viên đọc nếu đúng thì nhảy qua phải một bước nếu sai đứng yên. Như vậy tiết học sẽ trở nên sôi nổi và học sinh sẽ được củng cố từ vựng một cách hào hứng.
V í d ụ: Để giúp học sinh nhớ mẫu câu:
Quản trò(xung phong) đưa cây bút và hỏi “Is it a book?” thì học sinh trả lời “Yes, it is” đồng thời vỗ tay(đứng lên)
Nếu giáo viên đưa cây bút mà hỏi “Is it a book?” thì học sinh trả lời “No, it isn’t” và không vỗ tay(ngồi im). 
TRÒ CHƠI 4: “Pass the ball-chuyền bóng”                          
* Mục đích giải trí: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt 
* Mục đích giáo dục: Luyện và thực hành một số từ vựng và mẫu câu
* Số lượng người tham gia: Cả lớp
* Thời gian: 3 – 5 phút 
* Cách chơi:
Giáo viên chuẩn bị một quả bóng nhựa, một cái máy nghe nhạc.Giáo viên hướng dẫn luật chơi cho học sinh.Quả bóng sẽ chuyền tay nhau lần lượt từ tay học sinh này sang học sinh khác đến khi nào nhạc dừng thì người nào đang cầm trên tay quả bóng sẽ phải làm theo yêu cầu của giáo viên đưa ra ngay từ đầu luật chơi. Ai giữ bóng lâu hay ném bóng lung tung sẽ bị loại khỏi cuộc chơi và bị phạt.
V í d ụ.
 Giáo viên yêu cầu khi nhạc dừng và ai trên tay cầm bóng thì phải nói ngay một từ tiếng Anh về đồ dùng học tập như “A book”. Trò chơi này giúp học sinh ôn từ một cách đầy hứng thú.Giáo viên chủ động kiểm tra được đối tượng học sinh muốn kiểm tra.
 b.4.Biện pháp thứ tư:Xây dựng một môi trường Anh ngữ trong mỗi lớp học.
 Ngay từ những buổi học đầu tiên giáo viên phải xây dựng ngay môi trường Anh ngữ trong lớp của mình. Bước đầu để tránh làm một số em học yếu không bắt kịp thì giáo viên có thể dùng song ngữ. Giáo viên sẽ cung cấp một số mẫu câu và từ vựng liên quan đến học tập như từ các câu khẩu lệnh hay lời chào hỏi.Và khuyến khích các em hạn chế nói Tiếng Việt trong giờ tiếng Anh.Trong một tiết học em nào nói được nhiều câu tiếng anh nhất sẽ được khen thưởng. Sau đây là một số mẫu câu nên khuyến khích học sinh sử dụng.
Ví dụ.
Bắt đầu bài học
-Hello Everybody, H ow are you today?
- Is everybody ready to start? 
- What's the day today / What day is it today? 
-Who’s absent today?
Kết thúc bài học
- All right, that's all for day. 
- We'll finish this next time. 
- Remember your homework. 
- See you again on Monday. 
Khi giáo viên gây ra sai sót trong lớp học có thể xin lỗi học sinh bằng cách: 
- I'll be back in the moment.
- I'm sorry.
- I've made a mistake on the board. 
-Xin phép ra ngoài/ vào lớp
-May I go out?
-May I come In?
Cảnh báo học sinh khi các em gặp sai lầm:
- Be careful / Look out / Watch out. 
- Mind / watch the step. 
Hoạt động trong sách giáo khoa: . 
- Open your books at page 10. 
- Turn to page 10, please. 
-Look at the dialog on page 10. 
- Stop working now. 
- Put your pens down. 
- Let's read the text aloud. 
- Do you understand everything? 
Làm việc nhóm: 
- Work in pairs. 
- Work together with your friends. 
- Work in groups
- Discuss it with your partner
Làm việc trên bảng: 
- Go to the board, please. 
- Go to the board and write the sentence out. 
- Are these sentences on the board right? 
- Anything wrong with sentence 1? 
- Everyone, look at the board, please. 
Câu mệnh lệnh: 
- Close your books. 
-Open your book.
- Sit down and be qiuet.
-Look, listen, stop.
Yêu cầu (tương tự câu mệnh lệnh nhưng dùng ngữ điệu thấp hơn): 
- Come here, please. 
- Can/Could you say it again? 
- Raise your hand
-Listen and repeat 
-Look, listen and repeat.
- Don't open your book, please! 
- Don't talk in class! 
-Stand up, please! 
- Thank you! sit down, please ! 
- Keep quiet/silent, please! 
- Be quiet, please! 
-Gợi ý 
- Let's start now. 
- What about if we translate these sentences? 
- You can leave question 1 out. 
- There is no need to translate everything. 
Câu hỏi: 
- Do you agree with A? 
- Can you all see? 
- Are you sure? 
- Do you really think so? 
Câu khen/ khích lệ
-Well done
- Very good
- Perfect
- Congratulation 
-Try your best
- Excellent
b.5. Biện pháp thứ năm: 
Kết hợp khăng khít nhà trường và gia đình ( Công tác xã hội hóa giáo dục)
 	Để việc dạy – học Tiếng Anh đạt hiểu qủa cần sự giúp đỡ, kết hợp chặt chẽ với gia đình. Với sự ra đời của thông tư 30 /2014/TT-BGDĐT, phụ huynh học sinh đã hiểu rõ và nhận thức được cách thức đánh giá học sinh theo hướng đổi mới, không còn trường hợp băn khoăn hay thắc mắc gì về việc không cho điểm học sinh, đa số đều đồng ý đó là cách giảm được áp lực học tập cho các em, chỉ rõ những hạn chế của học sinh, phương hướng giải quyết để gia đình, nhà trường, học sinh cùng phối hợp thực hiện. Đặc biệt là kịp thời động viên, khuyến khích các em tích cực phát huy hết khả năng của mình. Hơn thế phụ huynh càng có điều kiện để quan tâm con em mình hơn, đồng hành cùng nhà trường trong việc học của con nhiều hơn.Thời gian các em ở tại nhà rất nhiều, nếu tại gia đình các bậc phụ huynh không quan tâm tới việc học Tiếng Anh của các em thì công sức thầy cô giảng dạy cố gắng trên lớp xem như muối đổ biển. Phụ huynh cũng là một kênh thông tin để đánh giá học sinh, có thể phản hồi lại những lời phê, nhận xét của giáo viên.Và nhất là cuối học kỳ, phụ huynh cũng được trao đổi về khen thưởng đối học sinh. Trẻ đang lứa tuổi ham chơi nên dễ quên khi không được nhắc nhỡ ôn luyện. Một số phụ huynh quan tâm đến việc học của các em nhưng phương pháp sử dụng chưa khoa học nên kết quả không giúp con yêu môn Tiếng Anh mà nhận lại một kết quả hoàn toàn ngược với mong muốn ban đầu. Sau đây là một vài mẹo nhỏ để những phụ huynh chỉ nói tiếng Việt có thể giúp con mình luyện tập tiếng Anh tại nhà, phụ huynh cần nhớ kĩ 2 điều sau: tích cực học và luyện tập đúng cách, tránh quá tải các bài tập làm trên giấy. 
Thế nào là tích cực học và luyện tập đúng cách?
 Thường thì phụ huynh bắt con em mình thức dậy sớm mỗi sáng đề học ngữ pháp, buổi tối sẽ là làm những bài tập ngữ pháp hay các bài nghe từ đĩa CD, thậm chí theo học nhiều giáo viên một lúc. Và rồi họ băn khoăn vì sao với lịch học dày đặc đó mà không thấy sự tiến bộ của các em khi giao tiếp tiếng Anh hay vì sao các em không mạnh dạn nói tiếng Anh nhiều hơn khi đến lớp.
 Lý do dường như rất rõ ràng: bởi chính các bậc phụ huynh đã làm cho con mình ghét tiếng Anh với một lịch học quá căng thẳng. Sau mỗi ngày làm việc, không ai muốn tiếp tục phải làm quá nhiều bài tập về nhà. Do đó, giao cho các em một núi bài tập về nhà sẽ biến việc học tiếng Anh thành một hình phạt đáng sợ và hoàn toàn chán ngắt. Vốn dĩ việc học một ngôn ngữ mở ra một cánh cổng đến với thế giới của ngôn từ, ý tưởng, giải trí, du lịch và giáo dục. Các bà mẹ ép con mình làm nhiều bài tập bởi họ đều yêu con mình và mong các em thành công. Tuy nhiên, phương pháp đó chỉ đơn giản là phản tác dụng. Nếu trẻ không thích nói tiếng Anh thì chúng sẽ không bao giờ nói. Và nếu trẻ không nói tiếng Anh thì sẽ không bao giờ có thể tiến bộ.
Vì sao cần tránh quá tải việc làm bài tập trên giấy?
 Bài tập trên giấy chính là những cách luyện tập bị động, tuy có ích nhưng tác dụng lại rất hạn chế. Bài tập trên giấy có thể giúp củng cố cấu trúc ngữ pháp vừa học và một hoặc hai bài tập có thể giúp các em ghi nhớ ngữ pháp. Nhưng không thể thực sự luyện một ngôn ngữ theo cách đó. Ví dụ như khi bạn đã hoàn thành một lượng bài tập trên giấy về một cấu trúc mới học, tiếp tục làm thêm những bài tập lặp lại tương tự sẽ hầu như không còn tác dụng. Vì đó là lúc bạn cần vận dụng những cấu trúc đó trong giao tiếp, lắng nghe mọi người sử dụng chúng và sử dụng trong văn viết. Phương thức luyện tập này giúp kết nối não bộ của con người một cách hiệu quả và lâu dài hơn những cách luyện tập thụ động.
c.Điều kiện thực hiện biện pháp.
 Để thực hiện được các biện pháp này giáo viên Tiếng Anh và giáo viên chủ nhiệm cũng như các bậc phụ huynh cần phối hợp với nhau để tiến hành đông bộ. Trước khi thực hiện cần xác định những yêu cầu và mục đích của việc thực hiện.
- Đa dạng hoá về nội dung và hình thức tổ chức tiết học.
- Thu hút tối đa sự tham gia của mọi học sinh dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ, cố vấn của giáo viên nhằm tăng cường vai trò tự quản của học sinh.
d. Mối quan hệ giữa các biện pháp.
 Các biện pháp này có một mối quan hệ biện chứng với nhau. Không thể tách rời hoặc bỏ đi một biện pháp nào ở trên. Chỉ khi phối hợp các biện pháp trên với nhau thì mới đem lại kết quả cao.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
 Năm học 2015-2016 là năm thứ tư tôi được phân công giảng dạy tiếng anh ở khối 3 Trong ba năm tôi giảng dạy đã tiến hành áp dụng phương pháp học mới vào khối ba.Vào đầu năm học 2015-2016 tôi đã tiến hành khảo sát, điều tra và có trò chuyện với các em ở khối 3.Qua điều tra và trò chuyện tôi được biết phần lớn các em mong chờ đến tiết học .
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Tôi đã tiến hành thăm dò 46 học sinh thuộc khối 3 
Trước khi áp dụng các biện pháp gây hứng thú.
Sau khi áp dụngcác biện pháp gây hứng thú.
Phiếu điều tra
-Kết quả điều tra: 
46 học sinh
Rất thích
Thích
Bình thường
Không thích
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Trước khi áp dụng đề tài
5
10,8
10
21,7
10
21,7
21
45,7
Sau khi áp dụng
đề tài
15
32,6
20
43,5
6
13,04
5
10,8
Kĩ năng nghe
Kĩ năng nói
4,5 - 5
3,5 - 4,25
2,5 - 3,25
1
0,75
0,5
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Trước
8
17
10
30
28
61
4
9
3
7
39
85
Sau
15
33
15
33
16
35
10
22
15
33
21
46
 Kết quả sau khi áp dụng các biện pháp mới thì kết quả thu được có phần khả quan hơn trước. Đây là kết quả thu được từ học kì I năm học 2015-2016 như sau:
Kĩ năng đọc - viết
3,75 – 4
2,75 -3,5
2,0 - 2,5
< 2
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Trước
4
8,7
9
19,6
13
28,3
20
43,4
Sau
14
30
16
35
12
26
4
8,7
-Tổng hợp 4 kĩ năng
Tổng điểm 4 kĩ năng
Hiệu quả của đề tài
9 - 10
7 – 8
5 – 6
SL
%
SL
%
SL
%
Trước khi áp dụng đề tài
2
4,3
9
19,6
35
76,1
Sau khi áp dụng đề tài
 10
21,7
20
43,4
16
34,8
 Từ phiếu điều tra trước và sau khi áp dụng đề tài cho thấy 32,6% học sinh rất thích môn ti

Tài liệu đính kèm:

  • docth_60_4886_2021933.doc