SKKN Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

SKKN Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi

Giúp học sinh tích cực khi học Luyện từ và câu

Như chúng đã biết, hứng thú là tiền đề của sự tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Nếu giáo viên khơi gợi được sự hứng thú và tự giác của học sinh thì các em sẽ phát huy được tính tích cực một cách triệt để nhất. Trong giải pháp này, tôi đưa ra 2 biện pháp:

 3.1. Biện pháp điều chỉnh các hoạt động để học sinh tích cực học tập

Các hoạt động tìm từ trong tài liệu hướng dẫn, yêu cầu đưa ra thường là các nhóm tìm các từ ngữ và viết vào bảng nhóm, nhưng trong quá trình quan sát các em hoạt động. Qua nhiều tiết học tôi thấy người làm việc chính là các nhóm trưởng, các em rất tích cực khi tìm từ nhưng bên cạnh đó một số thành viên trong nhóm lại ỷ lại không hoạt động. Vì thế tôi đã điều chỉnh các hoạt động này thành hình thức thi trước lớp,để tất cả học sinh cùng cố gắng, từ đó phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo trong mỗi học sinh.

 

docx 20 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 4895Lượt tải 6 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho học sinh lớp Hai Trường TH Nguyễn Văn Trỗi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng cường vốn từ cho học sinh qua các dạng bài tập.
- Giải pháp: Giúp học sinh tích cực khi học Luyện từ và câu.
- Giải pháp: Tìm từ qua các câu đố theo chủ điểm.
Tăng cường vốn từ cho học sinhqua các dạng bài tập
Trong chương trình học Luyện từ và câu lớp 2, các dạng bài tập chủ yếu là tìm từ, đối đáp và đặt câu theo mẫu. Tuy nhiên các dạng bài tập này trong tài liệu hướng dẫn thường rập khuôn, máy mócvà được biên soạn trong phạm vi mọi đối tượng học sinh đều có khả năng làm được. Nên học sinh khó có thể mở rộng vốn từ cho mình. Vì vậy, tôi đã dựa vào các dạng bài tậpđể phân hóa thêm nhiều hoạt động, với mong muốn học sinh sẽ tích lũy được một nguồn vốn từ phong phú. Trong giải pháp này, tôi xây dựng ba biện pháp:
1.1. Hướng dẫn cho học sinh sử dụng các mẹo để tránh lẫn lộn giữa vần s/x, r/d/gi khi tìm từ
Trong quá trình tìm từ, đặt câu, đối với học sinh lớp 2 việc phân biệt giữa các phụ âm đầu như s/x , r/d/gikhông phải là việc đơn giản, mặt khác do giọng nói đặc trưng của từng vùng miền nên ngôn ngữ nói của các em sẽ mang tính địa phương và sẽ mang luôn cả đặc trưng đó vào ngôn ngữ viết. Dẫn đến các từ, các câu các em tìm được hầu hết là bị sai.
Ví dụ: Học sinh làm hoạt động [5. Tr 85] bài 6C tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2 tập 2A. Yêu cầu của hoạt động là: Tìm từ có tiếng bắt đầu bằng s/x. Nhưng qua quan sát bài làm, tôi thấy học sinh còn nhầm lẫn s/xrất nhiều.
Hình 1: Bài làm của học sinh còn nhầm lẫn giữa s/x
Để khắc phục những lỗi mắc phải đó tôi đã hướng dẫn học sinh qua các bước
- Bước 1: Sửa sai bài làm cho học sinh
- Bước 2:. Tôi yêu cầu các em tiếp tục tìm từ có tiếng bắt đầu bằng s/xtheo nhóm. Tiếp theo tôi nhận xét bài làm của các nhóm và đưa các từ đúng lên bảng chính và cùng học sinh tìm thêm nhiều từ có chứa tiếng bắt đầu bằng s/x.
	- Bước 3: Dẫn dắt và chỉ ra cho học sinh các mẹo để kết hợp với âm s/x:
+ Mẹo kết hợp âm đệm:S không đi với các vần oa, oe, uê, oăn chỉ có x là đi với các vần này.
 Ví dụ: Xoa tay, xoay xở, cây xoan, xoắn lại, tóc xoăn, xòa tay, xoen xoét, xuề xòa, xuyên quaNhưng vẫn có một số trường hợp ngoại lệ tôi đã lưu ý cho học sinh như rà soát, kiểm soát, soạn bài và những trường hợp điệp âm đầu trong từ láy: suýt soát, sờ soạng, sột soạt
+Mẹo láy âm:S không láy âm với các âm đầu khác, chỉ có x mới có khả năng này. Ví dụ như: Lì xì, xích mích, lộn xộn, loăn xoăn, bờm xờm
+ Tên các đồ dùng liên quan đến công việc nấu nướng, ăn uống, các loại thức ănthường viết với x như: Xôi, xà lách, xúc xích, lạp xưởng, cái xoong, que xiênnhưng vẫn có một số trường hợp ngoại lệ như cây sả, sợi mì
+ Đa số các danh từ chỉ đồ vật, cây cối, đại từ đều viết với snhư: Sông, suối, ông sư, bà sãi, cây sung, sầu riêng, cấy sồi, cây sim, hoa sen, hoa súng, cái sọt, sợ dây, ông sao, khẩu súngNhưng trong trường hợp này vẫn có một số từ ngoại lệ như: cây xoan, cây xoài, dây xích, cái xẻng, mùa xuân
Tương tự đối với các bài tập tìm từ có chứa tiếng bắt đầu bằng d/r/gi tôi cũng hướng dẫn học sinh với phương pháp trên:
- Đối với d/r/gi:
+ Mẹo về âm đệm: Chỉ có d mới kết hợp với âm đệm, còn r và gi không kết hợp với các vần này như: Hậu duệ, kiểm duyệt, duy nhất, duy trì nhưng có một trường hợp ngoại lệ là roa trong cu – roa.
 + Mẹo run rẩy – rừng rực: Những từ láy điệp âm đầu r chỉ sự rung động ở nhiều cung bậc khác nhau, những sắc thái, ánh sáng tươi, chói như: Rả rích, rì rào,răng rắc, rầm rập, rón rén,rập rình, run rẩy, rung rinh, rạo rực, rực rỡ, rạng rỡ, rói rói, rừng rực
Sau một thời gian nắm được các mẹo kết hợp này, trong những hoạt động sau các em tiến bộ hơn rất nhiều. Không còn nhầm lẫn khi tìm từ có chứa tiếng bắt đầu bằng s/x, r/d/gi, và từ các em tìm được phong phú và đa dạng hơn.
 Hình 2: Bài làm của học sinh sau khi nắm được mẹo kết hợp với âm s/x
1.2. Mở rộng vốn từ qua dạng bài tập hỏi - đáp
Học sinh muốn sử dụng ngôn ngữ để bày tỏ được những suy nghĩ, cảm xúc của bản thân với người xung quanh, thì đòi hỏi các em cần một vốn ngôn ngữ nhất định, trong đó có vốn từ. Vốn từ càng phong phú, các em càng thể hiện được một cách chính xác, đầy đủ và tinh tế những những điều mình muốn bày tỏ. Qua đó sẽ nâng cao được hiệu quả giao tiếp. Chất lượng của một cuộc giao tiếp luôn luôn tỉ lệ thuận với vốn từ của các em. Chính vì vậy, làm phong phú vốn từ cho các em là một hoạt động rất quan trọng và cần thiết.
Trong chương trình Luyện từ và câu lớp 2, phần lớn là dạng bài tập hỏi - đáp, đối - đáp theo tình huống. Đây là dạng bài tập nhằm củng cố vốn từ cho học sinh, giúp học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp. Nên tôi đã dựa vào thế mạnh của dạng bài tập này và đưa ra các hoạt động phân hóa để trau dồi thêm vốn từ, kỹ năng đối thoại cho các em. 
Ví dụ 1: Trong hoạt động [4. Tr 20], bài 11A, tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2, tập 1B, nhiệm vụ của học sinh là đối đáp về tác dụng của các đồ vật và nội dung của cuộc trò chyện trong tài liệu hướng dẫn là:
- Học sinh A: Cái ghế dùng để làm gì?
- Học sinh B: Cái ghế dùng để ngồi.
Nhưng nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở đó thì cuộc đối đáp sẽ không thú vị và không thể khai thác được sự sáng tạo của học sinh trong khi dùng các cụm từ, các câu để đối đáp. Nên tôi đã hướng dẫn học sinh mở rộng cuộc trò chuyện dựa trên nội dung sẵn có để cuộc trò chuyện sinh động, sôi nổi hơn.
- Học sinh A: Vậy bạn có biết chiếc ghế này được làm bằng gì không?
- Học sinh B: Chiếc ghế này làm từ gỗ và được đôi bàn tay khéo léo của thợ mộc làm ra đấy.
- Học sinh A: Những người thợ mộc giỏi quá! Họ làm ra những chiếc ghế đẹp thế này chắc vất vả lắm.
- Học sinh B: Nên khi sử dụng những chiếc ghế này, mình phải biết giữ gìn chúng nhé!
Qua nhiều tiết học như vậy thì chắc chắn các em sẽ tích lũy dần cho mình không những là một vốn từ phong phú mà còn là kỹ năng chững chạc trong giao tiếp, ứng xử nơi công cộng.
Ví dụ 2: Yêu cầu của hoạt động [5.tr16], bài 19B, tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2, tập 2A làhọc sinh đóng vai và đáp lời trong tình huống chị phụ trách Đội nói chuyện với các em nhỏ.
 Khi thực hiện yêu cầu này, tôi không chọn học sinh trong lớp đóng vai chị phụ trách Đội mà tôi nhờ một học sinh lớp 5 tham gia hoạt động cùng các học sinh trong lớp. Nội dung đối đáp theo trong tài liệu hướng dẫn là:
- Chị phụ trách Đội: Chào các em
- Các bạn học sinh: Chúng em chào chị ạ!
- Chị phụ trách Đội: Chị tên là Hương, chị được cử phụ trách sao của các em.
- Các bạn học sinh: Ôi ! thích quá!
Sau khi đối đáp hết nội dung có sẵn trong bài, tôi gợi mở, hướng dẫn các em thay thế các câu phong phú hơn những vẫn giữ được nghĩa của bản gốc để cuộc trò chuyện sôi nổi, lí thú hơn. Để hoạt động này mang lại hiệu quả, tôi tiến hành mở rộng vốn từ bằng việc gợi ý cho học sinh một số từ cho câu nói thêm sinh động, lôi cuốn người nghe nhưng vẫn không làm mất đi nghĩa của câu muốn nói. Đối với phương pháp dạy này, bước quan trọng để tạo hiệu quả cho giờ dạy chính là hướng dẫn cho học sinh hiểu nghĩa của câu và tìm được, nếu học sinh chưa tìm được câu tương ứng thì tôi sẽ gợi mở và cung cấp để học sinh tìm được câu thay thế phù hợp nhất. Chẳng hạn như:
- Chị phụ trách Đội: Chị lại được gặp các em trong tiết sinh hoạt sao tuần này rồi!
- Các bạn học sinh: Chúng em rất vui khi được gặp lại chị ạ!
- Chị phụ trách Đội: Chị cũng rất vui, các em còn nhớ chị tên gì không nào?
- Các bạn học sinh: Dạ có ạ! Chị tên là Hương. Chị được cô Tổng phụ trách cử xuống sinh hoạt Sao với chúng em ạ!
 Hình 3: Học sinh lớp 5 tham gia đóng vai cùng các em
Qua cuộc trò chuyện trên, khi giao tiếp với chị lớp 5 các em sẽ mạnh dạn hơn, không còn rập khuôn, máy móc theo nội dung bài học nữa mà chủ động xử lí các tình huống nhạy bén, linh hoạt hơn.
Bên cạnh đó, trong các buổi sinh hoạt Sao, tôi cũng đưa ra các tình huống theo chủ điểm trong tháng để các em đóng vai với nhau. Qua đó sẽ giúp các em mạnh dạn, tự tin hơn. Đồng thời, rèn luyện cho các em kỹ năng lễ phép, biết cách xưng hô hợp lí, dùng câu đầy đủ khi giao tiếp. 
1.3 Tăng cường vốn từ của học sinh qua dạng bài tập đặt câu theo mẫu
Ở lớp 2, học sinh bước đầu chập chững làm quen với việc đặt câu theo mẫu thật sự rất mới mẻ và hơi khó khăn. Tuy nhiên với sự thông minh và ham học hỏi, cộng với sự hướng dẫn của giáo viên thì học sinh vẫn hoàn thành được nội dung học của mình theo mẫu đưa ra. Nhưng nếu như học sinh chỉ đặt câu dừng lại ở mức độ đó thì vô tình dẫn các em rơi vào tình trạng máy móc, thiếu sáng tạo. Câu văn mà các em đặt khô khan và sáo rỗng, không có cảm xúc.
Luyện tập đặt câu giúp các em nắm vững được cấu trúc của câu để vận dụng tốt vào giao tiếp, nhưng làm thế nào để thu hút sự chú ý người nghe và để người nghe hiểu được hết nội dung mình muốn truyền tải mới là việc khó. Vì vậy, tôi đã chú ý đến việc trau dồi vốn từ cho các em ngay từ đầu. Và để làm tốt được đều này tôi đã đựa vào dạng bài tập đặt câu theo mẫu “Ai là gì?”, “Ai thế nào?”, “Ai làm gì?” để bổ sung thêm vốn từ cho các em.
Ví dụ: Khi dạy dạng bài tập đặt câu theo mẫu “Ai làm gì?”, tôi thấy hầu hết học sinh đều đặt được câu theo mẫu nhưng câu văn của các em chưa có hình ảnh, chưa có sự sáng tạo. Khi dạy đến hoạt động [4. Tr46], bài 13A, tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2, tập 1B với các câu và điền từng bộ phận của mỗi câu vào bảng theo mẫu:
a. Cậu bé nhìn lên tán lá.
b. Cậu bé òa khóc.
c. Họ đem hạt gieo trồng khắp nơi.
d. Bố còn tặng nhà trường một khóm hoa cúc đại đóa đẹp mê hồn.
Ai? (nhóm 1)
Làm gì? (nhóm 2)
Cậu bé 
nhìn lên tán lá.
Cậu bé
òa khóc.
Họ
đem hạt gieo trồng khắp nơi.
Bố
còn tặng nhà trường một khóm hoa cúc đại đóa đẹp mê hồn.
Với yêu cầu này của bài tập, tôi thấy học sinh đều hoàn thành, nhưng với mong muốn học sinh của mình tích lũy thêm được nhiều vốn từ. Tôi đã tiếp tục thực hiện theo các bước sau:
	- Bước 1: Yêu cầu học sinh đặt thêm các câu theo mẫu “Ai làm gì?” Đa số mọi học sinh đều đặt được và những câu các em tìm được là:
	+ Bạn Hoa làm bài tập.
	+ Con hổ có bộ lông rất đẹp.
	+ Bà em nhai trầu.
	+ Học sinh đang học thể dục. 
	Bước 2: Sau đó, tôi yêu cầu các em tiếp tục chia các câu vừa đặt được vào tiếp trong ô ở phần bài tập.
Ai? (nhóm 1)
Làm gì? (nhóm 2)
Cậu bé 
nhìn lên tán lá.
Cậu bé
òa khóc.
Họ
đem hạt gieo trồng khắp nơi.
Bố
còn tặng nhà trường một khóm hoa cúc đại đóa đẹp mê hồn.
Bạn Hoa
làm bài tập.
Con hổ
có bộ lông rất đẹp.
Bà em
nhai trầu.
Học sinh
đang học thể dục.
	Tiếp đến tôi đưa ra câu hỏi cho học sinh: 
+ Bộ phận trả lời câu hỏi “Ai?” là những từ thuộc nhóm nào?
+ Học sinh trả lời: Nhóm 1
+ Bộ phận trả lời câu hỏi “Làm gì? là những từ thuộc nhóm nào?
+ Học sinh trả lời: Nhóm 2
Sau khi các em trả lời tốt các câu hỏi trên, tôi cho các em trực tiếp vận dụng để nối các từ ở nhóm 1 và các cụm từ ở nhóm 2 để tạo thành câu có nghĩa.
Ví dụ: 
+ Cậu bé làm bài tập.
+Bà em đem hạt gieo trồng khắp nơi.
+ Học sinh làm bài tập.
+ Con hổ nhìn lên tán lá.
Tôi thấy học sinh của mình rất hào hứng khi ghép câu. Từ những câu có sẵn, các em đã cắt, ghép được vô số câu khác với câu mẫu nhưng vẫn giữ đúng nghĩa, đúng cấu trúc câu. Để thử xem học sinh của mình có nắm được bài hay không, tôi đưa ra câu trước lớp là “Con hổ đang học thể dục” thì cả lớp cười ồ lên thích thú và cho rằng câu tôi vừa sắp xếp được là chưa hợp lí và sai nghĩa. Qua hoạt động này, sẽ giúp các em sàng lọc để dùng từ đặt câu chính xác, hợp lí và có nghĩa. Hơn thế nữa trong hoạt động này những học sinh đạt mức chưa hoàn thành cũng sắp xếp được rất nhiều câu có nghĩa.
- Bước 4: Sau khi học sinh đã nắm chắc được mẫu câu “Ai làm gì”. Tôi muốn câu văn của các em có hình ảnh và giàu cảm xúc hơn. 
Câu văn có hình ảnh là câu văn mà ngoài hai bộ phận chính làm nòng cốt còn có thêm một số bộ phận phụ đi kèm mà ở các lớp học trên có khái niệm định ngữ và bổ ngữ. Mục đích hướng cho học sinh đặt câu có hình ảnh, có sắc thái biểu cảm, là bước đầu giúp các em cảm nhận được lời nói của mình đối với người nghe. Quay trở lại với những câu các em vừa tìm và sắp xếp được, tôi tiếp tục khai thác học sinh bằng các câu hỏi, cụ thể như:
Từ câu:Học sinh đang học thể dục. Bạn nào hãy thêm một số từ nữa để câu văn này hay hơn? Các em rất sôi nổi trình bày ý kiến của mình như:
+ Học sinh đang học thể dục, tiết học rất vui.
+ Học sinh đang học thể dục, các bạn học rất tích cực.
+ Hôm nay là thứ hai, học sinh đang học thể dục.
Hoặc với câu:Con hổ có bộ lông rất đẹp. Tôi cũng hướng dẫn như trên và thu thập được rất nhiều câu từ học sinh
+ Con hổ có bộ lông rất đẹp, nó có màu vàng và đen.
+Con hổ có bộ lông rất đẹp, nó là chúa tể rừng xanh.
+ Con hổ có bộ lông rất đẹp, trông nó mới oai vệ làm sao!
Với cách khai thác như trên, tôi đã giúp học sinh đặt được vô số câu được chuyển thể từ những câu theo mẫu. Rõ ràng những câu văn các em vừa hình thành đều mang hình ảnh và sắc thái cảm xúc. Nhưng thực tế, tôi thấy những câu văn như thế này được đặt chủ yếu từ những học sinh đạt mức hoàn thành tốt. Nhưng tôi tin rằng, với sự kiên trì và khai thác một cách khéo léo, thì dần dần học sinh đạt mức hoàn thành và chưa hoàn thành cũng sẽ đặt được những câu như vậy
Đối với mẫu câu “Ai là gì?” và “Ai thế nào”. Tôi cũng hướng dẫn học sinh theo phương pháp trên và mang lại hiệu quả rất tốt. Tuy nhiên, muốn biện pháp này đạt được hiệu quả, giáo viên cần có sự kiên trì, nhẫn nại, chịu khó trong một thời gian dài mới mang lại thành công.
 3. Giúp học sinh tích cực khi học Luyện từ và câu
Như chúng đã biết, hứng thú là tiền đề của sự tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Nếu giáo viên khơi gợi được sự hứng thú và tự giác của học sinh thì các em sẽ phát huy được tính tích cực một cách triệt để nhất. Trong giải pháp này, tôi đưa ra 2 biện pháp:
 3.1. Biện pháp điều chỉnh các hoạt động để học sinh tích cực học tập
Các hoạt động tìm từ trong tài liệu hướng dẫn, yêu cầu đưa ra thường là các nhóm tìm các từ ngữ và viết vào bảng nhóm, nhưng trong quá trình quan sát các em hoạt động. Qua nhiều tiết học tôi thấy người làm việc chính là các nhóm trưởng, các em rất tích cực khi tìm từ nhưng bên cạnh đó một số thành viên trong nhóm lại ỷ lại không hoạt động. Vì thế tôi đã điều chỉnh các hoạt động này thành hình thức thi trước lớp,để tất cả học sinh cùng cố gắng, từ đó phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo trong mỗi học sinh.
Ví dụ: Ở hoạt động [1.tr 108] bài 26B, tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt lớp 2 tập 2C. Yêu cầu của hoạt động là viết vào bảng nhóm các loài cá chứa tiếng bắt đầu bằng tr hoặc ch. Tôi đã điều chỉnh các hoạt động này thành hoạt động thi trước lớp và chia lớp thành hai đội có số lượng và trình độ đồng đều với nhau, sau đó từng bạn của hai đội sẽ lên bảng lớp viết các từ mình tìm được (từ vừa tìm không giống với các từ đội bạn đã tìm được trước đó). Sau đó giáo viên sẽ tính số từ hợp lệ của cả hai đội, đội có nhiều từ đúng hơn sẽ có quyền đưa ra yêu cầu dành cho đội kia.
Hình 4 và 5: Học sinh rất tích cực khi tham gia thi tìm từ
Sau khi tổ chức hoạt động như vậy, tôi thấy các em rất hào hứng khi tham gia, các em không còn nói chuyện riêng mà cố gắng tìm từ cho mình. Từ đó khả năng tìm từ của các em được phát triển, không còn thụ động, dựa dẫm vào nhóm trưởng, qua đó cũng rèn luyện cho các em tính đoàn kết và trách nhiệm của mình đối với tập thể.
3.2. Biện pháp tăng cường vốn từ cho học sinh bằng phương pháp trực quan
Đối với học sinh lớp 2, vốn từ của các em còn nghèo nàn, cách dùng từ của các em rất hạn chế, chưa phù hợp với mục đích giao tiếp. Vì thế tôi cố gắng bổ sung một số vốn từ cho học sinh giúp các em phân tích, lựa chọn từ ngữ sao cho hợp lí. Trong quá trình dạy Luyện từ và câu, tôi thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan để hướng dẫn học sinh. 
Trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học, nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm. Trên cơ sở trực tiếp quan sát các đồ dùng trực quan minh họa cho sự vật.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kỹ, hiểu sâu các hình ảnh. Qua quan sát vật thật, học sinh sẽ phối hợp nhiều giác quan để quan sát sự vật, hiện tượng, từ đó hình ảnh sẽ được giữ lại đặc biệt, vững chắc trong trí nhớ, giúp các em hứng thú trong học tập, phát triển khả năng tập trung, sự tò mò, khám phá, khai thác tối đa tính tự lực, tích cực của học sinh.
Kỹ năng quan sát rất cần thiết trong việc mở rộng vốn từ cho học sinh. Học sinh có thể quan sát theo sự hướng dẫn của giáo viên hoặc tự tìm tòi, quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà. Khi sử dụng phương pháp này, tôi chuẩn bị thật kỹ đồ dùng cần sử dụng để tập trung sự chú ý của học sinh, bên cạnh đó tôi cũng dùng phương pháp gợi mở để dần dần dẫn dắt các em tìm được từ theo đúng yêu cầu. 
Ví dụ: Khi dạy hoạt động [1.tr 26], tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 2 tập 2B, yêu cầu học sinh kể tên các bộ phận của cây. Tôi đã sử dụng phương pháp dạy học trực quan.
Hình 6: Sử dụng vật thật để học sinh hình dung rõ hơn các bộ phận của cây
Bước 1: Lựa chọn đối tượng quan sát: Tôi chuẩn bị một cây có đầy đủ bộ phận để học sinh nắm rõ đặc điểm chung của cây. 
Bước 2: Xác định mục đích quan sát: Sau khi yêu cầu học sinh quan sát tổng thể cây, tôi hướng dẫn học sinh quan sát từ dưới lên trên của cây.
Bước 3: Báo cáo kết quả sau quan sát: Các nhóm sẽ báo cáo kết quả thảo luận của mình sau khi quan sát cây, nếu các em trả lời chưa chính xác hoặc còn thiếu các bộ phận của cây tôi sẽ gợi mở cho các em bằng những câu hỏi như “Bộ phận nào của cây nằm trong lòng đất, hút chất dinh dưỡng từ dưới đất lên để nuôi sống cây? Bộ phận nào to khỏe nhất của cây, gần tiếp giáp với đất? Lá mọc ra từ bộ phận này của cây?...Thì chắc chắn học sinh sẽ biết được đó là rễ cây, thân cây, cành cây
Bước 4: Chốt lại kết quả học sinh vừa quan sát được: Dựa trên kết quả vừa tìm được, tôi cùng học sinh củng cố lại một lần nữa bằng cách chỉ vào từng bộ phận của cây thật để học sinh khắc sâu hơn kiến thức vừa được lĩnh hội.
Để dạy tốt phương pháp này, bản thân tôi cần hướng dẫn học sinh quan sát nhiều đối tượng khác nhau: bức tranh, con vật, cây cối đồ vật thật. Khi các em biết quan sát tức là các em biết sử dụng các giác quan để nhận biết vật mình đang quan sát có hình dạng, màu sắc như thế nào. Khi quan sát, đầu tiên các em phải nhận định được mình đang quan sát cái gì? đồ vật gì? con gì?...tiếp đến phải biết nhìn theo nhiều góc độ khác nhau để tìm hiểu rõ về đối tượng mình đang quan sát.Cuối cùng là diễn đạt những điều quan sát được bằng ngôn ngữ có tính tạo hình.
Sau khi sử dụng phương pháp trực quan để học sinh mở rộng vốn từ, tôi thấy các em rất hào hứng khi học tập, thích được khám phá ra những khái niệm cụ thể về đối tượng được quan sát, các em đã tìm được và khắc sâu những từ ngữ mới mà các em chưa được dùng tới bao giờ.
4. Biện pháp tìm từ qua các câu đố theo chủ điểm
Chương trình Tiếng Việt lớp 2 được phân bố theo các chủ điểm, đó là: Em là học sinh, bạn bè, trường học, thầy cô, ông bà, cha mẹ, anh em, bạn trong nhà, bốn mùa, chim chóc, muông thú, sông biển, cây cối, Bác Hồ, nhân dân. Qua mỗi chủ điểm được học, để khắc sâu hơn kiến thức cho các em, tôi đã chuẩn bị và sưu tầm các câu đố liên quan đến nội dung các em vừa được học để các em tự suy luận ra câu trả lời từ đó kiến thức sẽ được khắc sâu hơn.
Ví dụ: Sau khi các em học xong chủ điểm “cây cối”. Tôi đã đưa ra câu đố cho các em như:
 Cây gì thẳng tắp trước nhà?
 Trái ngon dành tặng riêng bà, bà ơi.
 (Là cây cau)
Hè về hoa đỏ như son
Hè đi thay áo xanh non mượt mà
Bao cánh tay tỏa rộng ra
Như vẫy như đón bạn ta tới trường?
 (Là cây hoa phượng)
	Có múi bằng số cánh sao
Có trong cổ tích ai nào đoán ra?
 (Là cây khế)
Học sinh sẽ làm việc nhóm hoặc cá nhân để tìm ra câu trả lời chính xác nhất, tôi thấy các em rất sôi nổi, hào hứng khi tham gia hoạt động này. Qua đó sẽ trao dồi thêm tư duy tìm tòi, học hỏi, khắc sâu hơn kiến thức cho các em, bồi dưỡng năng lực hiểu từ chính xác, khoa học, tích cực hóa vốn từ, hình thành và củng cố kỹ năng sử dụng từ. Không những thế, ở những chủ điểm sau các em còn chủ động trong việc tìm câu đố, nhờ thêm sự trợ giúp của phụ huynh tìm các câu đố để lên lớp trao đổi với các bạn. Nhờ đó ngân hàng

Tài liệu đính kèm:

  • docxLE HOAI VAN.THNVTROI.docx