Tìm cách giải toán
Hoạt động tìm tòi cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ kiện, ẩn số và điều kiện của bài toán nhằm xác lập mối quan hệ giữa chúng. Từ đó lựa chọn phép tính số học thích hợp. Hoạt động này thường diễn ra như sau:
- Minh hoạ bài toán thông qua tóm tắt đề toán: Việc làm này giúp học sinh bớt được một số câu, chữ làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa các số đã cho và số phải tìm hiện ra rõ hơn. Bởi vậy cần tóm tắt thật ngắn gọn, GV chỉ cần hướng sự tập trung chú ý của HS đến những chi tiết chính của bài toán, còn những chi tiết phụ của bài toán cần gạt bỏ đi để HS không bị rối. Tóm tắt bài toán chính là sự biểu diễn cái đã cho, cái cần tìm và mối liên hệ giữa chúng. Có rất nhiều cách để tóm tắt một bài toán, có thể tóm tắt đề toán theo các cách sau:
+ Tóm tắt bằng lời
+ Dùng sơ đồ đoạn thẳng
+ Dùng ngôn ngữ và kí hiệu
+ Dùng chữ thay số
+ Dùng sơ đồ Graph
+ Dùng bảng
+ Dùng sơ đồ ven
+ Dùng hình vẽ
+Dùng hình tượng trưng
chưa phù hợp đối tượng học sinh, sử dụng đồ dùng dạy học còn hạn chế, chưa kiên trì trong hướng dẫn, giảng giải. II. 3. Giải pháp, biện pháp a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Đề tài chúng tôi đưa ra không ngoài mục tiêu là giúp người giáo viên phải xác định rõ mục tiêu của việc hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán, tìm cách giải các bài toán có lời văn và cần phải đạt được các tri thức, kĩ năng sau : - Học sinh nhận biết “cái đã cho”, “cái phải tìm” trong mỗi bài toán, mối quan hệ giữa các đại lượng có trong mỗi bài toán, biết lập luận để đưa ra cách tóm tắt dễ hiểu nhất - Học sinh giải được các bài toán hợp với một số quan hệ thường gặp giữa các đại lượng thông dụng. - Học sinh biết trình bày bài giải đúng quy định theo yêu cầu bài toán. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp *. Nắm bắt nội dung chương trình Để dạy tốt môn Toán nói chung, giải bài toán có lời văn nói riêng, điều đầu tiên là mỗi giáo viên phải nắm chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa từ lớp 1 đến lớp 5. Ở tiểu học thường có các dạng toán sau đây : - Những dạng toán thuộc loại toán đơn : thêm, bớt, nhiều hơn, ít hơn, tìm số bị trừ, tìm số hạng chưa biết, tìm tích, chia thành nhiều phần bằng nhau, chia thành nhóm, gấp một số lên nhiều lần, giảm đi một số lần, so sánh hai số hơn, kém nhau bao nhiêu đơn vị, tìm một phần mấy của một số, so sánh số lớn gấp mấy lần số bé, so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn, tìm tỉ số phần trăm của hai số, tìm phần trăm của một số, tìm một số biết một số phần trăm của nó, tìm vận tốc, tìm thời gian, tìm quãng đường,... - Những dạng toán thuộc loại toán hợp : loại giải bằng 2 phép tính chia, nhân có liên quan đến việc rút về đơn vị, dạng a : b c ; loại giải bằng 2 phép tính chia có liên quan đến việc rút về đơn vị, dạng a : (b : c). - Những dạng thuộc loại toán điển hình : tìm trung bình cộng của nhiều số, tìm hai số khi biết tổng và hiệu của chúng, tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ của chúng, bài toán liên quan đến quan hệ tỉ lệ,... - Tuyến kiến thức về giải toán ở tiểu học: + Lớp 1 : giới thiệu bài toán có lời văn ; giải các bài toán bằng một phép tính (một phép cộng hoặc một phép trừ) ; chủ yếu là các bài toán thêm, bớt một số đơn vị. + Lớp 2: giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ ; các bài toán về nhiều hơn, ít hơn một số đơn vị ; phép nhân và phép chia; bước đầu làm quen giải bài toán có nội dung hình học (tính chu vi các hình đã học), các bài toán liên quan đến các phép tính với các đơn vị đo đã học (km, m, dm, cm, mm, kg, lít). + Lớp 3: giải các bài toán có đến hai bước tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản ; giải các bài toán quy về đơn vị và các bài toán có nội dung hình học. + Lớp 4: giải các bài toán có đến hai hoặc ba bước tính, có sử dụng phân số ; giải các bài toán liên quan đến : tìm hai số khi biết tổng và hiệu của chúng, tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ của chúng, tìm số trung bình cộng, các bài toán có nội dung hình học đã học) ; giới thiệu bước đầu về việc sử dụng toán học lớp 4 để giải quyết các vấn đề của thực tế. + Lớp 5: giải các bài toán có đến ba bước tính là chủ yếu. Đó là các bài toán đơn giản về tỉ số phần trăm : tìm tỉ số phần trăm của hai số, tìm phần trăm của một số, tìm một số biết một số phần trăm của nó; các bài toán đơn giản về chuyển động đều, chuyển động ngược chiều và cùng chiều : tìm vận tốc khi biết thời gian chuyển động và độ dài quãng đường, tìm thời gian chuyển động khi biết vận tốc chuyển động và độ dài quãng đường, tìm độ dài quãng đường khi biết thời gian chuyển động và vận tốc chuyển động ; các bài toán về quy tắc tam suất đơn (thuận, nghịch) ; các bài toán có nội dung về tìm diện tích, thể tích các hình đã học ; các bài toán ứng dụng các kiến thức đã học để giải quyết một số vấn đề của đời sống. - Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy đủ theo quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5: + Câu lời giải. + Phép tính giải. + Đáp số. - Về số lượng bài toán trong một tiết học được rút bớt (so với chương trình trước đây) để dành thời gian cho học sinh đọc kĩ đề, tìm hiểu để, tóm tắt và trình bày bài giải (Chưa kể ở một số bài, giáo viên có thể chủ động giảm bớt một số bài tập khó cho phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc thiểu số theo hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học số 5842 của Bộ GD&ĐT). *. Tìm hiểu để nắm vững quy trình chung khi giải bài toán có lời văn ở lớp 2 Quá trình giải toán thường theo 4 bước sau: - Tìm hiểu nội dung bài toán - Tìm cách giải bài toán - Thực hiện cách giải toán - Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải bài toán. Thực tiễn dạy học giải toán đã khẳng định tính đúng đắn của 4 bước giải toán nói trên. Đối với học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn thường xuyên, lặp đi lặp lại qua các tiết học để hình thành cho các em thói quen thực hiện giải toán theo 4 bước đó. Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán Quá trình tìm hiểu nội dung bài toán (đề toán) thường thông qua việc đọc bài toán. Học sinh cần đọc kỹ, hiểu rõ đề toán, phân biệt được cái đã cho và cái phải tìm.Có thể nói đây là bước quan trọng góp phần vào sự thành công trong việc giải toán của học sinh, giáo viên cần hướng dẫn để học sinh xác định được yêu cầu của đề, nắm bắt được mấu chốt trong yêu cầu của bài toán. Hết sức tránh tình trạng học sinh vừa đọc xong đề đã vội vã bắt tay vào giải ngay. Phải tập cho học sinh có thói quen tự tìm hiểu đề toán qua việc phân tích những điều đã cho và xác định được những điều phải tìm. Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn phép tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu hỏi. Với cùng các dữ kiện như nhau có thể đặt các câu hỏi khác nhau do đó việc lựa chọn phép tính cũng khác nhau, việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều kiện căn bản để giải đúng bài toán đó. Với học sinh dân tộc thiểu số, khả năng hiểu tiếng Việt còn hạn chế nên các em đã gặp khó khăn ngay từ bước này. Do vậy, giáo viên cần chú ý với việc kết hợp giảng giải từ và thuật ngữ toán học giúp học sinh hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần dựa vào các hoạt động cụ thể của các em với vật thật, mô hình hay dựa vào hình vẽ, các sơ đồ toán học.... để giúp các em hiểu khái niệm "nhiều hơn ", "ít hơn”, ‘thêm”, “bớt”,... trong tương quan giữa các mối quan hệ trong bài toán. Giáo viên cần chú ý vận dụng các biện pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh trong tất cả các môn học giúp các em được rèn luyện nhiều hơn về khả năng đọc – hiểu tiếng Việt. Để kiểm tra việc học sinh hiểu nội dung bài toán như thế nào, giáo viên nên cho học sinh nhắc lại yêu cầu bài toán không phải bằng hình thức đọc thuộc lòng mà bằng cách diễn đạt của mình (đây là yêu cầu khó đối với học sinh dân tộc thiểu số nhưng không vì thế mà giáo viên bỏ qua, cần phải kiên trì luyện tập cho các em). Sau khi đọc bài toán, học sinh cần xác định được 3 yếu tố cơ bản của bài toán: - Những dữ kiện của bài toán: Đó là những cái đã cho, những cái đã biết của bài toán. Giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định dữ kiện bằng bút chì trước rồi mới phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân các dữ kiện đã cho theo quy ước là một gạch) - Những ẩn số: Là cái chưa biết, là cái bài toán yêu cầu tìm. Tương tự như trên, giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định ẩn số bằng bút chì trước rồi mới phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân cái bài toán yêu cầu tìm theo quy ước là hai gạch để học sinh phân biệt). Việc làm này được thực hiện thường xuyên sẽ rèn luyện cho học sinh tính tích cực, chủ động trong giải toán. - Những điều kiện của bài toán: đó là mối liên hệ giữa các dữ kiện và các ẩn số. Ví dụ: Có 18 lá cờ chia đều 2 tổ. Hỏi mỗi tổ được mấy lá cờ?( bài 3 trang 111- SGK Toán 2) + Cái đã cho: 18 lá cờ chia đều 2 tổ + Cái cần tìm: mỗi tổ được mấy lá cờ? Lưu ý học sinh là trong quá trình giải toán không phải tất cả đề bài đều cho biết cái đã cho trước và cái cần tìm sau mà đôi khi ngược lại: Đưa cái cần tìm trước rồi mới biết cái đã cho; cũng có khi cái đã cho và cái cần tìm đan xen với nhau. Ví dụ1: Tính chu vi hình tam giác có độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm và 28mm? (bài 3 – trang 153- SGK Toán 2) + Cái cần tìm: Tính chu vi hình tam giác. + Cái đã cho: độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm, 28mm Ví dụ 2: Có 12 học sinh chia đều thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 học sinh. Hỏi chia được thành mấy nhóm? ?”( bài 3 - trang 136 - SGK Toán 2) + Cái đã cho: mỗi nhóm có 3 học sinh +Cái cần tìm: 12 học sinh chia được mấy nhóm? Bước 2: Tìm cách giải toán Hoạt động tìm tòi cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ kiện, ẩn số và điều kiện của bài toán nhằm xác lập mối quan hệ giữa chúng. Từ đó lựa chọn phép tính số học thích hợp. Hoạt động này thường diễn ra như sau: - Minh hoạ bài toán thông qua tóm tắt đề toán: Việc làm này giúp học sinh bớt được một số câu, chữ làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa các số đã cho và số phải tìm hiện ra rõ hơn. Bởi vậy cần tóm tắt thật ngắn gọn, GV chỉ cần hướng sự tập trung chú ý của HS đến những chi tiết chính của bài toán, còn những chi tiết phụ của bài toán cần gạt bỏ đi để HS không bị rối. Tóm tắt bài toán chính là sự biểu diễn cái đã cho, cái cần tìm và mối liên hệ giữa chúng. Có rất nhiều cách để tóm tắt một bài toán, có thể tóm tắt đề toán theo các cách sau: + Tóm tắt bằng lời + Dùng sơ đồ đoạn thẳng + Dùng ngôn ngữ và kí hiệu + Dùng chữ thay số + Dùng sơ đồ Graph + Dùng bảng + Dùng sơ đồ ven + Dùng hình vẽ +Dùng hình tượng trưng Tuy nhiên, với khả năng của học sinh lớp 2, chúng ta chỉ nên hướng dẫn các em các cách tóm tắt bằng lời, dùng sơ đồ đoạn thẳng hoặc dùng hình tượng trưng. VÝ dô 1: Trong vườn có 9 cây táo, mẹ trồng thêm 6 cây táo nữa. Hỏi trong vườn có tất cả bao nhiêu cây táo? Tóm tắt: Có : 9 cây táo Thêm : 6 cây táo Tất cả có : cây táo? VÝ dô 2: Lớp 2A có 29 học sinh và số học sinh lớp 2B nhiều hơn số học sinh lớp2A là 5 học sinh. Hỏi lớp 2B có bao nhiêu học sinh? 5 học sinh 29 họcsinh ? học sinh 2B: Tãm t¾t: 2A: Ví dụ 3: Bình có 11 quả bóng bay, Bình cho bạn 4 quả. Hỏi Bình còn lại mấy quả bóng bay? Tóm tắt : Có : Cho bạn Còn lại : ... quả ? Đối với một số bài toán nâng cao có thể dùng thêm các dạng tóm tắt khác cho học sinh dễ tìm ra cách giải, Ví dụ như ở bài toán sau: Tìm một số biết rằng số đó lần lượt cộng với 1 rồi nhân với 2, được bao nhiêu đem chia cho 3 rồi trừ đi 4 thì được 5. Tóm tắt : -4 :3 2 ? 5 +1 Tùy theo trình độ học sinh thấp hay cao mà lựa chọn cách tóm tắt mang nhiều hay ít tính trực quan. Học sinh dân tộc thiểu số thường gặp khó khăn khi tìm hiểu nội dung bài toán. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn tóm tắt bài toán bằng cách đàm thoại (Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?). Học sinh dựa vào các dữ kiện của bài toán (phần đã gạch chân) để trả lời các câu hỏi của giáo viên và từng bước hoàn thành tóm tắt bài toán. - Lập kế hoạch giải toán nhằm xác lập trình tự giải quyết, thực hiện các phép tính số học: Có hai hình thức thể hiện tương ứng với hai phương pháp phân tích bài toán để tìm cách giải cho một bài toán, tùy từng bài toán cụ thể mà ta lựa chọn phương pháp tìm cách giải phù hợp. + Phép phân tích xuôi: Là phương pháp tìm cách giải đi từ dữ kiện của bài toán đến câu hỏi của bài toán. Từ những cái đã cho (đã có) suy ra hoặc tính được điều gì giúp ích cho việc giải toán không? Cứ như thế ta suy luận để tìm ra cách giải toán. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán: “Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?” (bài 3 -trang 11 - SGK Toán 2), giáo viên nêu các câu hỏi như sau: - Bài toán đã cho biết những gì? (Lớp 2A có 18 học sinh, lớp 2B có 21 học sinh) - Bài toán hỏi gì? (Cả hai lớp có bao nhiêu học sinh?) - Để biết cả hai lớp có bao nhiêu học sinh ta làm phép tính gì? (Làm phép tính cộng) + Phép phân tích ngược: Là phương pháp đi từ câu hỏi của bài toán đến dữ kiện của bài toán. Tức là phải tập trung vào câu hỏi của bài toán và suy nghĩ xem muốn trả lời được câu hỏi đó thì phải biết những gì và phải làm phép tính gì? Trong những điều kiện cần thiết phải biết đó thì cái nào là cái có sẵn, cái nào phải tìm và tìm như thế nào? Cứ như thế ta suy nghĩ ngược lên: Từ câu hỏi của bài toán trở về các điều kiện của bài toán. Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán: “Có 12 học sinh chia đều thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 học sinh. Hỏi chia được thành mấy nhóm?”( trang 136 - SGK Toán 2), giáo viên nêu các câu hỏi như sau: -Bài toán hỏi gì? (Chia được thành mấy nhóm?) - Bài toán hỏi về số nhóm được chia từ mấy học sinh? ( Số nhóm được chia từ 12 học sinh) - Muốn biết từ 12 học sinh chia được thành mấy nhóm ta phải biết gì? (Biết mỗi nhóm có mấy học sinh?) - Điều đó chúng ta biết chưa? (biết rồi), mỗi nhóm có bao nhiêu học sinh? (mỗi nhóm có 3 học sinh) - Để biết chia được thành mấy nhóm ta làm phép tính gì? (Làm phép tính chia) Bước 3: Thực hiện cách giải bài toán. Hoạt động này bao gồm việc thực hiện phép tính đã được nêu trong bước tìm cách giải bài toán nêu trên và trình bày bài giải. Cách trình bày bài giải như sau: - Viết câu lời giải : Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, với học sinh dân tộc thiểu số, nhiều khi việc hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Những tuần đầu khi học đến phần giải toán có lời văn, nhiều học sinh rất lúng túng khi viết lời giải, vì ở lớp 1 chỉ yêu cầu học sinh tập viết câu lời giải ở dạng đơn giản. Bởi vậy, ở những tiết toán có bài toán giải có lời văn, giáo viên cần dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình bày mẫu nhiều bài giúp các em hình thành và ghi nhớ kĩ năng giải toán. Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 11 SGK Toán 2. “ Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?”. Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán: Lớp 2A có : 18 học sinh. Lớp 2B có : 21 học sinh. Cả hai lớp có : học sinh? Học sinh nêu miệng câu lời giải: Cả hai lớp có tất cả số học sinh đang tập hát là: Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 21 = 39 (học sinh) Tiếp đó, cho học sinh tự trình bày bài giải. Ở những bài toán trong các tuần đầu, giáo viên cần cho học sinh luyện nêu miệng bài toán nhiều lần để các em ghi nhớ cách trình bày một bài giải. Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh một số mẹo nhỏ để viết được lời giải chính xác với yêu cầu câu lời giải cần phải ghi ngắn gọn, đủ ý được mệnh đề khẳng định . Đối với bài toán trong ví dụ trên, có thể dùng các cách hướng dẫn học sinh như sau: Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi), thay từ “bao nhiêu” bằng từ “số” và thêm từ “là” ở cuối câu để có câu lời giải : "Cả hai lớp có số học sinh đang tập hát là:" Cách 2: Bỏ từ “hỏi” và từ “bao nhiêu” trong câu hỏi rồi đưa từ "học sinh" ở cuối câu hỏi lên đầu và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số học sinh cả hai lớp đang tập hát là:" Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu lời giải. Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Cả hai lớp có :..học sinh ?". Học sinh viết câu lời giải: " Cả hai lớp có số học sinh là:" Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: " Cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?" để học sinh trả lời miệng: "Cả hai lớp có 39 học sinh đang tập hát" rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính): Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 18 + 21 = 39 (học sinh), giáo viên chỉ vào 39 và hỏi: "39 học sinh ở đây là số học sinh của lớp nào?" (là số học sinh của cả hai lớp). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: "Số học sinh cả hai lớp là" v.v... Giáo viên có thể vận dụng các cách khác nhau để dẫn dắt học sinh tìm lời giải, không nên bắt buộc trẻ nhất nhất phải viết theo một kiểu lời giải nào đó. Tốt nhất là giáo viên gọi nhiều học sinh nêu các lời giải khác nhau rồi lựa chọn và chỉnh sửa (nếu chưa chính xác) thành lời giải phù hợp nhất cho bài giải. Sau đó cho học sinh yếu kém nhắc lại. Từ đó khắc sâu và nhấn mạnh cho học sinh hiểu muốn tìm được câu lời giải đúng với yêu cầu của bài toán phải dựa vào cái cần tìm ( đây cũng chính là câu hỏi của bài toán ) Tuy nhiên đối với bài toán tính độ dài đoạn thẳng, đoạn dây, đường gấp khúc... có số đo đại lượng như: km, m, dm, mm, . . . giáo viên cần phân biệt một cách chính xác các khái niệm như: "đại lượng", "Số đo của một đại lượng" để giúp học sinh tránh những sai lầm đồng nhất "đoạn thẳng" với "độ dài đoạn thẳng" hay "số đo đoạn thẳng" Ví dụ: Bài 4 trang 25 SGK Đọan thẳng AB dài 10cm, đoạn thẳng CD dài hơn đoạn thẳng AB 2cm. Hỏi đoạn thẳng CD dài bao nhiêu cm? Học sinh không viết câu lời giải: "Số xăng-ti-mét đoạn thẳng CD dài là" mà phải viết là: "Độ dài đoạn thẳng CD là". - Viết phép tính: Phép tính phải viết theo hàng ngang, không được viết theo cột dọc. Không viết đơn vị kèm theo trong các phép tính mà chỉ viết đơn vị vào sau kết quả phép tính và đặt trong dấu ngoặc đơn. - Viết đáp số: Đáp số viết ở cuối bài giải, bài toán có bao nhiêu câu hỏi thì có bấy nhiêu đáp số, chỉ ghi 1 lần từ “đáp số”. Đáp số phải ngắn gọn và đủ ý trả lời cho câu hỏi của bài toán. Dạy học sinh dân tộc thiểu số nên giáo viên cần hướng dẫn kĩ cho các em cách viết từ “Đáp số” lùi vào mấy ô li so với từ “Bài giải” (đã được viết chính giữa trang vở) Ví dụ: Con lợn thứ nhất nặng118kg. Con lợn thứ hai nặng kém con lợn thứ nhất 7kg. Hỏi: a) Con lợn thứ hai nặng bao nhiêu kilôgam? Cả hai con lợn nặng bao nhiêu kilôgam? (Bài 239 – trang 39 - Toán nâng cao lớp 2) Bài giải: a) Con lợn thứ hai nặng là: 118 – 7 = 111(kg) b) Cả hai con lợn nặng là: 118 + 111 = 229 (kg) Đáp số: a) 111 kg b) 229 kg Bước 4: Kiểm tra cách giải bài toán. Việc kiểm tra nhằm phân tích xem cách giải phép tính và kết quả là đúng hay sai, có các hình thức thực hiện sau: + Thiết lập tương ứng các phép tính giữa các số đã tìm được trong quá trình giải với các số đã cho. + Tạo ra bài toán ngược với bài toán đã cho rồi giải nó. + Giải bài toán bằng cách khác rồi so sánh đáp số. + Xét tính hợp lý của đáp số. Việc kiểm tra cách giải và đáp số của bài toán là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán Thực tế quan sát học sinh tiểu học khi giải toán chúng tôi nhận thấy rằng: Các em thường coi bài toán đã được giải xong khi có đáp số. Nhưng khi giáo viên hỏi: "Em có chắc chắn đó là kết quả đúng không?" thì đa số các em đã lúng túng và chưa trả lời được ngay. Kiểm tra cách giải và đáp số của bài toán là các việc như kiểm tra về: + Cách sử dụng dụng dữ kiện + Lựa chọn và thực hiện phép tính + Cách trình bày bài giải (diễn đạt câu văn , thứ tự thực hiện) + Kiểm tra lại phương pháp và thủ thuật đã sử dụng khi giải toán. Đây là bước không thể thiếu trong quá trình giải toán ở tiểu học, điều đó giúp các em đảm bảo được tính chính xác cao khi giải toán và đặc biệt giúp phát triển ở các em năng lực sáng tạo, tính tích cực, chủ động và độc lập gải toán. Đối với học sinh giỏi việc tìm ra nhiều cách giải toán khác nhau cho cùng một bài toán đó là biện pháp tốt nhất để tìm ra cách giải và đáp số của bài toán đó. Hơn thế nữa, nó tạo điều kiện cho sự phát triển tư duy linh hoạt, năng động sáng tạo của học sinh. Ngược lại, việc giúp học sinh biết cách đánh giá cách giải là một động lực thúc đẩy sự cố gắng tìm ra cách giải khác nhau để giải bài toán. Đối với học sinh dân tộc thiểu số thì giáo viên nên lựa chọn những cách kiểm tra đơn giản nhất để không làm suy nghĩ của các em bị rối *Nắm vững phương pháp dạy học toán theo hướng đổi mới Một trong những phương pháp dạy học toán ở tiểu học hiện nay đó là việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tối đa khả năng làm việc một cách chủ động, tích cực dưới sự tổ chức, điều khiển của giáo viên. Phương pháp dạy học tích cực là hệ thống các phương pháp tác động liên tục của giáo viên nhằm kích thích tư duy của học sinh, tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh theo quy
Tài liệu đính kèm: