SKKN Một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non 3 – 4 tuổi tại trường Mầm non Cư Pang

SKKN Một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non 3 – 4 tuổi tại trường Mầm non Cư Pang

Đối với giờ học tạo hình: “Vẽ ngôi nhà của bé”

 Cô giáo dục trẻ biết yêu quí ngôi nhà mình ở, biết quét dọn nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp đồ dùng trong gia đình ngăn nắp gọn gàng.

* Đối với giờ học làm quen chữ cái: dạy trẻ phát âm đúng, nói rõ ràng, biết sắp xếp đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp.

* Giờ học Giáo dục âm nhạc: Dạy bài hát “ Rửa mặt như mèo”

 Qua bài hát này đã giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh thân thể sạch sẽ.

- Kỹ năng sống là phương pháp học mà chơi, chơi mà học.

 Thông qua giáo dục trực quan trên thiết bị hiện đại, những bài học về tinh thần đồng đội, giao tiếp, thuyết trình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh, ngôn từ có vần điệu, những bài đồng dao, ca dao phù hợp với chủ đề được đưa vào để trẻ dễ dàng tiếp thu trong quá trình học tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng vai trò là người hỗ trợ giúp trẻ phát huy khả năng, thế mạnh của mình từ đó phát triển những ứng xử tích cực và tự tin trong cuộc sống.

 Dạy kỹ năng sống cho trẻ không phải gò ép trong những tiết học chính thức mà phải kết hợp qua các hoạt động vui chơi của trẻ.

- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một cách thích hợp.

 

doc 24 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 5447Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non 3 – 4 tuổi tại trường Mầm non Cư Pang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 các kỹ năng xã hội cần thiết: thể hiện tình cảm, sự chia sẻ, hợp tác, kiên trì, vượt khó; hình thành một số kỹ năng ứng xử phù hợp với gia đình, cộng đồng, bạn bè và môi trường.
Ở Việt nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục- Đào tạo đã phát động phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện- học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Trong năm nội dung thực hiện có nội dung tổ chức trò chơi dân gian cho học sinh đó cũng chính là rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến việc làm sao để kích thích tính tích cực học tập của trẻ, ai cũng muốn con mình được học đọc và học viết ngay trong những năm tháng học ở trường mầm non , đặc biệt là các bậc cha mẹ có con học lớp một. 
Kỹ năng: Là mức độ thực hiện đòi hỏi sự tập trung chú ý cao vào các thao tác thực hiện các chi tiết.
Kỹ sảo: Là mức độ thực hiện các quy trình trẻ nên tự động hóa các bước thực hiện ở mức độ tin tưởng cao, Các bước thực hiện vệ sinh một cách chính xác. Trẻ tin tưởng vào các bước thực hiện.
Thói quen: Là quá trình hình thành chuỗi phản xạ có điều kiện bởi các thao tác được lặp đi lặp lại nhiều lần dần dần thấm sâu và tạo thành phản xạ tự nhiên của mỗi người.
Trẻ tuy còn nhỏ xong trẻ có thể thực hiện tốt các kiến thức thông thường rồi dần dần sau đó hình thành các kỹ năng, kỹ sảo, thói quen cho bản thân.
Vì vậy, các bậc cha mẹ cô giáo cần giáo dục dạy trẻ các kỹ năng, kỹ xảo, thói quen vệ sinh rửa mặt rửa chân tay cho trẻ đúng thời điểm đúng quy trình vệ sinh và thời gian biểu hợp lý từ đó hình thành nề nếp thói quen văn minh trong cuộc sống. Giúp trẻ phòng tránh, hạn chế các bệnh dịch qua đường tiêu hóa, qua tiếp xúc, qua đường hô hấp như bệnh chân tay miệng, cúm H5N1 tiêu chảy cấp... 
2. Thực trạng
2.1. Thuận lợi – khó khăn
* Thuận lợi:
Giáo viên trẻ nhiệt tình trong công tác chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
Một số phụ huynh đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Được sự quan tâm sát sao của Ban giám hiệu trường Mầm non Cư Pang, các ban ngành trong xã Ea Bông. Được sự quan tâm sát sao của Phòng giáo dục và đào tạo huyện Krông Ana, thông qua các đợt tập huấn đã cung cấp thông tin, kiến thức giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
* Khó khăn:
100% trẻ là dân tộc thiểu số, học sinh trong lớp còn nhỏ, tuyển mới 100%, trẻ biết ít tiếng phổ thông, trẻ nhỏ đa số là không biết (đầu năm học) do đó để trẻ hiểu và học được các vấn đề kỹ năng sống là việc rất khó.
Trình độ dân trí thấp, đa số các bậc phụ huynh mải làm kinh tế nên không quan tâm đến việc chăm sóc nuôi dưỡng, hình thành thói quen vệ sinh và giữ gìn vệ sinh cho con cái. 
Đồ dùng dạy học được trang bị còn ít, chưa thực sự đủ để đảm bảo công tác giáo dục cho trẻ.
Đa số các bậc phụ huynh mải làm kinh tế không đưa con đi học mà chủ yếu trẻ tự đến lớp, do đó công tác nhắc nhở các bậc phụ huynh giáo dục cho con em trước khi đến lớp gặp khó khăn và chưa được thường xuyên.
2.2. Thành công – hạn chế
* Thành công:
Phụ huynh đa số đã quan tâm đến việc học của con em mình nên việc tuyển sinh trẻ ra lớp tương đối thuận lợi. Lớp mầm 4 là lớp tuyển mới so với năm học 2014 – 2015, tổng số trẻ của lớp là 20 cháu. 
* Hạn chế:
Học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số đi học không đều, tiếp thu bài chậm, tham gia học và chơi chưa hứng thú.
2.3. Mặt mạnh – mặt yếu
* Mặt mạnh:
Bản thân tôi luôn nhiệt tình trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ, đã tuyên truyền tới các bậc cha mẹ học sinh biết được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong trường mầm non
Luôn học hỏi trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, biết lắng nghe, biết sửa sai, không bảo thủ nên chuyên môn nghiệp vụ tương đối vững vàng.
Cơ sở vật chất trang thiết bị được Ủy Ban nhân dân xã Ea Bông rất quan tâm, phân hiệu thuộc Buôn Hma tôi đan công tác trong thời gian tới sẽ được đầu tư cơ sở vật chất đầy đủ. 
* Hạn chế:
Trước khi dạy trẻ vễ kỹ năng sống phải định hướng được số biện pháp, mục đích, nhiệm vụ mình cần làm..., bản thân vẫn chưa phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc giáo dục trẻ.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Địa bàn của buôn rộng dân cư thưa thớt, không tập trung, đường xá đến lớp học xa, khó khăn, phải qua nhiều ruộng, qua đồi. Đa số người dân làm nghề nông không có điều kiện đưa con đi học. Trẻ đi học còn phải tự mình đi bộ tới lớp. Do đó, việc trẻ đến lớp không sạch sẽ là điều hiển nhiên.
Do các phụ huynh chưa xác định được lợi ích của việc giáo dục kỹ năng sống ảnh hưởng như thế nào đến con em mình. Sự tiếp xúc với cách sống văn minh, văn hóa ít. Kiến thức về chăm sóc cũng như kỹ năng nuôi dạy hạn chế. Hơn nữa việc sinh đẻ không có kế hoạch, trong một gia đình có quá đông con (3 đến 5 con) nên sự quan tâm vệ sinh chăm sóc giữ gìn vệ sinh trẻ hạn chế.
2.5. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng
Trường mầm non Cư Pang là một trường quốc lập mới được thành lập từ tháng 6/2014 với nhiệm vụ là thực hiện công tác giáo dục chất lượng ở cấp mầm non. Được tách ra từ trường Mẫu giáo Hoa Sen tại địa bàn Xã Ea Bông. Đây là một điễm xã nghèo của huyện Krông Ana, trình độ dân trí thấp, chưa đảm bảo được mức sống cho người dân. Nhận thức của một bộ phận không nhỏ người dân chưa đúng mức về vị trí vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Coi đó là nhiệm vụ của riêng nhà trường, nhận thức này là chưa đầy đủ trong bối cảnh của giáo dục cả nước trong thời kỳ đất nước ta đang hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới.
Một nguyên nhân của việc trẻ thiếu kỹ năng có thể kể đến đó là sự thiếu bao bọc của các bậc cha mẹ cũng như sự thiếu quan tâm đúng mực của gia đình và nhà trường trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Nhiều bậc phụ huynh không sẵn sàng chia sẻ mọi khó khăn dù lớn hay nhỏ cô giáo, khiến áp lực đè nặng lên nhà trường, từ đó con cái thiệt thòi, trở nên yếu ớt, thiếu bản lĩnh, khó hòa nhập với cộng đồng.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Trách nhiệm giáo dục đạo đức, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là trách nhiệm của toàn thể hội đồng sư phạm bao gồm đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, công nhân viên nhà trường chứ không phải là trách nhiệm của một cá nhân, bộ phận nào. Việc giáo dục đạo đức, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phải được thống nhất về nội dung, được tiến hành thường xuyên, liên tục trong từng tiết dạy, ở mọi lúc, mọi nơi và có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng trong và ngoài nhà trường. 
Lựa chọn các biện pháp, giải pháp phù hợp sẽ giải quyết được vấn đề lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non, từ đó giáo viên biết cách giáo dục và rèn luyện, bồi dưỡng hoàn thiện các khía cạnh nhân cách cho trẻ. 
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
3.2.1. Một số biện pháp giúp người dạy nhận thức được ý nghĩa của việc giáo dục kỹ năng sống và xác định được những kỹ năng sống cần giáo dục cho trẻ mầm non
Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học là chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ .
- Kỹ năng là gì? Là khả năng thao tác, thực hiện một hoạt động nào đó. Có nhiều điều ta biết, ta nói được mà không làm được.
VD: Trẻ biết đánh nhau hoặc tranh giành đồ chơi với bạn là sai nhưng trẻ vẫn thực hiện hành vi đó.
Hay: Trẻ biết tập thể dục sáng rất tốt cho sức khỏe nhưng trẻ lại không thể tập được vào mỗi buổi sáng.
- Như chúng ta đã biết khoảng cách giữa nhận thức và hành động luôn khá lớn. Kỹ năng sống cần có cho những hành vi lành mạnh, tích cực cho mỗi cá nhân trẻ.
- Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mang tính cá nhân và xã hội nhằm giúp trẻ có thể chuyển tải những gì mình biết (nhận thức), những gì mình cảm nhận (thái độ) và những gì mình quan tâm (giá trị) thành những khả năng thực thụ giúp trẻ biết phải làm gì và làm thế nào (hành vi) trong tình huống khác nhau của cuộc sống. 
Xác định những kỹ năng cần giáo dục cho trẻ:
+ Kỹ năng tự nhận thức: Trẻ ý thức được về bản thân mình, có khả năng hiểu biết đánh giá được bản thân mình về tính cách, sở thích, thói quen, nhận thức được về mặt mạnh, mặt yếu của mình trong và ngoài nhà trường. Nhận thức được tình cảm, ý tưởng và giá trị của mình, tự chấp nhận bản thân, cảm nhận sự chấp nhận của người khác và sự chấp nhận của trẻ đối với mọi người.
VD: Cháu nhận biết được tên gọi, đặc điểm của bản thân mình, biết sở thích và những đồ dùng đồ chơi mà mình yêu thích.
Qua giáo dục kỹ năng tự nhận thức, trẻ có thể tự nhận thức được về năng khiếu và khả năng đặc biệt của mình.
VD: Trẻ có năng khiếu vẽ và thích được vẽ. Ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì cô giáo, cha mẹ có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở góc nhỏ trong nhà.
Hình ảnh: Bé thích vẽ gì?
- Kỹ năng quan hệ xã hội: Kỹ năng này trẻ phải học rất nhiều trong những năm đầu đời: trẻ học cách làm chủ ngôn ngữ, học cách nhận biết và đối phó với cảm xúc của mình cũng như của người khác. Trẻ cần được dạy cách ứng xử theo cách xã hội chấp nhận. Trẻ biết hợp tác với người khác khi làm việc nhóm, cách chia sẻ luân phiên và học cách ứng xử lịch thiệp và tôn trọng người khác bằng cách lắng nghe quan điểm của người khác, chấp nhận sự khác biệt và quyết định một cách công bằng.
Trẻ cần học cách kết bạn, duy trì sự tương tác và mối quan hệ tích cực với bạn cùng lứa. Trẻ biết cách làm thế nào để giải quyết xung đột với bạn mình.
VD: Qua các hoạt động, giờ chơi, giờ hoạt động góc, các trò chơitrẻ được chơi cùng bạn, được trao đổi ý kiến hay chia sẻ đồ chơi với bạn.
Bé cùng chơi xây dựng
- Sự tự tin: giáo viên chú ý phát triển sự tự tin ở trẻ, trẻ cần được yêu thương và tôn trọng. Quá đó, giúp cháu biết mạnh dạn, không sợ nói trước đông người, trẻ cảm thấy tự tin trong mọi tình huống, dám làm điều mình nghĩ và biết bày tỏ cảm xúc của mình với người khác mà không e ngại.
VD: Trẻ tự giới thiệu về bản thân mình trước bạn bè hoặc múa hát, biểu diễn văn nghệ.
Trẻ tự tin múa hát
- Sự tự lập: Người lớn cần giúp trẻ biết tự lập càng sớm càng tốt, không để trẻ quá phụ thuộc vào người lớn hoặc bạn bè. Trẻ biết làm mọi việc theo khả năng riêng của mình, có thể cân nhắc những lựa chọn và tự mình quyết định mọi việc.
VD: Trẻ biết tự xúc cơm ăn, biết tự chải răng, tự mặc áo quần
Bé biết tự xúc cơm ăn
- Tính trách nhiệm: Giáo dục cho cháu biết tính trách nhiệm là chịu trách nhiệm về những hành động của mình, người có tinh thần trách nhiệm là người mà người khác có thể tin cậy, trông chờ và hy vọng. Trẻ biết làm xong công việc của mình, cố gắng làm hết khả năng của mình, quam tâm, chăm sóc và biết giúp đỡ người khác.
VD: Trẻ biết giúp cô sắp xếp đồ chơi gọn gàng hay thể hiện tốt vai chơi của mình
Bé xây ao cá
- Kỹ năng hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn. Tạo những sự cảm nhận giúp trẻ tôn trọng những quyền lợi của trẻ khác qua việc chia sẻ. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
VD: Trẻ cùng nhau vẽ một bức tranh hoặc trẻ cùng tham gia chơi ở góc xây dựng.
 3.2.2. Giáo dục kỹ năng sống thông qua các hoạt động giáo dục, vui chơi hàng ngày
Lồng nội dung giáo dục kỹ năng sống vào các môn học nhằm hình thành cho trẻ những thói quen, hành vi có văn hóa.
 Ví dụ :
 * Giờ học phát triển thể chất
  Cô dạy trẻ biết các kỹ năng vận động, biết siêng năng rèn luyện để cơ thể khỏe mạnh, trẻ biết trong khi tập không chen lấn xô đẩy nhau...
* Giờ học khám phá xã hội:
Tôi dạy trẻ kỹ năng giao tiếp qua đề tài: Gia đình bạn, gia đình tôi
- Trẻ biết chia sẻ thông tin về gia đình, kể về các thành viên trong gia đình, những việc mà trẻ thường làm ở nhà.
 Kỹ năng sống trẻ học được đó là: Giao tiếp cởi mở với bạn, lắng nghe bạn nói và chờ đến lượt mình nói. Biết nói rõ ràng để bạn hiểu và chơi cùng bạn.
* Đối với giờ học tạo hình: “Vẽ ngôi  nhà của bé”
 Cô giáo dục trẻ biết yêu quí ngôi nhà mình ở, biết quét dọn nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp đồ dùng trong gia đình ngăn nắp gọn gàng...
* Đối với giờ học làm quen chữ cái: dạy trẻ phát âm đúng, nói rõ ràng, biết sắp xếp đồ dùng học tập gọn gàng, ngăn nắp.
* Giờ học Giáo dục âm nhạc: Dạy bài hát “ Rửa mặt như mèo”
 Qua bài hát này đã giáo dục trẻ thói quen tự vệ sinh  thân thể sạch sẽ.
- Kỹ năng sống là phương pháp học mà chơi, chơi mà học.
 Thông qua giáo dục trực quan trên thiết bị hiện đại, những bài học về tinh thần đồng đội, giao tiếp, thuyết trình, tư duy được khái quát bằng hình ảnh, ngôn từ có vần điệu, những bài đồng dao, ca dao phù hợp với chủ đề được đưa vào để trẻ dễ dàng tiếp thu trong quá trình học tập. Bên cạnh đó giáo viên đóng vai trò là người hỗ trợ giúp trẻ phát huy khả năng, thế mạnh của mình từ đó phát triển những ứng xử tích cực và tự tin trong cuộc sống.
 Dạy kỹ năng sống cho trẻ  không phải gò ép trong những tiết học chính thức mà phải kết hợp qua các hoạt động vui chơi của trẻ.
- Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một cách thích hợp. 
- Qua hoạt động học có chủ đích, giáo viên giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm - xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau. 
VD: Khi kể chuyện “Ba cô gái” giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở như: Nếu là con khi hay tin mẹ bị ốm, con sẽ làm gì? gợi mở cho trẻ tính tò mò, nhận thức được hành động đúng hoặc sai của nhân vậtTừ đó trẻ có thể rút ra bài học cho bản thân mình.
Cô kể chuyện cháu nghe
- Hoạt động vui chơi: trẻ mạnh dạn tham gia vào hoạt động, biết thể hiện bản thân mình, có nhóm bạn chơi với nhau. Qua hoạt động vui chơi cháu biết đoàn kết và chơi chung với bạn, có trách nhiêm với nhóm chơi của mình, biết bản thân mình là một thành viên của nhóm 
VD: Cháu tham gia giờ hoạt động ngoài trời chăm sóc góc thiên nhiên, biết chăm sóc và tưới nước cho cây, nhặt lá vàng
Bé chăm sóc góc thiên nhiên
- Cô giáo, cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ dùng đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục.Việc này được thực hiện trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bữa cơm gia đình. 
 VD: Qua giờ ăn, trẻ biết tự xúc cơm ăn, ăn cơm gọn gàng, không làm rơi vãi cơm, không ngậm thức ăn lâu trong miệng, không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại lung tung
- Việc giáo dục kỹ năng sống còn được lồng ghép vào các hoạt động của lớp trong ngày.
 VD: Cô dạy các cháu bỏ rác vào sọt (thùng rác), không vứt rác bừa bãi, không vứt rác ra ao, hồ, sông, suối..
Cháu biết bỏ rác đúng nơi quy định
Qua giờ ngủ, cháu biết nằm ngủ ngay ngắn, không nói chuyện, không làm ồn ào hoặc chọc phá bạn
Giờ ngủ của cháu ở trường mầm non
3.2.3. Biện pháp giáo dục kỹ năng sống qua việc tổ chức các trò chơi, hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh
- Trẻ học được các kỹ năng bằng cách tham gia vào các trò chơi. Vai trò của giáo viên là tạo các tình huống của trẻ có thể chơi với nhau. Thông qua trò chơi, giúp cháu có sự tự tin, biết phối hợp chơi cùng bạn và có trách nhiệm với nhóm chơi của mình.
- Qua trò chơi đóng vai, trẻ được thể hiện các vai trong cuộc sống (gia đình, bác sĩ, thợ may). Khi đóng vai trẻ được hòa nhập vào xã hội thu nhỏ, biết bản thân mình thể hiện vai gì và có những ứng xử và hành động phù hợp. 
VD: Trẻ chơi đóng vai các thành viên trong gia đình, biết tự phân vai chơi cho nhau: Ba mẹ chăm sóc con cái, mẹ nấu ănHay: chơi đóng vai cô giáo: cô dạy các con học, cho các con ăn
Bé chơi bán hàng
Thông qua hoạt động này trẻ được giao tiếp với các vai khác, trẻ quan sát cách đối xử với trẻ khác thế nào, những gì xảy ra trong các xung đột cá nhân, mỗi trẻ nhận được một kết quả từ những cách ứng xử của mình.
VD: Trẻ hay gây gổ sẽ nhận thấy các trẻ khác không chấp nhận cách ứng xử của chúng, trẻ còn lại cũng hiểu rằng cũng sẽ gặp phản ứng tương tự nếu như cũng ứng xử như vậy.
Hoặc: Các trò chơi có luật như: trò chơi vận động, trò chơi có luật, trò chơi dân gian, trẻ có sự hợp tác với nhau trong nhóm chơi, biết phối hợp và đoàn kết chơi với nhau. Qua đó có thể giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ.
VD: Trò chơi vận động “Chuyền bóng”, trò chơi dân gian “Kéo co”
Cháu chơi trò chơi “Kéo co”
3.2.4. Biện pháp nêu gương bạn tốt, tuyên dương và khích lệ trẻ
- Người lớn phải là tấm gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻvà đảm bảo an toàn cho trẻ.
- Người lớn cần sử dụng lời nói rõ ràng, câu hỏi gợi mở phối hợp cùng các cử chỉ, điệu bộ phù hợp nhằm khuyến khích trẻ tiếp xúc với môi trường xung quanh, bộc lộ, chia sẻ những cảm xúc với người khác bằng lời nói và hành động cụ thể.
- Bên cạnh những lời nói khích lệ, nêu gương, khuyến khích những hành vi, lời nói tốt của trẻ, giáo viên cần tuyên dương và khen thưởng trẻ kịp thời 
 VD: Giờ học tạo hình, cô tuyên dương những trẻ vẽ đẹp, hoàn thành được sản phẩm hoặc trong giờ chơi, cô tuyên dương trẻ khi thể hiện tốt vai chơi của mình.
Cô khen trẻ, khích lệ tinh thần.
- Giáo viên cần sử dụng các hình thức khen, chê phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ. Biểu dương trẻ là chính, nhưng không lạm dụng. Cần tuyên dương và khuyến khích trẻ để trẻ tự hào, tự nhận biết được hành động vừa làm là đúng và tiếp tục phát huy.
- Thể hiện thái độ đồng tình hoặc chưa đồng tình của người lớn trước việc làm, hành vi, cử chỉ của trẻ, Từ đó đưa ra nhận xét, tự nhận xét trong từng tình huống hay hoàn cảnh cụ thể. Người lớn không sử dụng các hình phạt làm ảnh hưởng đến sự phát triển tâm – sinh lí của trẻ.
VD: Khi trẻ đánh bạn, cô tỏ thái độ không đồng tình và giải thích cho trẻ biết là không được đánh bạn, đó hành vi sai. Dạy cháu biết xin lỗi bạn, biết yêu thương và chơi cùng bạn.
3.2.5 Tuyên truyền các bậc cha mẹ cùng phối hợp thực hiện dạy trẻ các kỹ năng sống cơ bản
- Giáo viên cần tìm hiểu về gia đình trẻ để thống nhất cách giáo dục trẻ giữa nhà trường và gia đình, tránh xảy ra trường hợp “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
 - Ở trường cô giáo dạy trẻ biết nhận quà bằng 2 tay, biết cảm ơn khi được nhận quà, biết dạ thưa khi trả lời nhưng khi về nhà, ba mẹ không quan tâm và sửa sai cho trẻ. Điều này làm cho trẻ thấy mâu thuẫn và sẽ không có được những hành vi và cách cư xử đúng.
VD: Ở lớp cô dạy cháu biết lễ phép, khi trả lời phải biết “dạ”, “thưa”. Khi về gia đình, ba mẹ gọi trẻ, trẻ không dạ thưa, ba mẹ cũng không chỉ bảo và sửa sai cho trẻ
- Giáo viên cần kết hợp với phụ huynh trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ, thường xuyên trao đổi và tìm hiểu tâm sinh lí của từng trẻ để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tốt hơn. Hướng dẫn và rèn kỹ năng cho trẻ mọi lúc mọi nơi, qua các hoạt động trong ngày.
VD: Qua giờ đón trẻ, cô nhắc cháu biết chào ba mẹ khi đi học, cất đồ dùng đúng nơi quy định. 
Giờ trả trẻ
- Qua bảng tin, bảng tuyên truyền ở lớp, giờ đón trẻ, trả trẻ và qua sổ liên lạc, giáo viên tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở con mình, tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên quan đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại các bậc cha mẹ có thể ghi chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo viên.
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Căn cứ vào 

Tài liệu đính kèm:

  • docPHẠM THI NHU NGOC.doc