Thời gian trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách quan, vừa là thời gian của tưởng tượng, hư cấu mang tính chất chủ quan của tác giả.
Ca dao có rất nhiều câu mở đầu bằng hai tiếng “Chiều chiều”, “Chiều chiều xách giỏ hái rau”, “Chiều chiều ra đứng bờ sông”, “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều”. “Chiều chiều” có nghĩa là chiều nào cũng vậy, sự việc diễn ra lặp đi lặp lại.
Ngoài ra thời gian trong ca dao còn sử dụng hàng loạt những trạng ngữ (hay cụm từ) chỉ thời gian như: “bây giờ”, “tối qua’, “đêm đêm”, thì ai cũng hiểu là người nói đang ở thời điểm hiện tại để nhớ lại và nhắc lại chuyện vừa xảy ra chưa lâu. Nhìn chung thời gian trong ca dao trữ tình là thời gian nghệ thuật mang tính tượng trưng, phiếm chỉ (hay phiếm định). Vì thế nó phù hợp với nhiều người, ở nhiều địa điểm và thời điểm khác nhau.
- Không gian
Không gian trong ca dao cũng vừa là không gian thực tại khách quan, vừa là không gian trong trí tưởng tượng mang tính chất tượng trưng của tác giả.
Khi không gian thuộc về “đối tượng phản ánh, miêu tả thì đó là không gian thực tại được tái hiện trong ca dao”. Ví dụ: xứ Huế, xứ Thanh, sông Lục Đầu, sông Thương, và những nơi khác trong ca dao, nhất là ca dao về phong cảnh và sản vật các địa phương.
Ví dụ:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Cũng giống như thời gian, khi không gian được nói đến như một yếu tố góp phần tạo nên hoàn cảnh, trường hợp để tác giả bộc lộ cảm nghĩ (trực tiếp hay gián tiếp) thì đó là không gian mang tính chất tượng trưng do tác giả tưởng tượng, hư cấu hoặc tái tạo theo cảm xúc thẫm mỹ của mình. Ví dụ những hình ảnh về không gian, địa điểm mang tính chất tượng trưng, phiểm chỉ, thường xuyên xuất hiện trong ca dao trữ tình (“cánh đồng”, “thác”, “ghềnh”, “bờ ao”, “mái nhà”, “ngõ sau”). Ngay cả những địa điểm có thực khi vào ca dao trữ tình cũng mang tính chất tượng trưng.
- Thủ pháp nghệ thuật chủ yếu
Những bài ca dao được đưa vào SGK Ngữ Văn 7 có nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau (mang nét đặc trưng của ca dao truyền thống). Ở đây tôi chỉ đề cập đến những thủ pháp chủ yếu.
g bài thơ dân gian mang phong cách nghệ thuật chung với lời thơ dân ca. * Tổng quan về ca dao – dân ca: Lịch sử hình thành, phát triển của ca dao – dân ca rất lâu dài, phong phú, phạm vi các hiện tượng ca dao - dân ca của cộng đồng người Việt nói riêng, cũng như các dân tộc nói chung rất rộng lớn, đa dạng. Việc phân loại, phân kỳ và vùng ca dao – dân ca là biện pháp cần thiết không thể thiếu khi tìm hiểu về ca dao – dân ca. Các thể loại văn học dân gian nói chung, cũng như các thể loại ca dao – dân ca nói riêng đều là sản phẩm của lịch sử, gắn bó với đời sống của con người trong những thời gian và không gian nhất định. Do ca dao – dân ca có những đặc điểm tương đồng và khác biệt với nhau, nên việc phân loại ca dao – dân ca cũng có những điểm chung, riêng tương ứng. * Các loại ca dao – dân ca chủ yếu: - Dân ca (1) Đồng dao (2) Dân ca lao động (3) Dân ca nghi lễ (4) Hát ru (5) Dân ca trữ tình (6) Dân ca trong kịch hát dân gian - Ca dao (1) Ca dao trẻ em (2) Ca dao lao động (3) Ca dao nghi lễ phong tục (4) Ca dao ru con (5) Ca dao trữ tình (6) Ca dao trào phúng Trong nhà trường THCS – THPT chủ yếu học sinh được học phần lời ca (tức là ca dao) nên đề tài này tôi chủ yếu đề cập đến ca dao. * Đặc trưng của ca dao – dân ca: - Hệ đề tài Vì là phần lời của những câu hát dân gian nên ca dao thiên về tình cảm và biểu hiện lòng người, phản ánh tâm tư, tình cảm, thế giới tâm hồn của con người. Thực tại khách quan được phản ánh thông qua tâm trạng con người, nó thể hiện vẻ đẹp trang trọng ngay trong đời sống đời thường con người. - Chức năng Ca dao – dân ca là “tấm gương của tâm hồn dân tộc” là “một trong những dòng chính của thơ ca trữ tình” (F. Hê ghen). - Đặc điểm thi pháp Ngôn ngữ trong ca dao Nói đến thi pháp ca dao, trước hết phải nói đến phương tiện chủ yếu của ca dao, tức là ngôn ngữ. Bởi vì ca dao là phần lời của dân ca, cái yếu tố nhạc điệu, động tác, có vai trò rất quan trọng trong dân ca, còn ở phần lời thơ thì vai trò chủ yếu thuộc về ngôn ngữ, các yếu tố khác đều trở thành thứ yếu. Chính vì vậy mà ca dao có khả năng sống độc lập ngoài ca hát (tức là ngoài sự diễn xướng tổng hợp của dân ca) và trở thành nguồn thơ trữ tình dân gian truyền thống lâu đời và phong phú nhất của dân tộc. Ngôn ngữ trong ca dao đậm đà màu sắc địa phương, giản dị, chân thực, hồn nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Ví dụ như bài ca dao: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông”. Thân em như chẽn lúa đòng đòng Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai Có nhiều bài ca dao được lan truyền nhanh chóng trở thành tiếng nói riêng của nhân dân nhiều địa phương khác nhau nhờ sự thay đổi địa danh là chủ yếu. Ví dụ: Đường vô xứ Huế quanh quang Non xanh nước biệc như tranh họa đồ Ai vô xứ Huế thì vô Thể thơ trong ca dao: Ca dao là phần lời của dân ca, dó đó các thể thơ trong ca dao cũng sinh ra từ dân ca. Các thể thơ trong ca dao cũng được dùng trong các loại văn vần dân gian khác (như tục ngữ, câu đố, vè). Có thể chia các thể loại ca dao thành 4 loại chính là: - Các thể vãn - Thể lục bát - Thể song thất và song thất lục bát - Thể hỗn hợp (hợp thể) Trong SGK Ngữ Văn 7 tập 1 các bài ca dao được sáng tác chủ yếu là thể lục bát (mỗi câu gồm hai dòng hay hai về, dòng trên sáu âm tiết, dòng dưới tám âm tiết nên được gọi là “thượng lục hạ bát” ). Đây cũng là thể thơ sở trường nhất của ca dao. Thể thơ này được phân thành hai loại là lục bát chính thể (hay chính thức) và lục bát biến thể (hay biến thức), ở lục bát chính thể, số âm tiết không thay đổi (6+8), vần gieo ở tiếng thứ 6 (thanh bằng), nhịp thơ phổ biến là nhịp chẵn (2/2/2), cũng có thể nhịp thay đổi (3/3 và 4/4), ở lục bát biến thể, số tiếng (âm tiết) trong mỗi vế có thể tăng, giảm (thường dài hơn bình thường). Ví dụ: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông (12 âm tiết) - Thể cách của ca dao “Phú”, “tỉ” , “hứng” là ba thể cách của ca dao (cách phô diễn ý tình). + “Phú” ở đây có nghĩa là phô bày, diễn tả một cách trực tiếp, không qua sự so sánh. Ví dụ: Cậu cai nón dấu lông gà, Ngon tay đeo nhẫn gọi là cậu cai Ba năm được một chuyến sai, Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê. + “Tỉ” nghĩa là so sánh (bao gồm cả so sánh trực tiếp – tỉ dụ và so sánh gián tiếp - ẩn dụ) Ví dụ: Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu? + “Hứng” là cảm hứng. Người xưa có câu “Đối cảnh sinh tình”. Những bài ca dao trước nói đến “cảnh’ (bao gồm cả cảnh vật, sự việc) sau mới bộc lộ “tình” (tình cảm, ý nghĩa, tâm sự) đều được coi là làm theo thể “hứng” Ví dụ: Ngó lên nuộc lạt mái nhà, * Thời gian và không gian trong ca dao - Thời gian: Thời gian trong ca dao vừa là thời gian thực tại khách quan, vừa là thời gian của tưởng tượng, hư cấu mang tính chất chủ quan của tác giả. Ca dao có rất nhiều câu mở đầu bằng hai tiếng “Chiều chiều”, “Chiều chiều xách giỏ hái rau”, “Chiều chiều ra đứng bờ sông”, “Chiều chiều lại nhớ chiều chiều”. “Chiều chiều” có nghĩa là chiều nào cũng vậy, sự việc diễn ra lặp đi lặp lại. Ngoài ra thời gian trong ca dao còn sử dụng hàng loạt những trạng ngữ (hay cụm từ) chỉ thời gian như: “bây giờ”, “tối qua’, “đêm đêm”, thì ai cũng hiểu là người nói đang ở thời điểm hiện tại để nhớ lại và nhắc lại chuyện vừa xảy ra chưa lâu. Nhìn chung thời gian trong ca dao trữ tình là thời gian nghệ thuật mang tính tượng trưng, phiếm chỉ (hay phiếm định). Vì thế nó phù hợp với nhiều người, ở nhiều địa điểm và thời điểm khác nhau. - Không gian Không gian trong ca dao cũng vừa là không gian thực tại khách quan, vừa là không gian trong trí tưởng tượng mang tính chất tượng trưng của tác giả. Khi không gian thuộc về “đối tượng phản ánh, miêu tả thì đó là không gian thực tại được tái hiện trong ca dao”. Ví dụ: xứ Huế, xứ Thanh, sông Lục Đầu, sông Thương, và những nơi khác trong ca dao, nhất là ca dao về phong cảnh và sản vật các địa phương. Ví dụ: Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn. Cũng giống như thời gian, khi không gian được nói đến như một yếu tố góp phần tạo nên hoàn cảnh, trường hợp để tác giả bộc lộ cảm nghĩ (trực tiếp hay gián tiếp) thì đó là không gian mang tính chất tượng trưng do tác giả tưởng tượng, hư cấu hoặc tái tạo theo cảm xúc thẫm mỹ của mình. Ví dụ những hình ảnh về không gian, địa điểm mang tính chất tượng trưng, phiểm chỉ, thường xuyên xuất hiện trong ca dao trữ tình (“cánh đồng”, “thác”, “ghềnh”, “bờ ao”, “mái nhà”, “ngõ sau”). Ngay cả những địa điểm có thực khi vào ca dao trữ tình cũng mang tính chất tượng trưng. - Thủ pháp nghệ thuật chủ yếu Những bài ca dao được đưa vào SGK Ngữ Văn 7 có nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau (mang nét đặc trưng của ca dao truyền thống). Ở đây tôi chỉ đề cập đến những thủ pháp chủ yếu. - So sánh là thủ pháp nghệ thuật được dùng thường xuyên, phổ biến nhất, bao gồm so sánh trực tiếp (tỉ dụ), so sánh gián tiếp (ẩn dụ). Tỉ dụ là so sánh trực tiếp, thường có những từ chỉ quan hệ so sánh: như, như là, như thể đặt giữa hai vế (đối tượng và phương tiện so sánh). Ví dụ: - Đường vô xứ Huế quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. - Thân em như chẽn lúa đòng đòng Phất phơ dưới nắng hồng ban mai - Yêu nhau như thể chân tay Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy. - Công cha như núi ngất trời Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông. - Còn ẩn dụ (so sánh ngầm) thì không những không có quan hệ từ so sánh mà đối tượng so sánh cũng được ẩn đi, chỉ còn vế là phương tiện so sánh (ở đây đối tượng và phương tiện so sánh hòa nhập làm một). Do vậy mà hình thức ẩn dụ hàm súc hơn. Ví dụ bài ca dao sau là tập hợp bốn hình ảnh ẩn dụ, mỗi hình ảnh ám chỉ một cảnh ngộ đáng thương của người lao động: Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ Thương thay lũ kiến tí ti Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi Thương thay hạc lánh đường mây Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu có người nào nghe. Đặc biệt ẩn dụ gắn rất chặt với nghệ thuật nhân hóa, dùng thế giới loài vật để nói thế giới loài người. Ví dụ bài ca dao dưới đây mỗi con vật tượng trung cho một loại người, hạng người trong xã hội xưa: Con cò chết rũ trên cây Cò con mở lịch xem ngày làm ma, Cà cuống uống rượu là đà, Chim ri ríu rít bò ra lấy phần. Chào mào thì đánh trống quân, Chim chích cởi trần vác mỏ đi giao. - Biện pháp nghệ thuật đối xứng (đối ý, đối từ): Ví dụ: Số cô chẳng giàu thì nghèo Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà. Số cô có mẹ có cha Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có vợ có chồng Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai. - Nghệ thuật trùng điệp (bao gồm cả điệp ý, điệp từ) Ví dụ: Cái cò lặn lội bờ ao Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng Chú tôi hay tửu hay tăm Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa. Ngày thì ước những ngày mưa Đêm thì ước những đêm thừa trống canh. - Nghệ thuật phóng đại được sử dụng hầu hết ở những bài ca dao dùng để châm biếm: Ví dụ: Cậu cai nón dấu lông gà, Ngón tay đeo nhẫn gọi là cậu cai. Ba năm được một chuyến sai Áo ngắn đi mượn, quần dài đi thuê. Ngoài ra còn có một số biện pháp khác nữa. - Phương thức diễn xướng: Phương thức diễn xướng gắn liền với các hình thức nghệ thuật của dân ca (hát ru, hát hò, đối đáp). 1.1.2: Sau khi nắm đặc trưng thể loại của Ca dao – dân ca, giáo viên cần nắm bắt đối tượng học sinh, xem trình độ nhận thức, khả năng cảm thụ văn học của các em đến đâu để đưa ra phương pháp dạy học phù hợp. 1.1.3. Ca dao - dân ca cũng là một phương thức của văn bản trữ tình cho nên khi dạy giáo viên cần định hướng các em nắm vững quy trình khi “chiếm lĩnh” trọn vẹn một văn bản văn học. Quy trình đó bao gồm: 1.1.3.1. Giới thiệu bài mới: Mặc dù chỉ chiếm vài ba phút nhưng đây là khâu quan trọng giáo viên không nên bỏ qua. Trong giáo án giáo viên nên thể hiện cả dự kiến vào bài, khởi động tạo tình huống gây hứng thú học tập cho học sinh ngay từ phút đầu, có thể bằng câu hỏi tích hợp dọc. Ví dụ khi dạy văn bản: Những câu hát về tình cảm gia đình. Là tiết đầu tiên học sinh tìm hiểu khái niệm ca dao – dân ca, nhưng những câu, những bài ca dao các em đã được làm quen, được nghe từ nhỏ, rồi những năm tiểu học vì vậy tôi có thể vào bài như sau: Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, được nằm trên chiếc nôi tre chúng ta đã được nghe tiếng ru ầu ơ của bà, của mẹ bằng những câu ca dao – dân ca, nó như dòng suối ngọt ngào, vỗ về, an ủi tâm hồn mỗi người, khúc hát tâm tình của quê hương đã thấm sâu vào trái tim mỗi người dân Việt Nam mà năm tháng có đi qua không thể phai mờ. Hỏi: Vậy bây giờ em nào có thể đọc cho cả lớp nghe một vài câu ca dao mà em thuộc hoặc đã được học ở tiểu học. - Sau đó giáo viên có thể tiến hành hoạt động liên môn khi sử dụng các làn điệu dân ca để gây tình huống. Hỏi: Trong môn Âm nhạc lớp 6 và lớp 7 các êm đã được học một số làn điệu dân ca. Vậy một em hãy nêu rõ tên làn điệu dân ca đó. Nếu có thể em hát một vài câu cho các bạn nghe. (Đó là bài “Đi cấy” dân ca Thanh Hóa – lớp 6 và bài “Lý cây đa” dân ca quan họ Bắc Ninh – lớp 7) Chú ý: Hoạt động liên môn phải hết sức thận trọng, đúng thời điểm với một liều lượng cho phép. 1.1.3.2. Phần dạy bài mới: Đọc – chú thích: * Đọc Về phương pháp tác phẩm trữ tình nói chung và ca dao nói riêng việc đọc là khâu khá quan trọng. Phải đọc cho “vang nhạc sáng hình”. Tác phẩm “chỉ được bắt đầu mở ra cho bạn đọc khi nó vang lên trong tâm hồn như một sự độc thoại bên trong” (Marantxman). Vì vậy ở thể loại trữ tình dân gian là ca dao phương pháp “đọc sáng tạo”, Đối với ca dao giáo viên nên cho học sinh đọc được từ mức thấp nhất cho đến mức cao. - Mức thấp nhất là đọc đúng, tròn vành, rõ chữ, đúng chính âm, chính tả. - Mức cao hơn là đọc diễn cảm, đọc diễn tả cảm xúc. - Mức cao nhất của đọc là đọc nghệ thuật. Nhưng trong giờ dạy ca dao – dân ca thì đọc nghệ thuật không bao giờ thay thế cho đọc diễn cảm. Nếu có sử dụng đọc nghệ thuật (ngâm thơ, hát ru) chỉ với một liều lượng cho phép. - Đối với trình đọ học sinh lớp 7 giáo viên chú ý rèn cho các em kỹ năng đọc diễn cảm. Thông qua việc đọc còn biết được trình độ học sinh. - Trong chương trình SGK Ngữ Văn 7 những người biên soạn sách đã xác định rõ “thể” và chia nhóm của các bài ca dao vừa giúp giáo viên và học sinh xác định được trọng tâm của bài vừa thuận tiện cho việc xác định cách đọc. Tuy nhiên những bài ca dao ở cùng một đề tài tình cảm được thể hiện ở mỗi bài không hoàn toàn giống nhau, chính vì vậy mà giáo viên cũng cần xác định được điều này để hướng dẫn học sinh đọc cho đúng giọng. * Chú thích Chỉ giảng những chú thích sao, những chú thích liên quan đến nội dung có bản của văn bản. Những chú thích khác giáo viên tìm cách kiểm tra học sinh trong quá trình tìm hiểu, phân tích văn bản. Phần phân tích: Trong quá trình thiết kế bài dạy cần chú ý đến việc xây dựng hệ thống câu hỏi theo đặc trưng thể loại. Đặc trưng trong phân môn Văn là đi từ phân tích đến giảng bình. Giáo viên phải xác định được hệ thống câu hỏi phù hợp với đặc trưng thể loại. Như chúng ta đã biết phần lời của những câu hát dân gian thiên về tình cảm và biểu hiện lòng người, thường đan xen ở các cách thể hiện: phú, tỉ hoặc hứng. Nó sống được đến ngày nay là nhờ dân ca. Nhưng khi đưa vào nhà trường đã được văn bản hóa và vì vậy nó cũng được nghiên cứu như một tác phẩm nghệ thuật. Nhưng trong quá trình dạy học nó cũng cần được làm sống dậy môi trường dân gian ở dạng tinh, đơn giản, đủ để kích thích cảm thụ. Vì ca dao thuộc thể loại trữ tình dân gian cho nên trong quá trình phân tích giáo viên cần tăng cường câu hỏi cảm xúc, hình dung tưởng tưởng và các câu hỏi về chi tiết nghệ thuật. Tạo điều kiện cho các em chóng thuộc và tiếp nhận những cách thể hiện độc đáo của ca dao. Ca dao thường nghiêng về vẻ đẹp trang trọn trong đời thường con người. Câu hỏi cảm xúc nghệ thuật cần cố gắng hay động với một khối lượng đáng kể. + Hệ thống câu hỏi cảm xúc. Là hệ thống câu hỏi tìm ra phản ứng trực giác của người đọc bị tác động bởi nội dung và hình thức của tác phẩm ở mức độ ấn tượng ban đầu. Nó đi sâu vào cảm xúc thẩm mĩ. Trả lời hệ thống câu hỏi này, người đọc xác định được cảm xúc của mình khi đọc xong tác phẩm, thể hiện ấn tượng ban đầu của mình trước hình thức nghệ thuật hay nội dung trực tiếp có tính chất vật chất của tác phẩm. Ngay trong hệ thống nhỏ thứ nhất của loại câu hỏi cảm xúc đó cũng luôn xét đến sự chi phối của thể loại và lứa tuổi để có những câu hỏi vừa sức và không bị “nhàm sáo”, luôn luôn bám sát văn bản và rõ ràng, để có được câu hỏi thỏa mãn yêu cầu đó, người dạy cũng như người đọc không thể hời hợt với tác phẩm ngay từ phút đầu. (1). Câu hỏi cảm xúc vật chất: Loại câu hỏi này thường được sử dụng trong các văn bản thuộc thể loại tự sự. (2). Câu hỏi cảm xúc nghệ thuật Là loại câu hỏi hướng về những rung động ban đầu của học sinh bởi tác động của những hình thức nghệ thuật của tác phẩm, ngữ điệu nhạc tính trong thơ. Ví dụ: - Hỏi: Kết cấu câu tám “bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu” có gì đáng chú ý ? - Học sinh: Có kết cấu “Bao nhiêu, bấy nhiêu” là cách nói tăng cấp thường gặp trong ca dao. - Hỏi: Qua nhạc điệu, vần điệu của bài ca “Công cha như núi ngất trời” đã để lại cho các em cảm giác gì? - Học sinh: Bài ca mang âm điệu ngọt ngào, du dương làm cho em cảm thấy lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu lắng. - Hỏi: Hình thức thể loại của bài ca “Ở đâu năm của nàng ơi” có gì đặc biệt? - Học sinh: Đây là thể loại đối đáp thường gặp trong ca dao trữ tình giao duyên cổ truyền Việt Nam. - Hỏi: Các điệp ngữ, đảo ngữ: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát, bát ngát mênh mông gợi cho người đọc, người nghe cảm xúc và ấn tượng gì? - Học sinh: Gợi cho chúng ta như đang đứng trước một cánh đồng rộng, nhìn hút tầm mắt, từ bên nào nhìn ra đều thấy sự rộng lớn của cảnh đồng lúa đang thì con gái. + Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng Sự tưởng tưởng càng phong phú và mãnh liệt thì cảm xúc càng phát triển, khi nghiêm cứu về vấn đề này cả Đuđetxki và Lêvinôp đều cho rằng: “các hình ảnh tưởng tượng của các em khác với biểu tượng của trí nhớ có tính chất cá biệt rõ rệt, hoặc có những dấu hiệu riêng biệt phong phú, hoặc ngược lại chỉ phản ánh cái chung không chỉ có chi tiết hóa một cách rõ ràng và xác định. Giai đoạn khó nhất của tưởng tượng là từ tái tạo đến tổng hợp các dấu hiệu khác nhau thành một hình ảnh toàn vẹn: sự tổng hợp này sẽ dễ dàng hơn nếu nó dựa trên tính chất trực quan của tri giác, đặc biệt để nắm được hình tượng nghệ thuật, học sinh cần phải biết kết hợp việc sử dụng một cách hợp lý tài liệu trực quan với việc độc lập dựa vào mô tả để tìm được hình tượng. Tưởng tượng, tái tạo, tham gia vào các hình thức tái tạo của học sinh. Hoạt động sáng tạo ở lứa tuổi này có rất nhiều vẻ. Và nhất là “phản ứng” với cái đẹp là cái mà đem lại cho người đọc khoái cảm thẩm mĩ xen lẫn cảm xúc của liên tưởng nhất là khi tác động đến cái đẹp đa dạng của hình tượng. Hệ thống câu hỏi này thiên về sự hình dung của người đọc. Những câu hỏi giúp học sinh xác nhận sự hình dung của mình dưới tác động của hình tượng văn học. Hệ thống này gồm hai loại tái hiện và tái tạo. (1). Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tưởng tái hiện Hệ thống câu hỏi này đòi hỏi thầy và trò tự xác định bức tranh nghệ thuật trong tâm hồn mình khi đọc văn bản hoặc khêu gợi trí tưởng tượng trong và sau khi đọc. Ví dụ: Khi dạy đến bài ca : “Chiều chiều ra đứng ngõ sau” giáo viên có thể đặt câu hỏi. - Hỏi: Em hình dung như thế nào về bóng dáng người phụ nữ trong bài ca này? Hãy tả cho các bạn nghe. - Học sinh có thể trả lời theo sự tưởng tưởng của cá nhân mình: Đó là bóng dáng người phụ nữ cô đơn, đứng nơi ngõ sau trong buổi chiều hưu quạnh, đứng như tạc tượng vào không gian, cặp mắt đăm đăm ngóng trông về quê mẹ. * Chú ý: Những hình tượng có nội dung phong phú, có màu sắc cảm xúc là chổ dựa tốt để nắm vững bài học. Vai trò của giáo viên trong việc giáo dục năng lực tưởng tượng của học sinh là rất quan trọng, khéo léo dùng các biện pháp và phương pháp kích thích học sinh tạo nên các hình ảnh của những cái chưa bao giờ thấy “ tránh chủ quan và bịa đặt” (2). Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng tái tạo Những hình tượng của tưởng tượng tái tạo có ưu thế hơn những hình tượng của ký ức và học sinh hoạt động tích cực hơn, mặc dù có điều khiển các hình tượng này để cho chúng phản ánh hiện thực và đặc biệt là trong văn học nghệ thuật thậm chí phong phú hơn hiện thực cũng không phải là không có những tác dụng nhất định. Loại câu hỏi này đi vào những bức tranh nghệ thuật bộ phận, sắc sảo, tinh tế, có tính chất phát hiện sáng tạo. Trả lời được những câu gợi ý, những câu hỏi đó, minh họa được, tả lại được những cảnh tượng thể hiện sự rung động trong cảm thụ của người đọc và phản ánh cái yếu, cái mạnh của trò, có thể điều chỉnh hoặc để cho các em nhận xét về nhau, cũng có thể bồi dưỡng được. Ví dụ: Em hình dung như thế nào về cảnh tượng đám ma con cò trong bài ca dao “Con cò chết rũ trên cây” ? Hãy kể lại cho các bạn nghe. (3) Hệ thống câu hỏi phát hiện thủ pháp nghệ thuật Như chúng ta đã biết những bài ca dao được đưa vào SGK Ngữ Văn 7 có nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau, mang nét đặc trưng của ca dao truyền thống. Đó là các thủ pháp nghệ thuật như: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, phóng đại (đã trình bày ở phần trên “Đặc điểm thi pháp nghệ thuật”, giáo viên cần sử dụng những câu hỏi để học sinh phát hiện được những thủ pháp nghệ thuật quen thuộc trong ca dao. - Ngoài ra, cũng như dạy các văn bản thuộc thể loại trữ tình giáo viên cần sử dụng những câu hỏi bình thường những chú ý phải có câu hỏi đi từ phân tích, giảng giải, nắm được nghĩa lý của kết cấu, hình tượng từ ngữ rồi đến câu hỏi bình. Sau khi tìm được cái hay về nội dung, nghệ thuật của bài ca dao dân ca giáo viên cần cho học sinh tìm những câu ca dao tương tự. Tư liệu về một bài ca dao khi thì cùng một đề tài, khi thì gần nhau ở cách diễn đạt, chúng nằm trong hệ những bài ca. Phải đặt được bài ca dao vào hệ thống, hệ đề tài của nó mới dễ xác định và từ đó mới có thể tạo thành tình huống cho giờ phân t
Tài liệu đính kèm: