Với mỗi tuần thực hiện 2 tiết tập đọc và thông qua 62 bài tập đọc thuộc các loại hình thức văn bản nghệ thuật, báo chí, khoa học, trong đó có 45 bài văn xuôi, 1 vở kịch và 17 bài thơ ( có 2 bài thơ ngắn được dạy trong cùng một tiết), phân môn Tập đọc lớp 4 tiếp tục củng cố, nâng cao kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành, phát triển từ các lớp dưới, đồng thời rèn một kĩ năng đọc mới là đọc diễn cảm, giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc – hiểu văn bản, cụ thể là: Nhận biết đề tài, cấu trúc của bài, biết phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản văn chương.
Nội dung các bài tập đọc trong SGK Tiếng Việt 4 phản ánh một số vấn đề cơ bản về đạo đức, phẩm chất, sở thích, thú vui lành mạnh .của con người thông qua ngôn ngữ văn học và những hình tượng giàu chất thẩm mĩ và nhân văn, do đó có tác dụng mở rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn về tự nhiên, xã hội và đời sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm nhân cách cho học sinh.
n về hình thức hoặc “ diễn cảm” tùy tiện. Vận dụng phương pháp và hình thức về dạy học giáo viên tổ chức cho học sinh luyện đọc theo cá nhân, nhóm, tổ, lớp, đọc phân vai khi cần thiết thay đổi hoạt động, tạo không khí hào hứng cho lớp học... Nếu như việc tổ chức đọc diễn cảm tốt thì tạo nên bầu không khí tươi vui trong giờ học. Người học trong chừng mực nào đó, có thể thưởng thức giọng đọc và dễ sản sinh những ấn tượng, xúc động tự nhiên về văn bản. Có thể thấy rất rõ rằng trên thực tế học sinh ở nhà đã tiếp xúc với văn bản không chỉ một lần; việc lên lớp đọc lại văn bản nếu không tạo được sự khác biệt thì dễ gây nhàm chán và mất tập trung. Do đó bằng hình thức đọc diễn cảm, giáo viên có thể tạo cho học sinh những bất ngờ, hoặc sự hứng thú và khiến các em bỗng nhiên có cảm nhận mới mẻ về văn bản. Đó là chưa nói nếu như giáo viên yêu cầu học sinh trình bày thì còn tạo cơ hội cho các em bộc lộ bản thân. Đương nhiên giáo viên phải "gieo" vào học sinh ý thức đọc sao cho cuốn hút chứ không phải là qua chuyện và đọc ở đây thể hiện sự cảm thụ, hiểu sâu sắc về tác phẩm là làm sao để người khác cũng có thể sản sinh những ấn tượng tương tự như mình. II.3. Giải pháp, biện pháp a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Nhằm giúp học sinh có kĩ năng đọc diễn cảm và khả năng cảm thụ tốt văn học. Từ đó giúp các em làm giàu vốn hiểu biết về tiếng Việt, đồng thời mang đến cho các em tình cảm cao đẹp, tình yêu với cuộc sống con người, tình yêu gia đình, yêu quê hương đất nước,... Phát huy tính tích cực, hứng thú của học sinh trong giờ tập đọc b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp b.1. Tìm hiểu cấu trúc chương trình, nội dung của phân môn Tập đọc Với mỗi tuần thực hiện 2 tiết tập đọc và thông qua 62 bài tập đọc thuộc các loại hình thức văn bản nghệ thuật, báo chí, khoa học, trong đó có 45 bài văn xuôi, 1 vở kịch và 17 bài thơ ( có 2 bài thơ ngắn được dạy trong cùng một tiết), phân môn Tập đọc lớp 4 tiếp tục củng cố, nâng cao kĩ năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành, phát triển từ các lớp dưới, đồng thời rèn một kĩ năng đọc mới là đọc diễn cảm, giúp học sinh nâng cao kĩ năng đọc – hiểu văn bản, cụ thể là: Nhận biết đề tài, cấu trúc của bài, biết phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản văn chương. Nội dung các bài tập đọc trong SGK Tiếng Việt 4 phản ánh một số vấn đề cơ bản về đạo đức, phẩm chất, sở thích, thú vui lành mạnh ...của con người thông qua ngôn ngữ văn học và những hình tượng giàu chất thẩm mĩ và nhân văn, do đó có tác dụng mở rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn về tự nhiên, xã hội và đời sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm nhân cách cho học sinh. b.2. Nắm bắt thực trạng * Trao đổi với phụ huynh học sinh Thông qua những phút giây trò chuyện trao đổi trong buổi họp phụ huynh học sinh vào đầu năm học, cuối kì học để thấy được sự cảm nhận của phụ huynh về kĩ năng đọc bài của con em mình ở nhà như thế nào, từ đó nắm bắt mức độ, khả năng đọc diễn cảm của các em. * Khảo sát chất lượng đầu năm Lớp 4A Sĩ số Đọc đúng Đọc lưu loát Đọc diễn cảm 2011 - 2012 33 25 = 75,8% 04 = 12,1 % 04 = 12,1 % Những số liệu thể hiện trong bảng thống kê cho thấy tỉ lệ học sinh đọc diễn cảm còn thấp. Vì vậy tôi đã tìm hiểu và rút ra một số nguyên nhân sau: + Về giáo viên: Giáo viên mới chỉ quan tâm nhiều đến việc đọc đúng và chưa thấy rõ tầm quan trọng của việc rèn đọc diễn cảm. Một số giáo viên chưa cảm nhận được ý tưởng, cảm xúc để hoà nhịp với tác giả giúp các em cảm thụ tác phẩm qua ngôn từ. Đưa ra còn ít những biện pháp hữu hiệu giúp các em khai thác hết giá trị nội dung nghệ thuật của bài đọc. + Về học sinh: Các em còn phát âm nhiều theo tiếng của địa phương. Khả năng cảm thụ văn, thơ của các em chỉ có thể ở mức độ nào đó hoặc là vốn hiểu biết về từ ngữ của các em còn có những hạn chế. Chưa hiểu rõ tác dụng của việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật trong thơ . b.3. Một số biện pháp hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm trong giờ Tập đọc. b.3.1. Công việc chuẩn bị đọc diễn cảm * Sự chuẩn bị của giáo viên: Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh hợp lí, dàn đều lực học ở các bàn để tạo không khí thi đua giữa các cá nhân với cá nhân, các bàn với nhau, các tổ với nhau. Nghiên cứu tài liệu, lựa chọn phương pháp, đồ dùng dạy học phù hợp với bài dạy Xác định đúng trọng tâm của bài, truyền tải kiến thức ngắn gọn, hấp dẫn. Luyện đọc diễn cảm với nội dung của từng bài trước khi thực hiện trên lớp. * Sự chuẩn bị của học sinh: Đọc trước bài ở nhà nắm bắt thể thức dấu câu và tìm hiểu nội dung bài qua việc đọc câu hỏi cuối mỗi bài. Tự xác định cách đọc dựa vào kiến thức vốn có của bản thân. b.3.2. Luyện đọc đúng, đọc rõ ràng, lưu loát và nắm được nội dung văn bản Trước khi học sinh biết đọc diễn cảm tốt các văn bản thì các em phải đọc đúng, rõ ràng, lưu loát các văn bản và hiểu được ý nghĩa của văn bản đó. Vì khi đọc đúng, các em sẽ phát âm chính xác từ ngữ trong văn bản đó, biết ngắt, nghỉ nhịp sau các dấu câu và giữa các cụm từ để giúp người nghe hiểu đúng nghĩa trong văn bản. Khi các em đã nắm được nội dung trong văn bản sẽ giúp các em xác định được giọng đọc phù hợp và biết nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm. Quan trọng hơn là khi nắm được nội dung văn bản các em sẽ thể hiện được cảm xúc của mình khi đọc. Đây là một trong yếu tố rất quan trọng để học sinh biết đọc diễn cảm. Để giúp các em luyện đọc đúng, rõ ràng, lưu loát, trôi chảy các văn bản, chủ yếu tôi thực hiện ở phần luyện đọc. Tôi gọi học sinh đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, diễn cảm văn bản trước, sau đó tôi yêu cầu các em giúp đỡ nhau đọc từ việc đọc chậm, phát âm sai từ ngữ đến đọc đúng, đọc rõ ràng, đọc trôi chảy văn bản. Giúp cho học sinh nắm được nội dung văn bản, chủ yếu tôi hướng dẫn học sinh trong phần tìm hiểu bài, dựa vào các câu hỏi gợi ý ở sách giáo khoa, sau đó tôi đưa thêm một số câu hỏi gợi mở để học sinh nắm vững và hiểu sâu hơn về nội dung văn bản đó. b.3.3. Các bước cần tiến hành khi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm là một yêu cầu đọc thành tiếng. Đó là khả năng làm chủ được ngữ điệu, tốc độ, chỗ ngừng giọng, cường độ, kết hợp với cử chỉ, điệu bộ, nét mặt phù hợp với từng văn bản để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm . Đọc diễn cảm không phải là việc làm chủ những đặc tính âm thanh riêng lẻ của giọng đọc mà là sự hoà đồng của các âm thanh tạo nên âm hưởng chung của bài đọc. Vì vậy, muốn dạy học sinh đọc diễn cảm trước hết phải làm cho các em hoà nhập với bài văn, bài thơ và có cảm xúc thì sẽ bật ra được ngữ điệu thích hợp. Để đọc diễn cảm tốt thì theo nhà văn Vũ Nho cho rằng: " Không hiểu tư tưởng chính của tác phẩm và mục đích chính của việc đọc nhằm thể hiện nó thì không thể đọc diễn cảm nổi, dù chỉ là một dòng". Chính nội dung bài đọc đã quy định ngữ điệu của nó nên không thể áp đặt giọng đọc của bài. Vì vậy, giáo viên không nên đặt ra ngữ điệu từ đầu. Ngược lại, xác định giọng đọc của bài phải là kết luận tự nhiên được học sinh đưa ra sau khi hiểu sâu sắc bài đọc và biết cách diễn đạt thích hợp dưới sự hướng dẫn của cô. Khi đọc diễn cảm không nhất thiết yêu cầu học sinh đọc cả bài mà có thể chỉ yêu cầu học sinh đọc diễn cảm câu, đoạn trong bài hoặc một vài khổ thơ,... Vì vậy tôi đã tiến hành hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm như sau: - Cho học sinh làm quen với toàn tác phẩm và tổ chức cho học sinh đàm thoại, nhận ra thể loại văn bản, hiểu ý đồ của tác giả, thảo luận với học sinh để xác định giọng đọc chung của cả bài. - Xác định nội dung giọng đọc chính của từng đoạn (mà trong phần đọc hiểu đã trình bày sẽ giúp học sinh xác định giọng đọc chung của cả bài: nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi, ngợi ca, mạnh mẽ, trầm lắng, buồn thương ..., nhịp điệu của bài: nhanh, hơi nhanh, hơi chậm, chậm ... - Hướng dẫn học sinh cách đọc theo ngữ điệu từng loại câu( cất cao giọng hoặc hạ giọng, theo câu kể, câu cảm, câu cầu khiến),nhấn giọng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm trong câu văn ( cao hay thấp) các tiếng gieo vần trong thơ. Tuỳ theo nội dung bài hoặc đoạn văn mà có giọng đọc phù hợp linh hoạt: buồn vui, trang nghiêm, đọc phân biệt lời người dẫn chuyện với lời nhân vật. Trong bài có nhiều nhân vật, căn cứ vào tính cách của từng nhân vật chuyển giọng đọc phù hợp tính cách nhân vật, diễn biến nội dung bài. - Tổ chức cho học sinh luyện giọng đọc từng câu, đoạn bài theo cá nhân hoặc nhóm - Gọi học sinh đọc diễn cảm kết hợp với những lời khen ngợi động viên, khuyến khích các em, theo dõi, đánh giá học sinh trong giờ học một cách toàn diện về kiến thức, kỹ năng, thái độ trong một giờ tập đọc mà học sinh cần đạt. Đặc biệt tôi đã nhấn mạnh vào mặt thành công của học sinh để khuyến khích tạo sự hưng phấn cho học sinh đọc tốt bài. b. 3.4. Một số biện pháp hướng dẫn cụ thể trong giờ Tập đọc. * Đối với thể loại văn bản kể chuyện. Thể loại kể chuyện thường có nhiều nhân vật, mỗi nhân vật có một tính cách khác nhau nên khi đọc thường nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm và đọc nhiều giọng đọc khác nhau như: - Giọng đọc hăm dọa, dữ dằn, hách dịch ( phù hợp với nhân vật hiện thân là cái ác) - Giọng đọc thong thả, chậm rãi, xúc động ( phù hợp với tâm trạng buồn cảm) - Giọng đọc rõ ràng, nhẹ nhàng, lễ phép, thản nhiên ( phù hợp với nhân vật hiện thân là cái thiện). - Giọng đọc dứt khoát, rành mạch, mạnh mẽ ( phù hợp với nhân vật hiện thân của các anh hùng dân tộc). - Giọng kể chậm rãi, rõ ràng ( phù hợp với người dẫn chuyện). - Giọng khoan thai, nhẹ nhàng, khiêm tốn và thể hiện thái độ tôn trọng lễ phép (phù hợp với nhân vật hiện thân của những người tri thức). - Giọng đọc phân trần, thật thà, ngạc nhiên, cương quyết (phù hợp với nhân vật hiện thân của những người nông dân nghèo khổ, chất phát). Ví dụ: Khi dạy bài Người ăn xin ( Tiếng Việt 4 Tập 1, trang 30 ) Toàn bài văn được đọc với giọng kể chuyện. Tôi định hướng giúp học sinh hiểu thế nào là đọc với giọng kể chuyện? ( Đọc với tốc độ vừa phải, ngắt nghỉ đúng dấu câu, tìm giọng đọc phù hợp với nội dung của từng đoạn bài: Đoạn kể và tả hình dáng của ông lão với giọng đọc chậm rãi, thương cảm. Đọc phân biệt lời nhân vật ông lão và cậu bé. Nhấn giọng từ ngữ gợi tả, gợi cảm). Tôi hướng dẫn cho học sinh đọc đoạn 2 trong bài và giúp các em nhận biết đoạn văn thể hiện tâm trạng của ông lão khi nhận được tình thương, sự cảm thông và tôn trọng của cậu bé qua hành động cố gắng tìm quà tặng, qua lời xin lỗi chân thành, qua cái nắm tay rất chặt và hướng dẫn học sinh đọc cá nhân với giọng đọc như sau: Tôi chẳng biết làm cách nào.// Tôi nắm chặt lấy bàn tay run rẩy kia:// - Ông đừng giận cháu,/ cháu không có gì để cho ông cả.// Nhìn ăn xin nhìn tôi chằm chằm/ bằng đôi mắt ướt đẫm.// Đôi môi tái nhợt nở nụ cười và tay ông cũng xiết lấy tay tôi:// - Cháu ơi,/ cảm ơn cháu!/ Như vậy là cháu đã cho lão rồi.// Sau mỗi lần một học sinh đọc, tôi cho cả lớp nhận xét về cách đọc, xác định đúng từ ngữ cần nhấn giọng, chỗ ngắt, nghỉ phù hợp nhất để cùng thống nhất giọng đọc. Tiếp tục cho các em thi đọc cá nhân thể hiện theo ánh mắt, hành động, giọng đọc ông lão ăn xin, giọng cậu bé để đánh giá khả năng đọc diễn cảm của học sinh. Hoặc khi dạy bài : Một người chính trực ( Tiếng Việt 4 - Tập 1, trang 36 ) Đây là một văn bản hội thoại, khi đọc với hai nhân vật diễn ra như là một màn kịch nói hội thoại có sử dụng nhiều dấu câu: dấu hai chấm, dấu chấm hỏi, dấu phẩy liên tiếp với tác dụng ngăn cách các bộ phận cùng chức vụ và dấu gạch ngang liên tiếp, tôi đã yêu cầu học sinh tự xác định cách đọc, chuyển đổi giọng đọc linh hoạt, đọc đúng ngữ điệu lên xuống.... để toát lên nội dung chính của bài và hướng dẫn học sinh thể hiện được tâm trạng khác nhau của từng nhân vật: Tô Hiến Thành đọc với giọng cương trực, thẳng thắn còn Thái hậu đọc với giọng ngạc nhiên. Sau khi hướng dẫn xong, đến phần luyện đọc, tôi yêu cầu học sinh đọc diễn cảm đoạn bài: Một hôm,/ Đỗ thái hậu và vua tới thăm ông, hỏi:// - Nếu chẳng may ông mất thì ai là người sẽ thay ông? Tô Hiến Thành không do dự,/ đáp: // - Có gián nghị đại phu Trần Trung Tá.// Thái hậu ngạc nhiên /nói:// Vũ Tán Đường hết lòng vì ông,/ sao không tiến cử?// Tô Hiến Thành tâu:// - Nếu Thái hậu hỏi người hậu hạ giỏi thì thần xin cử Vũ Tán Đường,/ còn hỏi người tài ba giúp nước, /thần xin cử Trần Trung Tá.// Sau khi học sinh đọc xong, tôi yêu cầu học sinh khác nhận xét về cách đọc của bạn ( ngắt nhịp, nghỉ nhịp, nhấn giọng). Tôi gọi một số học sinh thi đọc diễn cảm kết hợp giọng đọc với cử chỉ và đọc diễn cảm theo phân vai để khuyến khích nhiều học sinh thể hiện giọng đọc. Sau đó tôi chốt lại giọng đọc và tuyên dương học sinh. * Đối với thể loại văn viết thư. Ở thể loại văn bản này, các em thường đọc với giọng nhẹ nhàng, tình cảm, ân cần, bộc lộ tình yêu thương. Ngắt nghỉ hơi hợp lí sau dấu câu, giữa các cụm từ. Ví dụ: Khi dạy bài Thư thăm bạn (Tiếng Việt 4 - Tập 1, trang 25). Để luyện đọc diễn cảm cho học sinh, tôi yêu cầu từng cặp học sinh đọc sau đó gọi một vài học sinh thi đọc đoạn văn sau: Hòa Bình, ngày 5/ tháng 8/ năm 2000// ( giọng đọc rõ ràng, rành mạch) Bạn Hồng kính mến,// Mình là Quách Tuấn Lương, học sinh lớp 4B/ Trường Tiểu học Cù Chính Lan, thi xã Hòa Bình. Hôm nay, đọc báo Thiếu niên Tiền phong, mình rất xúc động được biết/ ba của Hồng đã hi sinh trong trận lũ lụt vừa rồi. Mình gửi bức thư này chia buồn với bạn . ( giọng đọc trầm buồn, chân thành, thấp giọng khi đọc câu văn nói về sự mất mát). Khi học sinh đọc xong, tôi yêu cầu học sinh trong lớp nhận xét về cách đọc bài của nhau. Sau đó tôi chốt giọng đọc và tổ chức cho nhiều học sinh thi đọc diễn cảm để tạo cơ hội cho các em không những nắm về giọng đọc mà còn vận dụng tốt vào tiết Tập làm văn viết thư. * Đối với bài có từ phiên âm nước ngoài. Ví dụ: Dạy bài Ga- vrốt ngoài chiến lũy ( Tiếng Việt 4, tập 2, trang 80 ) Khi đọc bài văn này, tôi yêu cầu học sinh chú ý đọc liền mạch các tiếng là từ phiên âm tiếng nước ngoài (Ga- vrốt, Ăng- giôn- ra, Cuốc - phây -rắc) và đọc đúng các câu hỏi, câu cảm, câu khiến trong bài( Cậu làm trò gì đấy?...Vào ngay!...).Giọng của Ăng- giôn- ra bình tĩnh. Giọng của Cuốc- phây- rắc lúc đầu ngạc nhiên, sau lo lắng. Giọng Ga-vrôt luôn bình thản, hồn nhiên, tinh nghịch. Nhấn giọng những từ ngữ miêu tả hình ảnh chú bé nhặt đạn cho nghĩa quân dưới làn mưa đạn: nằm xuống, đứng thẳng lên, ẩn vào, phốc ra, tới, lui, dốc cạn Sau đây là cách hướng dẫn học sinh về giọng đọc của đoạn 2: Ga - vrốt dốc bảy,/ tám bao đạn đầu tiên không có gì nguy hiểm lắm.// Em nằm xuống rồi lại đứng thẳng lên,/ ẩn vào một góc cửa,/ rồi lại phốc ra,/ tới,/ lui,/ dốc cạn các bao đạn và chất đầy giỏ.// Nghĩa quân mắt không rời cậu bé.// Đó không phải là một em nhỏ,/ không phải là một con người nữa,/ mà là một thiên thần.// Đạn bắn theo em, em nhanh hơn đạn.// Em chơi trò ú tim với cái chết một cách ghê rợn.// Khi hướng dẫn xong, tôi cho 4 học sinh ngồi quay lại cùng nhau luyện đọc theo nhóm khoảng 3 phút. Sau đó tôi gọi đại diện của các nhóm thi đọc diễn cảm trước lớp để lớp cùng nhận xét và bổ sung về giọng đọc cho nhau và chọn ra học sinh đọc hay, đọc diễn cảm tuyên dương, khuyến khích học sinh nhằm phát huy tính tích cực của các em trong giờ học. * Đối với giọng đọc diễn cảm theo thể thơ. Ngay từ bước chuẩn bị, tôi hướng dẫn học sinh phải xác định được đó là bài thơ ở thể thơ tự do hay thơ lục bát hoặc thơ 4 tiếng, thơ 5 tiếng cùng với diễn biến của nội dung. Hướng dẫn học sinh xác định phần trọng tâm khi đọc là phải căn cứ vào nhịp thơ, các loại dấu câu, cách dùng từ, nhấn mạnh các tiếng gieo vần trong thơ, ngắt nghỉ dứt khoát, rõ ràng, nhấn giọng những từ ngữ gợi tả, gợi cảm thể hiện nội dung qua cách đọc diễn cảm bài thơ. Ví dụ 1 : Dạy bài Tre Việt Nam ( Tiếng Việt 4 - tập 1, trang 41) Trước hết tôi cho học sinh xác định về thể thơ ( thể thơ lục bát) Tôi đọc mẫu, yêu cầu học sinh lắng nghe tìm và nêu giọng đọc trước lớp. Sau đó tôi cùng học sinh thống nhất về giọng đọc (Toàn bài thơ đọc nhẹ nhàng, cảm hứng ngợi ca). Đọc câu mở đầu Tre xanh, // Xanh tự bao giờ?: giọng chậm và sâu lắng, gợi suy nghĩ, liên tưởng. Nghỉ hơi dài sau dấu chấm lửng ở dòng thơ: Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh. Giọng đọc giữa bài thơ tôi hướng dẫn để học sinh cảm nhận được đây là phát hiện của tác giả về những phẩm chất cao đẹp của tre thì cần đọc với giọng ngợi ca sảng khoái, nhấn giọng theo cách ngân dài những từ ngữ khẳng định mang rõ sắc thái cảm xúc. Sau đây là cách hướng dẫn giọng đọc của một đoạn thơ: ... Yêu nhiều/ nắng nỏ trời xanh/ Tre xanh/ không đứng khuất mình bóng râm.// Bão bùng/ thân bọc lấy thân/ Tay ôm,/ tay níu tre gần nhau thêm.// Thương nhau/ tre chẳng ở riêng Lũy thành từ đó mà nên/ hỡi người.// Chẳng may thân gãy/ cành rơi Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng.// Hướng dẫn cách đọc xong, tôi cho học sinh luyện đọc theo nhóm hai hoặc nhóm bốn từ 2 đến 3 phút. Sau đó tôi gọi học sinh thi đọc diễn cảm trước lớp và yêu cầu cả lớp tập trung lắng nghe để nhận xét về cách ngắt nhịp, nhấn mạnh ở các từ ngữ đã đúng với phần hướng dẫn chưa. Cuối cùng tôi chốt lại cách đọc và nhận xét, đánh giá dựa vào kĩ năng đọc của học sinh để có biện pháp uốn nắn giọng đọc hay khích lệ, động viên học sinh kịp thời. Ví dụ 2: Dạy bài Đoàn thuyền đánh cá ( Tiếng Việt 4 - tập 2, trang 59 ) Tôi hướng dẫn để học sinh hiểu được nội dung, ý nghĩa của bài thơ là ca ngợi tinh thần sôi nổi, hào hứng của những người đánh cá. Tiếp theo tôi yêu cầu học sinh nêu lên giọng đọc của bài thơ này thể hiện như thế nào (giọng đọc cần nhịp nhàng, khẩn trương, nhấn giọng ở những từ ngữ ca ngợi cảnh đẹp huy hoàng của biển). Ở bài này tôi lựa chọn và chép sẵn đoạn thơ trong bảng phụ, đến phần luyện đọc tôi gắn bảng phụ lên bảng lớp và hướng dẫn học sinh biết giọng đọc nghỉ hơi tự nhiên, đúng nhịp như sau: Nhịp 4/3 với các dòng thơ: Mặt trời xuống biển/ như hòn lửa Sóng đã cài then, / đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi.// Nhịp 2/5 với các dòng 5, 10, 13 Hát rằng: // cá bạc Biển Đông lặng Gõ thuyền/ đã có nhịp trăng sao Sao mờ, / kéo lưới kịp trời sáng.// Để giúp học sinh có cách đọc đúng, đọc diễn cảm thì ngay trong phần luyện đọc tôi đã cùng với học sinh phân tích giúp các em cảm nhận về thể thơ ( 4/3 và 2/5). Tôi đọc mẫu giúp học sinh nghe tìm từ ngữ cần nhấn giọng phù hợp. Sau đó tôi cho cá nhân đọc rồi cất bảng phụ đi và yêu cầu học sinh luyện đọc theo nhóm đôi không nhất thiết là khổ thơ tôi vừa hướng dẫn mà cho các em có thể tự lựa chọn khổ thơ mình thích để luyện đọc. Khi học sinh luyện đọc nhóm xong, tôi tổ chức cho các em thi đọc trước lớp và yêu cầu bình chọn bạn đọc hay. Tìm ra người đọc hay và diễn cảm, tôi cho em học sinh đó đọc lại rồi hỏi xem có em nào đọc được hay như bạn nữa hay không, nhằm giúp học sinh tự giác, tập trung chú ý, hứng thú, sôi nổi thi đua trong giờ học. Ví dụ 3: Khi dạy bài Bè xuôi sông La ( Tiếng Việt 4 - tập 2, trang 26 ) Trước khi hướng dẫn học sinh đọc bài thơ này thì tôi cho các em quan sát và tìm hiểu nội dung bức tranh sách giáo khoa ( phóng to) và đọc lướt hai đến ba lần bài thơ để giúp học sinh bộc lộ cảm xúc, cảm nhận được ý nghĩa của bài (ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông La và nói lên tài năng, sức mạnh của con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng quê hương đất nước, bất chấp bom đạn kẻ thù). Từ đó tôi yêu cầu học sinh tìm và nêu giọng đọc toàn bài ( đọc giọng trìu mến, nhấn giọng những từ ngữ gợi tả làm toát lên nội dung chính của bài thơ). Sau đó tôi tiến hành hướng dẫn học sinh luyện đọc đoạn thơ: Sông La ơi/ sông La/ Ta nằm nghe,/ nằm nghe/ Trong veo/ như ánh mắt / Giữa bốn bề ngây ngất Bờ tre xanh im mát/ Mùi vôi xây/ rất say Mươn mướt/ đôi hàng mi.// Mùi lán cưa ngọt mát Bè đi chiều thầm thì/ Trong đạn bom/ đổ nát/ Gỗ lượn đàn thong thả// Bừng tươi/ nụ ngói hồng/ Như bầy trâu lim dim // Đồng vàng hoe/ lúa trổ/ Đằm mình/ trong êm ả/ Khói nở xòa như bông.// Sóng long lanh/ vẩy cá/ Chim hót/
Tài liệu đính kèm: