Mục tiêu của giải pháp .
- Học sinh mạnh dạn trong giao tiếp, nói đúng nội dung cần trao đổi, biết lắng nghe và chia sẻ với bạn.
- Nâng cao hiệu quả giờ học cho học sinh, nhất là trong các giờ có tổ chức hoạt động nhóm.
- Phát huy được tính chủ động tích cực của học sinh, đáp ứng mục tiêu xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
- Mỗi giờ dạy đều đem lại cho học sinh những giây phút thật sự hứng khởi đúng nghĩa.
- Rèn luyện cho các em kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm – một yếu tố rất quan trọng trong cuộc sống hiện đại cho các em sau này.
Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp .
Học theo mô hình trường học mới VNEN học sinh và giáo viên có đặc điểm chủ yếu:
- Học sinh: Tự giác, tự quản; Tự học, tự đánh giá; Tự tin, tự trọng.
- Giáo viên: Tự chủ; Tự bồi dưỡng.
Với các đặc điểm đó, ta thấy lớp học theo mô hình trường học mới VNEN đã có sự thay đổi căn bản về phương pháp và hình thức tổ chức lớp học so với kiểu truyền thống. Giáo viên tổ chức, hướng dẫn các hoạt động để học sinh tìm đến kiến thức bài học. Học sinh tự học, nghiên cứu tìm ra kiến thức bài học theo nhóm; nhóm luôn hỗ trợ lẫn nhau, với phương pháp chủ đạo là phương pháp dạy học hợp tác nhóm.
và phù hợp với từng cá nhân học sinh. Chuyển việc truyền thụ của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học. Lớp học do học sinh tự quản và được tổ chức theo các hình thức, như: Làm việc theo cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Học sinh được học trong môi trường học tập thân thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô, được sự giúp đỡ của bạn học trong lớp, trong nhóm và thầy cô, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em. học sinh khá giỏi được phát huy, học sinh còn hạn chế, yếu kém được học sinh của nhóm và giáo viên giúp đỡ kịp thời ngay tại lớp. Ở đây được coi là một phương pháp dạy học. Những người tham gia trong nhóm phải có mối quan hệ tương hỗ, giúp đỡ và phối hợp lẫn nhau. Nói cách khác là tồn tại tương tác "mặt đối mặt" trong nhóm học sinh. học sinh trong nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Điều này đòi hỏi trước tiên là phải có sự phụ thuộc tích cực giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi thành viên trong nhóm cần hiểu rằng họ không thể trốn tránh trách nhiệm, hay dựa vào công việc của những người khác. Trách nhiệm cá nhân là then chốt đảm bảo cho tất cả các thành viên trong nhóm thực sự mạnh lên trong học tập theo nhóm. Học sinh thường được phát huy hơn, cơ hội cho học sinh tự thể hiện, tự khẳng định khả năng của mình nhiều hơn. Nhóm làm việc sẽ khuyến khích học sinh giao tiếp với nhau và như vậy sẽ giúp cho những trẻ em nhút nhát, thiếu tự tin, cô độc có nhiều cơ hội hòa nhập với lớp học. Thêm vào đó, học theo nhóm còn tạo ra môi trường hoạt động mang bầu không khí thân mật, cởi mở, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ trên cơ sở cố gắng hết sức và trách nhiệm cao của mỗi cá nhân. Học sinh có cơ hội được tham gia tích cực vào hoạt động nhóm. Mọi ý kiến của các em đều được tôn trọng và có giá trị như nhau, được xem xét, cân nhắc cẩn thận. Do đó sẽ khắc phục tình trạng áp đặt, uy quyền, làm thay, thiếu tôn trọng...giữa những người tham gia hoạt động, đặc biệt giữa giáo viên và học sinh. Chương II: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 1. Thuận lợi, khó khăn a. Thuận lợi Được sự quan tâm của Ban giám hiệu, của các ban ngành đoàn thể trong và ngoài nhà trường đã tạo điều kiện cho học sinh được học 2 buổi/ngày nên các em được tham gia học tập, rèn luyện nhiều ở trường. Trường học trang bị đầy đủ bàn ghế và bảng đen, có thiết bị đồ dùng dạy học. Giáo viên nhiệt tình, có ý thức trách nhiệm với học sinh. Phụ huynh học sinh đa phần đã có sự quan tâm chăm lo hơn về việc học hành của con em mình, mua sắm tương đối đầy đủ vở và đồ dùng học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho các em tới trường, thường xuyên giữ được mối liên hệ với giáo viên chủ nhiệm lớp và nhà trường. b. Khó khăn Tuy nhiên, bên cạnh đó tôi cũng gặp một số khó khăn Giáo viên: - Tài liệu nghiên cứu về mô hình này cũng chưa nhiều. - Còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kinh nghiệm công tác. Học sinh: - Mô hình trường học mới VNEN còn rất mới mẻ, học sinh lần đầu tiên tiếp xúc với mô hình. - Khả năng đọc còn hạn chế. - Khả năng tư duy, suy luận chưa cao. - Ý thức trách nhiệm chưa cao. - Chưa quen với các công việc, phương pháp làm việc theo nhóm, như: Không tập trung nghe bạn giao nhiệm vụ, chưa biết cách giao nhiệm vụ cho bạn, chưa biết cách giao tiếp, diễn đạt trong nhóm. 2. Thành công, hạn chế a. Thành công - Tạo được không khí vui tươi, sinh động cho giờ dạy. - Có thể phát triển năng lực toàn diện cho học sinh từ tâm lí, tính cách cho đến kỹ năng và hành vi giao tiếp - Học sinh hợp tác làm việc tập thể nên có thể bổ sung cho nhau những thiếu sót. - Qua quan sát hoạt động của các nhóm, giáo viên có thể đánh giá chính xác năng lực của từng học sinh từ đó kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy học cho phù hợp, đồng thời cũng kịp thời chấn chỉnh thái độ học tập không tốt của học sinh. b. Hạn chế - Giáo viên thường bị động về thời gian. - Trong nhóm thường chỉ tập trung ở một số đối tượng tích cực, có năng lực nên chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Do sự hạn chế về thời gian, kinh nghiệm của bản thân, nên phạm vi, giới hạn nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung vào giải quyết một số vấn đề về tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh khối lớp 2 theo mô hình trường học mới VNEN 3. Mặt mạnh, mặt yếu a. Mặt mạnh Sau thời gian thực hiện hình thức hợp tác nhóm trong giảng dạy, tôi đã thu nhận được những kết quả khả quan. Về phía giáo viên: - Hiệu quả tiết dạy được nâng cao. - Tiết dạy sinh động, giáo viên rèn được kĩ năng giao tiếp và kĩ năng xã hội cho học sinh. - Được bồi dưỡng về phương pháp dạy học theo nhóm. Về phía học sinh: - Được hấp dẫn, lôi cuốn vào các hoạt động học, thu lượm kiến thức bằng chính khả năng của mình. Phát huy cao vai trò của từng thành viên trong nhóm, đề cao năng lực cá nhân bởi vì các em đã được đảm trách nhiều vai trò khác nhau trong nhóm của mình. - Tăng cường sự hợp tác. - Rèn được sự tự tin, mạnh dạn trước đám đông, khả năng diễn đạt lưu loát hơn. Sau khi áp dụng hình thức này trong công tác giảng dạy qua năm học 2016-2017, với tính hiệu quả của biện pháp nêu trên, cộng với sự quan tâm và nỗ lực của bản thân, sự tự giác hợp tác học tập của học sinh, các em đã có những tiến bộ rõ rệt. Động cơ học tập và chất lượng học tập của các em yếu cũng được nâng lên, các em đã tự tin, hòa đồng, bớt mặc cảm, tự ti trong học tập. b. Mặt yếu - Đòi hỏi GV phải chuẩn bị kĩ lưỡng kế hoạch dạy học, lựa chọn những nội dung thực sự phù hợp với hoạt động nhóm và thiết kế được các hoạt động phù hợp với học sinh. - Đòi hỏi GV phải chuẩn bị kĩ lưỡng kế hoạch dạy học, lựa chọn những nội dung thực sự phù hợp với hoạt động nhóm và thiết kế được các hoạt động phù hợp với học sinh. - Chưa mang lại hiệu quả rõ rệt đối với học sinh, nhất là đối tượng học sinh chưa hoàn thành. 4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Có được những thành công trên là nhờ học sinh tích cực học tập, chủ động giao tiếp, sẻ chia với bạn và chủ động tiếp cận các giải pháp theo hướng tự chủ của bản thân. Từ đó thực hiện theo các giải pháp nên mang lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó còn phải kể đến Hệ thống các tài liệu hướng dẫn mà dự án trường học mới VNEN đã cung cấp để mỗi giáo viên chủ động nắm bắt nội dung và thực hiện. Được sự chỉ đạo rất kịp thời của các cấp lãnh đạo, của Sở Giáo dục và Đào tạo, được Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Vạn Ninh tổ chức tập huấn cho những giáo viên dạy mô hình trường học mới VNEN, giáo viên được dự các chuyên đề tổ chức ở Phòng Giáo dục và Đào tạo, ở trường để mỗi giáo viên học hỏi, rút kinh nghiệm và nắm được tinh thần của Mô hình trường học mới VNEN mà thực hiện theo. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn những tồn tại: - Thời gian để thực hiện đồng loạt các giải pháp là không liền mạch, có sự gián đoạn về thời gian của tiết học và được tiếp tục vào các tiết ôn do đó các em nắm bắt giải pháp cũng chưa có tính hệ thống. - Học sinh lần đầu làm quen với hoạt động nhóm nên hiệu quả của hoạt động chưa cao. - Trang thiết bị chưa đáp ứng hết yêu cầu của hoạt động. 5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Với lứa tuổi của các em học sinh lớp Hai rất hiếu động, sự tập trung cho học tập chú ý chưa cao. Tư duy của các em còn nặng về trực quan cụ thể, tư duy trừu tượng chưa phát triển. Học theo mô hình trường học mới VNEN, học sinh được học tập tích cực, chủ động, hứng thú do có cơ hội chia sẻ những trải nghiệm cá nhân, có cơ hội thực hành và vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào đời sông hằng ngày. Học sinh có nhiều cơ hội để độc lập suy nghĩ khi làm việc cá nhân và có nhiều cơ hội để phát huy năng lực hợp tác khi học theo nhóm. Học sinh chủ yếu làm việc theo nhóm nhỏ và sau mỗi nội dung học tập, các em được tranh luận, được đánh giá lẫn nhau. Việc tự học của học sinh được thực hiện trong bối cảnh có hướng dẫn của giáo viên. Các em được giáo viên giao nhiệm vụ, được giáo viên trực tiếp hỗ trợ khi cần. Các em cũng được nghe ý kiến của giáo viên như là những quyết định của trọng tài trong các cuộc thảo luận, trao đổi ý kiến. Bên cạnh những thuận lợi đã nêu trên, học theo mô hình trường học mới VNEN, học sinh cần có nhiều thay đổi về cách học. Học sinh cần học một cách chủ động, tự đọc sách, tự thực hiện các hoạt động theo chỉ dẫn của sách. Khi có khó khăn, các em cần tự tìm kiếm sự hỗ trợ từ bạn trong cùng cặp, cùng nhóm, tìm kiếm sự hỗ trợ cuả giáo viên. Mô hình trường học mới VNEN chú trọng vào các hoạt động học tập tương tác. Học sinh được rèn kĩ năng hợp tác với bạn cùng cặp, nhóm, cùng lớp. Học sinh không chỉ học theo cách làm nêu trong sách mà còn được khuyến khích phát biểu các ý kiến cá nhân, đề xuất cách thực hiện nhiệm vụ học tập cùng bạn. Tuy nhiên, những thay đổi về cách học đối với học sinh lớp 2 không phải là thách thức lớn đối với học sinh vì đây là năm thứ hai học sinh học ở Tiểu học, việc học tập chưa tích cực không hoàn toàn là thói quen không tốt của các em. Nó không phải là rào cản lớn lắm trong thực hiện học tập tích cực của các em. Vì thế, muốn hoạt động thảo luận nhóm thành công, giáo viên phải nắm vững phương pháp, biết cách tổ chức, biết kết hợp nhiều phương tiện, kỹ thuật hỗ trợ. Song yếu tố quyết định vẫn là ở học sinh. Vì thế, ngoài việc phải năng động, tích cực, các em cần được hướng dẫn cụ thể trước khi tiến hành thảo luận. Chương III: Giải pháp đối với vấn đề nghiên cứu 1. Mục tiêu của giải pháp . - Học sinh mạnh dạn trong giao tiếp, nói đúng nội dung cần trao đổi, biết lắng nghe và chia sẻ với bạn. - Nâng cao hiệu quả giờ học cho học sinh, nhất là trong các giờ có tổ chức hoạt động nhóm. - Phát huy được tính chủ động tích cực của học sinh, đáp ứng mục tiêu xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”. - Mỗi giờ dạy đều đem lại cho học sinh những giây phút thật sự hứng khởi đúng nghĩa. - Rèn luyện cho các em kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm – một yếu tố rất quan trọng trong cuộc sống hiện đại cho các em sau này. 2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp . Học theo mô hình trường học mới VNEN học sinh và giáo viên có đặc điểm chủ yếu: - Học sinh: Tự giác, tự quản; Tự học, tự đánh giá; Tự tin, tự trọng. - Giáo viên: Tự chủ; Tự bồi dưỡng. Với các đặc điểm đó, ta thấy lớp học theo mô hình trường học mới VNEN đã có sự thay đổi căn bản về phương pháp và hình thức tổ chức lớp học so với kiểu truyền thống. Giáo viên tổ chức, hướng dẫn các hoạt động để học sinh tìm đến kiến thức bài học. Học sinh tự học, nghiên cứu tìm ra kiến thức bài học theo nhóm; nhóm luôn hỗ trợ lẫn nhau, với phương pháp chủ đạo là phương pháp dạy học hợp tác nhóm. a. Khái quát chung về Dạy học theo nhóm a.1. Khái niệm về Dạy học theo nhóm Dạy học theo nhóm là một phương pháp dạy học trong đó giáo viên tổ chức cho học sinh hình thành các nhóm học tập nhỏ. Mỗi thành viên trong nhóm học tập này vừa có trách nhiệm tự học tập, vừa có trách nhiệm giúp đỡ các thành viên trong nhóm để cùng hoàn thành mục đích học tập chung của cả nhóm. Dạy học theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học được áp dụng trong đổi mới phương pháp dạy học: phát huy tính tích cực của người học, dạy học hướng về người học. Giảng dạy dựa trên phương pháp làm việc theo nhóm là một phương pháp sư phạm mà theo đó, lớp được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm được phân công giải quyết một công việc cụ thể; kết quả của từng nhóm sẽ được trình bày để thảo luận chung trước khi giáo viên đi đến kết luận cuối cùng. a.2. Phương pháp làm việc theo nhóm có những ưu điểm: Làm việc theo nhóm là một cách học cho phép tất cả các thành viên trong nhóm giải quyết một cam kết làm việc được mô tả rõ ràng, không được giáo viên dẫn dắt trực tiếp mà chỉ nhờ vào sự hợp tác chặt chẽ và phân công công việc trong nhóm nhỏ. Phương pháp này thích hợp cho việc trao đổi trong nhóm, đưa ra những cách thức giải quyết đầy tính sáng tạo; kích thích sự hợp tác của tất cả các thành viên trong nhóm cùng tham gia vào việc giải quyết một vấn đề. Làm việc theo nhóm thỏa mãn nhu cầu học tập cá nhân, phù hợp với việc học hướng tới người học; khuyến khích sự độc lập tự chủ, người học có thể đưa ra những giải pháp, cách biểu đạt riêng cho vấn đề nào đó. Giáo viên đóng vai trò là người chuyển giao kiến thức và hiểu biết, chuẩn bị, tổ chức, theo dõi việc thực hiện và đánh giá tổng kết kết quả làm việc của các nhóm. a.3. Những mục tiêu cần đạt trong làm việc theo nhóm: Làm việc theo nhóm cần động viên tất cả các thành viên tham dự và kích thích sự suy nghĩ của mỗi cá nhân. Các thành viên tham dự trong nhóm cần bám vào một chủ đề và tìm ra giải pháp giải quyết vấn đề đó. a.4. Có 2 dạng nhóm làm việc: Nhóm đồng việc: Tất cả các nhóm đều cùng một chủ đề (chung một công việc) mà vấn đề hay nhiệm vụ đó có thể được giải quyết theo nhiều cách thức khác nhau tùy theo cách tiếp cận vấn đề khác nhau. Làm việc nhóm theo vị trí công việc: được áp dụng khi một nhiệm vụ chung cần thực hiện có thể phân ra thành nhiều nhiệm vụ nhỏ mà các giải pháp của chúng được tập hợp chung lại sau khi kết thúc làm việc theo nhóm. Hình thức này đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị nhiều hơn để đáp ứng cho các nhóm có những phần việc riêng cụ thể khác nhau. a.5. Các bước tiến hành phương pháp làm việc theo nhóm: Bước 1: Lựa chọn đề tài, giao nhiệm vụ cho nhóm - Việc lựa chọn đề tài rất quan trọng. Đề tài quá khó hoặc quá dễ đối với học sinh đều ảnh hưởng đến hoạt động thảo luận của học sinh. Lựa chọn vấn đề thảo luận phải phù hợp, có tính chất kích thích tính tích cực chủ động làm việc của học sinh. Đề tài thảo luận phải là vấn đề chính của bài học, vấn đề có thể có nhiều hướng khai thác khác nhau, nhiều cấp độ nhận thức khác nhau. Thường là loại cấp độ phát hiện và suy luận. - Nêu và giải thích mục tiêu làm việc, giao nhiệm vụ cho từng nhóm làm việc để mỗi thành viên trong nhóm hiểu được công việc cần phải làm và mô tả một cách cụ thể cách thực hiện các nhiệm vụ đó. Cần lưu ý là nếu không đề ra nhiệm vụ rõ ràng thì không có được kết quả thuyết phục. Những mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung làm việc theo nhóm có thể được viết ra giấy và phát cho mỗi nhóm.. Bước 2: Chia nhóm - Xác định số lượng người của mỗi nhóm phù hợp với yêu cầu làm việc. Thực hiện việc chia nhóm theo những cách: ngẫu nhiên (phát bìa, thẻ, điểm số...), theo sự chỉ định của giáo viên hoặc theo sở thích của người học. Bước 3: Làm việc trong nhóm Rất nhiều trường hợp tổ chức thảo luận nhóm không thành công, trong đó nguyên nhân chính thường do giao nhiệm vụ cho các thành viên không rõ ràng, phân công không hợp lí. Nhiệm vụ được giao thì quá nhiều trong khi thời gian để làm thì quá ít. Trong những lần như thế, thảo luận nhóm đa phần chỉ mang hình thức đối phó, không có giá trị thiết thực. Vì thế, khi tổ chức chia nhóm, cần chú ý giao nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong nhóm. Mỗi nhóm phải có thư kí để tổng hợp ý kiến của các thành viên trong nhóm. Học sinh được giao nhiệm vụ này phải là những Học sinh xuất sắc, tích cực, năng động, có khả năng tổng hợp và trình bày vấn đề trước tập thể. Đây là kỹ năng quan trọng cần được rèn luyện thường xuyên. Kỹ năng này rất có ích cho các em sau này khi bước vào đời. Vì thế, giáo viên cũng nên tạo cơ hội cho tất cả được thử sức, không nên quá tập trung vào một em duy nhất. Bước 4: Giám sát hoạt động của từng nhóm Do đa phần học sinh của chúng ta có ý thức học tập không cao, năng lực học tập không đều. Thường với một nhóm đông thành viên, rất dễ dẫn đến nhiều em không tập trung, làm việc riêng. Hoặc trong quá trình thảo luận, có khi do lúng túng không hiểu rõ yêu cầu của vấn đề cần thảo luận dẫn đến làm lệch hướng, không đáp ứng yêu cầu đặt ra. Vì thế, giáo viên phải giám sát thường xuyên, kịp thời uốn nắn. Bước 5: Trình bày kết quả thảo luận Khi kết thúc quá trình thảo luận, mỗi nhóm cử đại diện trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Thường, công việc này do thư kí nhóm trình bày. Tùy vào điều kiện, giáo viên có thể cho các nhóm tham gia phản biện. Khi ấy, giáo viên chính là trọng tài có nhiệm vụ dẫn dắt, định hướng vào đề tài, tránh lệch hướng. Bước 6: Tổng kết đánh giá Tổng kết đánh giá là khâu cuối cùng của hoạt động thảo luận. Vấn đề cốt lõi của khâu này là phải tìm ra được vấn đề - có thể xem như chân lý mà mỗi nhóm đã đạt được hoặc chưa đạt được. Ngoài ra cũng cần đánh giá khả làm việc của nhóm: Các nhóm làm việc có khoa học hay không? Những ai tích cực, những ai lười biếng, hay làm chuyện riêng, cần rút kinh nghiệm gì? Giáo viên nên nhận xét cụ thể, khách quan và tốt nhất nên cho điểm để khích lệ tinh thần học tập của các em. b. Giải pháp tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh b.1. Vai trò và trách nhiệm của các thành viên trong nhóm. Nguyên tắc làm việc trong nhóm: Tôn trọng sự tổ chức của nhóm trưởng, ghi chép trung thực ý kiến chung, báo cáo đầy đủ toàn bộ nội dung đã ghi chép, người nói phải có người nghe, tôn trọng ý kiến cá nhân, thiểu số phải tuân thủ theo đa số. Có nhận xét rút kinh nghiệm sau mỗi hoạt động Một nhóm muốn hoạt động hiệu quả cần phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Cơ cấu của nhóm gồm: - Một nhóm trưởng có trách nhiệm tổ chức, điều hành mọi hoạt động của nhóm, nhóm trưởng có thể do các thành viên trong nhóm bầu lên hoặc do giáo viên chỉ định. - Một nhóm phó (nếu quy mô nhóm lớn) để thay thế, hỗ trợ nhóm trưởng khi nhóm trưởng vắng mặt. - Một thư ký để ghi chép nội dung, diễn biến các cuộc họp, thảo luận của nhóm, thư ký có thể được thay đổi theo từng cuộc họp nhóm hoặc cố định từ đầu đến cuối. Nhóm phải quy định rõ trách nhiệm cụ thể của từng vị trí trong nhóm, xây dựng mối quan hệ gắn kết giữa các thành viên trong nhóm. * Lưu ý nhóm trưởng và các thành viên trong nhóm cần thay đổi thường xuyên tạo nên sự tự tin trong khi làm việc nhóm. b.2. Tổ chức sắp xếp bàn ghế Vấn đề sắp sếp lại chỗ ngồi để thuận tiện cho việc dạy học theo nhóm và tận dụng được không gian phòng học để tổ chức trò chơi trong tiết học, quả là một vấn đề được nhiều giáo viên quan tâm và cũng là chủ đề gây nên nhiều tranh luận nhất trong nhiều trường học hiện nay. Mô hình 1: Theo cách sắp xếp truyền thống. Mô hình 2: Thuận tiện cho việc hoạt động nhóm cho học sinh và tận dụng được không gian phòng học để có chỗ tổ chức các trò chơi đồng thời làm cho lớp học thoáng hơn, thích hợp với lớp được trang bị bàn 2 chỗ. Việc tổ chức hoạt động nhóm thường xuyên thay đổi vị trí ngồi học, lúc thì ngồi học chỗ này, tiết học sau lại ngồi chỗ khác. Hay nói cách khác áp dụng hình thức dạy học theo nhóm thì chỗ ngồi của học sinh là chỗ ngồi không ổn định. Bên cạnh đó giáo viên còn có thể kiểm tra, hỗ trợ được học sinh dù học sinh đó ngồi ở vị trí nào. b.3. Một số chú ý khi tổ chức hoạt động nhóm b.3.1. Thành phần nhóm - Tùy thuộc vào mục đích sư phạm và yêu cầu của vấn đề học tập mà ta có nhiều cách chia nhóm. Khi thành lập nhóm cần lưu ý khả năng làm việc của các thành viên, trình độ học lực của các cá nhân trong nhóm và mối quan hệ giữa các thành viên. - Tùy vào tình hình mà giáo viên có thể hoặc không cần chọn nhóm trưởng. Nhóm trưởng phải là người có kết quả học tập tốt, có ý thức giúp đỡ các thành viên trong nhóm. - Cần rèn luyện cho học sinh kỹ năng hợp tác nhóm bao gồm : kỹ năng hiểu được nhu cầu của người khác, kỹ năng biểu đạt một quan điểm, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thảo luận, kỹ năng bảo vệ quan điểm, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn b.3.2. Ra quy tắc cho nhóm Để việc thảo luận và học tập lẫn nhau thuận lợi giáo viên cần đưa ra một số quy tắc làm việc: - Các thành viên trong nhóm đều phải có trách nhiệm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. - Các thành viên trong nhóm đều có lượt nói, cần tạo điều kiện để học sinh nói hết các ý kiến, ưu tiên học sinh yếu kém phát biểu trước. - Hãy ủng hộ và giúp nhau bổ sung chi tiết. - Không cười nhạo những câu nói của người khác. - Hãy suy nghĩ trước khi đặt câu hỏi. b.3.3. Giao việc cho nhóm - Công việc được giao có thể là câu hỏi bằng lời, bằng phiếu học tập, - Nội dung công việc cần phải vừa sức với học sinh. Cần phải phù hợp trình độ, phù hợp giữa số lượng thành viên trong nhóm với khối lượng công việc. - Công việc được giao phải đa dạng để phát huy tính tích cực củ
Tài liệu đính kèm: