Một phần quan trọng không kém nữa trong việc hướng dẫn trẻ khám phá khoa học đó là các hình thức tổ chức và biện pháp hổ trợ.
* Hình thức tổ chức:
Không những tôi hướng dẫn trẻ khám phá khoa học qua các đề tài trên tiết học mà tôi còn hướng dẫn trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Chẳng hạn: Khi cho trẻ đi dạo tham quan trên đường đi kết hợp cho trẻ quan sát phương tiện giao thông, nhận xét xem các phương tiện đó di chuyển như thế nào? Người đi bộ đi ở đâu? Khi qua đường phải làm sao?. hay có thể là khi xử lý tình huống.
Ví dụ: khi tìm hiểu về các loại hạt, tôi dặn mỗi cháu mang một loại hạt lên lớp để làm thí nghiệm về sự phát triển của cây, có trẻ mang hạt đậu xanh, có trẻ mang hạt đậu nành, đậu đen nhưng có 1 trẻ mang hạt me. Khi ủ đất và tưới nước sau một thời gian tất cả các hạt của trẻ khác đều nảy mầm riêng trẻ gieo hạt me không nảy mầm. Vì hạt me muốn nảy mầm phải được ủ trong môi trường đất ấm và độ ẩm cao đòi hỏi thời gian lâu. Trẻ đó rất buồn và hỏi tôi vì sao lại thế nhỉ? Đây là một tình huống khó xử cho tôi, với kiến thức còn hạn chế của mình tôi đã không có lời giải đáp rõ ràng, điều này làm tối trăn trở và cố gắng hết sức tìm ra lời giải đáp cho trẻ. Và thật là may mắn với thời đại công nghệ hiện nay tôi đã tìm ra được lời giải đáp cho trẻ bằng cách tìm ra những đĩa hình sống động nói về sự phát triển của cây me cho trẻ xem. Trẻ rất vui vì đựoc thoả mãn sự tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh, còn tôi cũng rất thoải mái và hạnh phúc vì đã giúp ích được cho trẻ. Đó là một trong những biện pháp đã giúp ích cho tôi rất nhiều trong quá trình giảng dạy. Điều đó cho ta thấy được rằng các biện pháp hổ trợ vô cùng quan trọng và có ích trong việc dạy trẻ. Sau đây tôi cũng xin trình bày một vài biện pháp mà tôi đã vận dụng trong quá trình giảng dạy trẻ, giúp trẻ hứng thú hơn và học tốt và môn học khám phá khoa học.
rong một hình thức tổ chức. Điều này làm cho các hoạt động khám phá trở nên nặng nề, quá tải, trẻ không được tham gia những trải nghiệm phù hợp với khả năng, vì vậy không có cơ hội phát triển ở trẻ các kỹ năng nhận thức, khám phá. Quy trình khám phá mỗi nội dung thường chỉ bắt đầu bằng câu hỏi của cô và câu trả lời của trẻ, hoặc chính cô lại là người nói, trẻ chỉ nghe một cách thụ động. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, mỗi nội dung của khám phá khoa học được tiến hành khám phá như thế nào? Thì nội dung nghiên cứu trong đề tài này sẽ là minh chứng cho những biện pháp khắc phục nhược điểm của việc giúp trẻ khám phá khoa học. Trong quá trình làm việc chăm sóc giáo dục trẻ tại lớp và nhìn chung vào thực tế khi làm việc bản thân tôi cũng thấy được một số thuận lợi và khó khăn nhất định: 2.1. Thuận lợi và khó khăn * Thuận lợi - Được sự quan tâm của Phòng GD&ĐT, sự chỉ đạo kịp thời của nhà trường, thường xuyên quan tâm bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. - Nhà trường luôn nâng cao chất lượng cơ sở vật chất lên hàng đầu vì đây là một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của nhà trường đạt hiệu quả cao. - Trường có đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi, tivi, máy tính phục vụ giảng dạy. - Nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên được tập huấn chuyên môn - Ban giám hiệu luôn sát sao chỉ đạo giáo viên về chuyên môn, thường xuyên dự giờ thăm lớp để nâng cao chất lượng giảng dạy. - Các chương trình truyền thông, internet vô cùng phong phú tạo diều kiện cho giáo viên tìm tòi sưu tầm - Bản thân luôn yêu nghề mến trẻ, ham học hỏi nâng cao chuyên môn. Tìm tòi và tự làm một số đồ dùng, đồ chơi để phục vụ tiết dạy vào hoạt động vui chơi của trẻ. - Trẻ chăm ngoan, có nề nếp và hứng thú, ham học hỏi - Đồng nghiệp trong trường luôn chia sẻ lẫn nhau về cách thức chăm sóc giáo dục trẻ - Trường tạo môi trường cho trẻ được hòa mình với thiên nhiên thông qua các trò chơi * Khó Khăn: - Lớp có một số trẻ cá biệt trong việc cho trẻ quan sát, tìm hiểu các đối tượng ( chưa tập trung chú ý). - Một số phụ huynh chỉ coi trọng đến các môn làm quen chữ cái và chữ viết, làm quen với toán không chú trọng đến môn học này. - Đồ dùng chỉ có tranh nên việc quan sát, khám phá chưa phát huy hết các giác quan của trẻ. - Kinh phí mua vật thật cho trẻ hoạt động chưa có. Tuy có những thuận lợi và khó khăn nhất định nhưng bản thân tôi đã xác định môn học khám phá khoa học cũng có tầm quan trọng như những môn học khác đặc biệt là trẻ 3-5 tuổi, đòi hỏi trẻ phải thật sự tư duy, có trí nhớ, có một số vốn ngôn ngữ giao tiếp tốt và bộ máy phát âm phải phát triển hoàn thiện. Sau khi nghiên cứu đề tài này, tôi bắt đầu tự lên kế hoạch, tìm hiểu tài liệu cộng với vốn kinh nghiệm nhiều năm dạy lớp 5 tuổi. Từ đó tôi đã tìm ra và áp dụng cho mình một số biện pháp hổ trợ cho trẻ khám phá khoa học nên hầu hết các tiết dạy của tôi đều thành công và đặc biệt là trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào hoạt động này. Trong quá trình áp dụng bản thân tôi đã gặt hái được một số thành công sau: 2.2. Thành công và hạn Chế * Thành công: - Giờ học lôi cuốn trẻ, tạo được hứng thú và gây được sự tập trung chú ý cao nhất ở trẻ. - Nội dung truyền đạt hấp dẫn và phong phú sinh động hơn, những hình ảnh tưởng chừng như rất trừu tượng trẻ chưa được nhìn thấy bao giờ nay trở nên gần gũi và giúp trẻ khắc sâu ghi nhớ. - Trẻ tích cực hứng thú tham gia học tập, hăng say phát huy tính tích cực chủ động tham gia vào các hoạt động. * Hạn Chế: - Một số đề tài còn khó có thể thực hiện được: cho trẻ đi thực tế tìm hiểu về nghề truyền thống hoặc đi tham quan sở thú tìm hiểu về các con vật thật - Mất nhiều thời gian để chuẩn bị - Vốn hiểu biết về môi trường thiên nhiên cũng như xã hội của trẻ còn hạn chế. 2.3. Mặt mạnh - mặt yếu * Mặt Mạnh: - Khám phá khoa học trong giáo dục mầm non tạo ra một môi trường dạy học tương tác cao, sống động, hứng thú và đạt hiệu quả cao của quá trình dạy học đa giác quan cho trẻ. - Nội dung, tư liệu bài giảng giới thiệu cho trẻ mang tính chân thực, phong phú. Qua khám phá khoa học trẻ có thể làm quen với những hiện tượng tự nhiên, hiện tượng xã hội xảy ra xung quanh trẻ. *Mặt yếu: - Để có thể cho trẻ được trải nghiệm các hoạt động với môi trường thiên nhiên, hay môi trường xã hội thì không phải trường nào cũng có điều kiện để thực hiện được vì mỗi trường có những điều kiện về mặt bằng, cơ sở vật chất khác nhau. - Từ những thực trạng nêu trên, bên cạnh những thành công và hạn chế, những mặt mạnh và mặt yếu mà bộ môn khám phá khoa học mang lại thì lòng yêu trẻ, yêu nghề luôn thôi thúc tôi hãy làm một điều gì đó để góp phần nhỏ bé của mình vào công việc “trồng người” của đất nước. 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: - Tạo được sự thu hút, sự ham thích học hỏi, kích thích trẻ tìm tòi, khám phá, trải nghiệm trong học tập, vui chơi, và trong cuộc sống. - Thu hút và tạo được sự quan tâm trong quá trình học tập, vui chơi của phụ huynh đối với trẻ. 2.5. Phân tích đánh giá các vấn đề thực trạng mà đề tài đã đặt ra: - Đối với trẻ mầm non, kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Thông qua các trò chơi, đòi hỏi trẻ phải sử dụng tích cực các giác quan chính vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả năng phân tích so sánh, tổng hợp nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ nhanh nhạy, chính xác, những biểu tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, khi trẻ được trải nghiệm hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ Muốn trẻ học tốt môn khám phá khoa học trước hết giáo viên luôn xác định: Mỗi trẻ là một thành viên cần được chăm sóc, bồi dưỡng và lượng kiến thức mỗi trẻ cần đuợc giáo viên truyền đạt khác nhau và luôn yêu nghề, yêu trẻ, có yêu trẻ thì mới thôi thúc sáng tạo và dồn hết tâm lực để đầu tư vào làm việc và tu bổ chuyên môn sao cho nghiệp vụ vững vàng. Lựa chọn những phương pháp, biện pháp tối ưu nhất để vận dụng vào tiết học giúp trẻ hiểu được sâu hơn, học hứng thú hơn. Qua quá trình cho trẻ được trải nghiệm khám phá khoa học tôi nhận thấy rằng: Việc lựa chọn và tổ chức các trò chơi thực nghiệm cho trẻ mẫu giáo khám phá khoa học là rất cần thiết bởi các lý do sau: - Các trò chơi được thiết kế rất dễ thực hiện, việc chuẩn bị dụng cụ đơn giản, ít tốn kém, đảm bảo vệ sinh an toàn cho trẻ. - Các trò chơi này có tính mở, hấp dẫn, kích thích được sự tìm tòi khám phá của trẻ, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, các thao tác tư duy như: so sánh, phân tích - tổng hợp, óc phán doán và khả năng suy luận của trẻ cũng được phát triển. Qua các hoạt động này trẻ được trải nghiệm và tự phát hiện ra các đặc điểm, mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng xung quanh, tiếp thu các kiến thức khoa học dễ dàng hơn. - Chính vì vậy mà giáo viên luôn xác định lấy trẻ làm trung tâm, làm kim chỉ nam trong công tác của mình, luôn luôn cố gắng tìm tòi, nghiên cứu để tạo ra nhiều bài thực tập hay để phục vụ tốt cho công tác phục vụ chăm sóc giáo dục trẻ. 3. Giải pháp, biện pháp: 3.1. Mục tiêu của giải pháp và biện pháp - Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, giúp trẻ lĩnh hội tri thức một cách trọn vẹn nhất. - Nhằm cung cấp kiến thức một cách chính xác giúp trẻ hứng thú trong học tập đồng thời phát triển toàn diện về thể chất cũng như trí tuệ cho trẻ. - Nhằm góp phần tạo nên những chủ nhân tương lai của đất nước có đầy đủ phẩm chất, nhân cách, tri thức con người mới xã hội chủ nghĩa. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: Hiểu và nắm bắt được những giá trị mà bộ môn khám phá khoa học mang lại, tôi đã mạnh dạn đưa một số kiến thức, áp dụng một số biện pháp, phương pháp, trò chơi giúp trẻ khám phá khoa học vào việc tổ chức các hoạt động khám phá khoa học cho trẻ từ 3 - 5 tuổi tại trường Mầm Non Sơn Ca Sau đây là một số biện pháp, phương pháp, trò chơi giúp trẻ khám phá khoa học mà tôi đã sử dụng trong quá trình công tác và giảng dạy của mình trong những năm học vừa qua: * Biện pháp thực hiện: Sau khi xác định được mục đích và yêu cầu cần đạt tôi đã tiến hành giải quyết các nhiệm vụ từng bước như sau: 1. Làm sao để tạo được môi trường tốt cho trẻ hoạt động? Như chúng ta đã biết muốn trẻ học tốt một vấn đề nào đó thì trước hết cần phải có môi trường cho trẻ hoạt động, khám phá, tìm tòi và trải nghiệm. Môi trường cho trẻ hoạt động là nơi có các nguồn thông tin phong phú, khuyến khích tính độc lập và hoạt động tích cực cho trẻ. Vì thế tôi đã tạo môi trường cho trẻ bằng cách: Sắp xếp các giá kệ đồ chơi gọn gàng, an toàn, hợp lý như các góc chơi tĩnh đi với nhau, các góc chơi động đi với nhau. Đảm bảo đủ khoảng cách cho trẻ hoạt động. Đặt tên các góc đơn giản và dễ nhớ như góc bán hàng đặt tên là “Siêu thị mini” hay như góc gia đình lấy tên là “Tổ ấm” Bên cạnh đó ở các góc chơi tôi sắp xếp đồ dùng đồ chơi vừa tầm với trẻ cho trẻ dễ thấy, dễ lấy và dễ lựa chọn. Tôi đã vận dụng các nguyên vật liệu rẻ tiền, có sẵn, gần gũi với trẻ hay các đồ phế thải để làm đồ chơi cho trẻ như: Hộp sữa cắt ra làm thuyền, các lon nước ngọt, lon bia làm nhạc cụ âm nhạc, vải vụn làm thảm cỏ, thùng cát tông làm ngôi nhà, hàng rào và để trẻ được trải nghiệm với những đồ chơi đó giúp trẻ thoả mãn được nhu cầu thích khám phá, tìm tòi. Đồng thời tôi trang trí các góc một cách linh hoạt, hấp dẫn và thay đổi theo nội dung chủ điểm. Với góc thiên nhiên vì cây cối phát triển cần có ánh sáng và nước, do điều kiện lớp học không cho phép tôi đã tận dụng khung cửa sổ để làm góc thiên nhiên bằng cách lựa chọn những loại cây dễ trồng, dễ sống trong nhà như: cây trầu bà, sống đời, phát tài bỏ vào trong những lon nước ngọt, nước khoáng đã qua sử dụng và treo lên cửa sổ. Dạy trẻ hàng ngày tưới nước cho cây, chăm sóc cây và quan sát cây phát triển như thế nào? 2. Hướng dẫn trẻ khám phá khoa học. Khả năng nhận thức của trẻ phát triển thông qua việc tiếp xúc tìm hiểu, khám phá quan tâm đến môi trường xung quanh. Điều đó tạo nên sự tò mò, ham hiểu biết tự nhiên của trẻ. Thông qua những câu hỏi về môi trường xung quanh trẻ lĩnh hội được những kỹ năng tư duy, quan sát, so sánh, phân loại, dự đoán Từ đó hình thành các khái niệm và biết cách giải quyết vấn đề. Với nhiệm vụ này đòi hỏi giáo viên phải hiểu được nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, biết được trẻ khám phá môi trường xung quanh bằng cách nào? Bằng kinh nghiệm sống, bằng các giác quan, bằng sự tư duy độc lập của mình hay bằng sự khai thác gợi mở của giáo viên. Và đặc biệt giáo viên phải nắm được phương pháp bộ môn như: Phương pháp quan sát, đàm thoại, luyên tập trò chơi và làm thí nghiệm hay mô hình. Trước khi cho trẻ tìm hiểu một sự vật hiện tượng nào đó tôi xác định - Nội dung đề tài là gì? - Mục đích yêu cầu của đề tài. - Với đề tài này cần phải chuẩn bị những gì? - Sử dụng phương pháp, biện pháp nào phù hợp để tiến hành. Chẳng hạn với đề tài “Một số loại quả” để chuẩn bị tốt cho tiết học này, trước đó và mỗi lần ăn tráng miệng sau mỗi bữa ăn tôi cho trẻ quan sát loại quả đó, cho trẻ cầm nắm, tìm hiểu về màu sắc, hình dáng, dặn trẻ chú ý khi bổ ra bên trong có gì? Ăn vào thấy có mùi vị như thế nào?... Sưu tầm những hình ảnh về các loại quả có trong sách báo, tranh ảnh, tạp chí Để vào tiết học tôi có thể khai thác ở trẻ những kinh nghiệm sống nhiều hơn giúp trẻ hoạt động tích cực hơn. Trước khi cho trẻ tìm hiểu về một sự vật nào đó tôi luôn cho trẻ quan sát, khảo sát, tìm hiểu kỹ sự vật đó. Ví dụ: Quan sát lòng trắng trứng lúc chưa chín và khi đã chín để trẻ có thể thấy được sự đổi màu của chúng. Tiếp đến đặt ra những câu hỏi để giúp trẻ nắm vững và có khái niệm về chúng một cách chính xác, rõ ràng. Chẳng hạn với đề tài “Một số loại quả” thường thì các cháu được ăn thường xuyên các loại quả. Đầu tiên tôi cho trẻ chơi trò chơi “Chiếc túi kỳ lạ” trẻ được khảo sát nhận biết sự vật qua các giác quan và bằng kinh nghiệm sống của mình. Tiếp đến để giúp trẻ phát triển tư duy, ngôn ngữ tôi đặt ra những câu hỏi kích thích tư duy, kinh nghiệm sống của trẻ: Con ăn thấy có vị gì? Quả có hình dáng như thế nào? Vỏ nhẵn hay sần sùi? Chúng giống và khác nhau ở những điểm nào? Con hãy chia các loại quả này thành 2 nhóm theo đặc điểm riêng của chúng về hình dáng, màu sắc, mùi vị Để củng cố lại những kiến thức đã học tôi cho trẻ chơi các trò chơi vận động sôi nổi, hoặc những trò chơi mang tính tập thể cao tập cho trẻ biết cách làm việc theo nhóm hay cho trẻ làm thí nghiệm đối với các đề tài như: - “Sự phát triển của cây từ hạt” tôi cho trẻ làm thí nghiệm bằng cách gieo hạt đậu xanh vào đất hoặc bông gòn tẩm nước hàng ngày cho trẻ tưới nước và quan sát hạt nảy mầm như thế nào? - “Cây xanh và môi trường sống” cho trẻ làm thí nghiệm để biết được ánh sáng đối với cây xanh quan trọng như thế nào. Bằng cách cho trẻ quan sát 2 cây giống nhau, 1 cây được để ngoài trời có ánh sáng và nước đầy đủ còn 1 cây chỉ được tưới nước nhưng không có ánh sáng từ đó đặt câu hỏi để trẻ rút ra kết luận. 3. Một phần quan trọng không kém nữa trong việc hướng dẫn trẻ khám phá khoa học đó là các hình thức tổ chức và biện pháp hổ trợ. * Hình thức tổ chức: Không những tôi hướng dẫn trẻ khám phá khoa học qua các đề tài trên tiết học mà tôi còn hướng dẫn trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Chẳng hạn: Khi cho trẻ đi dạo tham quan trên đường đi kết hợp cho trẻ quan sát phương tiện giao thông, nhận xét xem các phương tiện đó di chuyển như thế nào? Người đi bộ đi ở đâu? Khi qua đường phải làm sao?... hay có thể là khi xử lý tình huống. Ví dụ: khi tìm hiểu về các loại hạt, tôi dặn mỗi cháu mang một loại hạt lên lớp để làm thí nghiệm về sự phát triển của cây, có trẻ mang hạt đậu xanh, có trẻ mang hạt đậu nành, đậu đen nhưng có 1 trẻ mang hạt me. Khi ủ đất và tưới nước sau một thời gian tất cả các hạt của trẻ khác đều nảy mầm riêng trẻ gieo hạt me không nảy mầm. Vì hạt me muốn nảy mầm phải được ủ trong môi trường đất ấm và độ ẩm cao đòi hỏi thời gian lâu. Trẻ đó rất buồn và hỏi tôi vì sao lại thế nhỉ? Đây là một tình huống khó xử cho tôi, với kiến thức còn hạn chế của mình tôi đã không có lời giải đáp rõ ràng, điều này làm tối trăn trở và cố gắng hết sức tìm ra lời giải đáp cho trẻ. Và thật là may mắn với thời đại công nghệ hiện nay tôi đã tìm ra được lời giải đáp cho trẻ bằng cách tìm ra những đĩa hình sống động nói về sự phát triển của cây me cho trẻ xem. Trẻ rất vui vì đựoc thoả mãn sự tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh, còn tôi cũng rất thoải mái và hạnh phúc vì đã giúp ích được cho trẻ. Đó là một trong những biện pháp đã giúp ích cho tôi rất nhiều trong quá trình giảng dạy. Điều đó cho ta thấy được rằng các biện pháp hổ trợ vô cùng quan trọng và có ích trong việc dạy trẻ. Sau đây tôi cũng xin trình bày một vài biện pháp mà tôi đã vận dụng trong quá trình giảng dạy trẻ, giúp trẻ hứng thú hơn và học tốt và môn học khám phá khoa học. * Biện pháp hổ trợ: - Biện pháp sử dụng vật thật: Đối với trẻ mẫu giáo tư duy của trẻ là tư duy hình tượng không thể dạy trẻ về một sự vật, một con vật hay đồ vậy nào đó khi chỉ nói suông mà không đưa ra một hình ảnh nào để trẻ trực quan thì không thể được. Nhưng nếu chỉ sử dụng tranh đơn thuần cho các tiết học thì cũng không mang lại kết quả cao. Vì thế đối với trẻ phải sử dụng vật thật cho trẻ quan sát. Ví dụ: Với đề tài “Một số động vật sống dưới nước” tôi sử dụng con cá thật để trẻ có thể quan sát được rõ ràng chính xác con cá bơi như thế nào? Bơi được nhờ cái gì? Môi trường sống của nó là ở đâu?... Với con cua trẻ quan sát được cấu tạo đặc trưng là có 8 chân, 2 cái càng, biết được đặc tính nổi bật của con cua là bò ngang - Biện pháp sử dụng câu đố: Câu đố chiếm một vai trò quan trọng trong công tác phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Sử dụng câu đố trong giờ học không chỉ nhằm củng cố kiến thức trẻ về sự vật hiện tượng của thế giới xung quanh, phát triển ngôn từ mà còn giúp trẻ hiểu được ngôn ngữ, hình ảnh của đồ vật. Mỗi câu đố là một bức tranh sinh động về thế giới xung quanh. Để có thể giải đáp được câu đố trẻ cần phải nắm được đặc điểm của đối tượng, biết so sánh, đối chiếu. Nhìn thấy được cái chung giữa hai đối tượng được nói đến và biết vận dụng kinh nghiệm sống của mình. Tôi thường sử dụng câu đố vào đầu tiết học nhằm kích thích trẻ sự hứng thú tìm tòi, học hỏi cái mới và sử dụng câu đố vào cuối giờ học nhằm củng cố kiến thức vừa học. Chẳng hạn để dẫn dắt trẻ tìm hiểu quả dưa hấu tôi đọc câu đố: “Quả gì ruột đỏ vỏ xanh. Hạt đen nhanh nhánh, ăn vào rất ngon?” Hay với quả na: “Quả gì nhiều mắt Khi chín nứt ra Ruột trắng nõn nà Hạt đen lay láy?” Với con gà trống: “Con gì mào đỏ Gáy ò ó o Mỗi sáng tinh mơ Gọi người thức dậy?” - Biện pháp làm thí nghiệm, mô hình. Đây là một trong những biện pháp mà giúp trẻ hứng thú học sinh động nhất. Với biện pháp này trẻ được trải nghiệm, thực hành làm và quan sát, theo dõi sau đó tự rút ra kết luận. Với đề tài “Mưa” tôi cho trẻ làm thí nghiệm bằng cách tôi cho nước sôi vào lọ thuỷ tinh sau đó dùng tấm kính đậy lại. Trẻ sẽ được quan sát sự bốc hơi của nước lên mặt kính, đọng thành giọt và tạo ra mưa. Trẻ hiểu được và biết được vì sao có mưa? Một cách giải thích mà lời nói hay tranh ảnh không đáp ứng được. - Biện pháp sử dụng công nghệ thông tin: Một biện pháp đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp trẻ khám phá khoa học, đã giúp tôi rất nhiều trong quá trình hướng dẫn trẻ giúp trẻ hứng thú tập trung chú ý trong giờ học khơi gợi khả năng tư duy lôgic cho trẻ, giải quyết được nhiều tình huống khó cho giáo viên. Ví dụ với những đề tài giải thích sự vật hiện tượng thiên nhiên như gió, mây và mưa. Với đề tài “Gió” để giúp trẻ cảm nhận và thấy đựơc một cách sống động, rõ ràng, chính xác tôi lựa chọn những hình ảnh về gió: Gió nhẹ cây lá lao xao, gió mạnh, gió bão Cho trẻ xem và nghe tiếng gió thổi. Qua đó trẻ có thể cảm nhận và biết được gió có ích như thế nào đối với môi trường, gió nhẹ thì cây cối chuyển động như thế nào? Gió mạnh thì sự vật chuyển động ra sao? Tác hại của gió Từ những hình thức, phương pháp, biện pháp trên tôi đã xây dưng một tiết học đạt kết quả cao được tiến hành cụ thể như sau: Đề tài: Mưa *Hoạt động 1: Bé biết gì về mưa Cô cũng trẻ vận động đọc thơ về mưa “Ông trời bỗng hắt xì hơi Lộp đa lộp độp mưa rơi đầu mùa Xoè tay bé hứng giọt mưa Mát từ da thịt mát đưa vào lòng” Trò chuyện với trẻ về mưa: Con biết gì về trời mưa, kể cho cô và các bạn cùng nghe Khi trời mưa có hiện tượng gì xảy ra? (Mây đen, gió, sấm chớp, mưa có nước) Cô cùng trẻ tiếp tực trò chuyện về mưa qua hình ảnh trên tivi (Sấm, chớp, mưa, quang cảnh trước và sau khi mưa, âm thanh) * Hoạt động 2: Bé tìm hiểu về mưa. - Tranh các loại mưa phùn, mưa rào, mưa đá, mưa bão - Đặc điểm các loại mưa giống và khác nhau ở điểm nào? - Ngôi trong nhà nghe tiếng mưa rơi như thế nào? - Trước khi mưa có sét, sấm chớp. Vậy làm thế nào để tránh sét đánh được? - Khi sấm sét xảy ra mọi vật xung quanh như thế nào? - Khi mưa xuống nhìn ra sân thấy có hiện tượng gì xảy ra? - Có nên chơi ngoài mưa không? Vì sao? - Mưa có ích lợi gì đối với đời sống con người? * Hoạt động 3: Thí nghiệm “Mưa từ đâu có” Đổ nước sôi vào bình thuỷ tinh đậy nắp kính sẽ thấy hiện tượng gì xảy ra? Vì sao? Cô cùng trẻ thảo luận rút ra kết luận nguyên nhân và hiện tượng mưa. Hát bài “Cho tôi đi làm mưa với” * Hoạt động 4: Thử trí thông minh của bé - Trò chơi 1: “Sắp xếp thứ tự hiện tượng mưa qua ảnh” mời 2 đội chơi thi đua, sau lần chơi cô cũng trẻ kiểm tra. - Trò chơi 2: “Lắp ghép hình ảnh” về hiện tượng quá trình mưa cho 4 đội chơi Kết thúc: Mô phỏng quá trình mưa Song song với việc cho trẻ làm quen môi trường xung quanh chúng ta lồng vào giáo dục trẻ biết bảo vệ môi trường sống của chính mình qua các việc làm đơn giản phù hợp với trẻ. Tôi
Tài liệu đính kèm: