SKKN Một số biện pháp làm giảm nguy cơ không an toàn và phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

SKKN Một số biện pháp làm giảm nguy cơ không an toàn và phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi

Để tạo sự tin tưởng và thu hút sự tham gia của đông đảo các bậc phụ huynh và cộng đồng vào các hoạt động chăm sóc giáo dục của lớp và của nhà trường, tôi đã thực hiện:

 Lắng nghe ý kiến của cha mẹ trẻ, chủ động xây dựng mối quan hệ tốt với phụ huynh. Sẵn sàng tư vấn và giúp đỡ các kiến thức chăm sóc - giáo dục trẻ khi gia đình trẻ có yêu cầu.

Tuyên truyền phổ biến kiến thức, kỹ năng tạo sự an toàn cho trẻ với phụ huynh ở trường bằng nhiều hình thức khác nhau như: Họp phụ huynh, bảng thông tin, góc trao đổi với phụ huynh, qua sổ bé ngoan với hình thức trao đổi những nơi nguy hiểm đối với trẻ như ao hồ, sông suối, điện giật, bỏng nước sôi, ngã, tai nạn giao thông . hay khi phụ huynh đưa con em mình đi học thường xuyên nhắc nhở, chú ý cách ngồi như thế nào để trẻ được an toàn, phát tờ rơi về những phòng tránh tai nạn cho phụ huynh và lắng nghe ý kiến phản hồi từ phụ huynh. Cô luôn tiếp thu những ý kiến đó và rút ra bài học kinh nghiệm.

 

doc 20 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 2057Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp làm giảm nguy cơ không an toàn và phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 nội dung về các nguy cơ không an toàn trong các buổi học để trẻ có kiến thức nhất định để tự phòng tránh cho bản thân. Tuyên truyền rộng rãi để phụ huynh và cộng đồng cùng thực hiện.
Từ những thực tế đó và qua 9 năm đảm nhiệm vai trò là giáo viên trực tiếp làm công tác chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ 5 – 6 tuổi đã giúp bản thân hiểu hơn và đúc kết được một số biện pháp, kinh nghiệm để giải quyết vấn đề này. 
II. Thực Trạng
Như chúng ta đã biết phòng tránh tai nạn và thương tích cho trẻ ở tuổi mầm non 5 – 6 tuổi là một trong các nhiệm vụ chung của mỗi gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Tai nạn thương tích là một trong những tai nạn thường hay gặp ở trẻ nhỏ đặc biệt là trẻ ở trong độ tuổi mầm non, vì trẻ ở lứa tuổi này rất hiếu động thích tìm tòi khám phá những điều mới lạ nên dễ dàng bị các tại nạn do sự vô tư của trẻ và sự bất cẩn của người lớn.
Thực tiễn trong những năm qua đối với công tác phòng chống tai nạn thương tích cho trẻ trong trường còn gặp những hạn chế sau:
Trẻ tự chơi và không lường hết những tiềm ẩn nguy hiểm xung quanh mình, với trẻ mọi đồ vật đều trở thành đồ chơi bất kể đồ chơi đó như thế nào.
Lớp học đông với nhiều độ tuổi khác nhau nên giáo viên gặp khó khăn trong việc quan sát, theo dõi để phòng tránh các nguy cơ không an toàn cho trẻ.
Nhiều phụ huynh đời sống kinh tế con khó khăn nên vẫn lo việc sản xuất, làm kinh tế nên chưa giành thời gian đưa đón trẻ đến lớp. Từ đó dẫn đến tình trạng một số cháu đến lớp, ra về gửi cho người khác đón, trẻ ngồi trên xe máy khi tham gia giao thông không có mũ bảo hiểm, đùa giỡn nhau.
Công tác chăm sóc giáo dục phòng chống tai nạn thương tích, vệ sinh cho trẻ qua sổ bé ngoan của trẻ chưa được phụ huynh quan tâm đúng mức. Nhiều phụ huynh không theo dõi sự tiến bộ hay chưa tiến bộ của con mình qua phần đánh giá nhận xét của giáo viên nhà trường.
Việc tuyên truyền phổ biến lồng ghép các hoạt động trong trường, lớp mầm non (Hoạt động chung, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời.) cho các bậc phụ huynh nắm bắt, mới nghe thật là đơn giản nhưng thực tế hầu như các bậc phụ huynh chưa biết tất cả các hoạt động và cách hướng dẫn của giáo viên cho trẻ được hoạt động như thế nào.
Việc rèn luyện thói quen an toàn cho trẻ trong sinh hoạt vui chơi hàng ngày phụ huynh chưa hình thành cho các cháu từ nhà.
III. Các giải pháp, biện pháp để giải quyết vấn đề
Việc đảm bảo an toàn cho trẻ ở trường mầm non có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau: lồng ghép trong các hoạt động học tập, thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày, vui chơi .. Những tác phẩm nghệ thuật như tác phẩm văn học( thơ, kể chuyện) có tác dụng tích cực trong việc giáo dục đảm bảo an toàn cho trẻ. Nó giúp trẻ có những kiến thức cơ bản, những kỹ năng phù hợp để đảm bảo an toàn bằng những hình tượng nghệ thuật sinh động, phong phú và đa dạng giúp cho hoạt động giáo dục trẻ diễn ra tinh tế, nhẹ nhàng, hấp dẫn mà hiệu quả. Để trẻ tránh được các tai nạn đáng tiếc có thể xảy ra thì mỗi người chúng ta phải thực hiện tốt các biện pháp sau: 
- Biện pháp 1: Giáo dục trẻ nhận biết các nguy cơ không an toàn và phòng chống tai nạn thương tích ở trẻ.
+ Các đồ vật có nguy cơ không an toàn:
Những đồ vật do con người sáng tạo ra nhằm phục vụ đắc lực cho cuộc sống hàng ngày và công việc của con người. Các đồ vật này với những tính năng sử dụng riêng sẽ có cấu tạo và phương thức hoạt động để đáp ứng tốt các yêu câu đặt ra. Vì vậy nguy cơ không an toàn do cấu tạo của các đồ vật đã có những đặc điểm có nguy cơ như các vật sắc nhọn như dao, kéo, đĩa, tuốc lơ vít, tăm, bút chì hay bình nước sôithêm vào đó người sử dụng không đúng cách hoặc sắp xếp đồ vật không hợp lý sẽ làm gia tăng nguy cơ và biến những nguy cơ đó thành những tai nạn thực sự.
Ví dụ: Chiếc phích đựng nước nóng bản thân nó không gây nguy hiểm gì cho người sử dụng nhưng nếu bất cẩn đậy nắp phích không chắc, khi người sử dụng cầm vào phần nắp này có thể làm rơi phích và có thể bị bỏng hoặc bị thương do mảnh vỡ bắn vào.
Trẻ mẫu giáo lớn với khả năng nhận thức tốt hơn ( tư duy hình tượng hình thành và phát triển cho phép trẻ nhận thức tốt về bản chất, đặc tính của các sự vật hiện tượng, mối quan hệ giữa các đối tượng và sự vật) và khả năng điều khiển hành động tốt hơn nên có thể dạy trẻ nhận biết về các đặc điểm của sự vật hiện tượng gần gũi xung quanh trẻ. Từ những kiến thức đó dẫn dắt để trẻ biết cách hoạt động cho phù hợp với đặc điểm của đối tượng, tránh được những hậu quả không đáng có.
Ví dụ: trong chủ đề gia đình với đề tài “Trò chuyện một số đồ dùng trong gia đình”, giáo viên cùng trò chuyện với trẻ về con dao (con dao băng nhựa), nêu đặc điểm cấu tạo của con dao gồm các phần thân dao và cán dao. Thân dao gồm phần lưỡi dao rất sắc có thể cứa, cắt đứt các vật khác, phần sống dao không sắc có thể tỳ tạo lực ấn. Phần cán dao để cầm. giáo viên làm mẫu cho trẻ xem để thấy rõ đặc điểm của từng bộ phận trên con dao thực hiện đúng chức năng của nó như thế nào, nếu làm không đúng có thể xảy ra chuyện gì. Và giáo viên không quên việc giáo dục trẻ, con dao là đồ dùng cần thiết trong gia đình nhưng chúng ta không được tự ý sử dụng nếu chưa có sự đồng ý và theo dõi của người lớn.
+ Các địa điểm có nguy cơ không an toàn:
Những địa điểm chứa đựng yếu tố nguy cơ cao đối với trẻ, cụ thể :
Trẻ có nguy cơ bị lạc, bị bắt cóc, bị xô đẩy ngã khi ở những nơi đông đúc như ở chợ, công viên, khu giải trí những nơi vắng vẻ cũng không hẳn an toàn cho trẻ bởi trẻ có thể bị bắt cóc, xâm hại hoặc trẻ gặp tai nạn nhưng không có ai giúp đỡ kịp thời.
Trẻ có nguy cơ không an toàn ở những địa điểm lao động như xí nghiệp, công trường đang thi công hay thậm chí ngay tại gia đình của trẻ cũng tiềm ẩn các nguy cơ ví dụ như khu vực bếp nấu, nơi đang thu dọn vệ sinh 
Hay những nơi trẻ có nguy cơ bị tai nạn do ngạt, đuối nước như ao hồ, sông suối, cống những nơi có bể nước hoặc thùng chứa nước không có nắp đậy. Đường xá có nhiều xe cộ đi lại cũng là nơi có nhiều tiềm ẩn các nguy cơ không an toàn hoặc đơn giản là khi trẻ tập tô, vẽ trẻ tò mò lấy cục tẩy nhỏ và nhét vào lỗ mũiVì vậy, hướng dẫn trẻ nhận biết các nguy cơ không an toàn ở những địa điểm khác nhau và cách phòng tránh là tương đối phức tạp do trẻ nhiều khi khó lường hết các vấn đề có thể xảy ra. Hơn nữa những tình huống lại rất đa dạng không phải lúc nào cũng xảy ra trong khuôn viên trường lớp. Nhưng trẻ càng lớn, nhu cầu hoạt động của trẻ càng cao, đòi hỏi môi trường hoạt động phải mở rộng dần, do đó việc dạy trẻ nhận biết và phòng tránh nguy cơ không an toàn từ các địa điểm càng cần thiết và đòi hỏi người lớn phải có biện pháp, hình thức giáo dục phù hợp để trẻ có thể trang bị cả kiến thức và kỹ năng xử lý tình huống.
- Biện pháp 2: Hình thành thói quen tốt thông qua hoạt động vui chơi
Trong trò chơi, trẻ tích cực hoạt động và nắm vững các quy tắc đạo đức, các chuẩn mực hành vi con người trong các mối quan hệ xã hội, nắm vững thái độ của con người đối với lao động, với tài sản chung và với chính bản thân trẻ góp phần hình thành ở trẻ thái độ, hành vi đúng đắn phù hợp với các chuẩn mực hành vi xã hội, vì thế có thể nói rằng trò chơi, đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề được coi là trường học của những hành vi đạo đức của trẻ. Thông qua vai chơi hấp dẫn, trẻ dễ dàng hướng tới cái đẹp trong hành vi, cử chỉ, thái độ của bạn mình, trẻ dễ dàng phục tùng những quy tắc đạo đức ẩn kín sau các vai chơi. Việc tổ chức tốt hoạt động vui chơi không chỉ giúp hình thành các kỹ năng cần thiết mà còn đặt nền tảng khá vững chắc để phát triển toàn diện cho trẻ. Chính vì vậy chúng ta nên tận dụng hoạt động vui chơi để giáo dục trẻ phòng tránh các nguy cơ không an toàn có thể xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.
Nếu dạy trẻ về các nguy cơ mà chỉ “thực hành bằng miệng” các cách phòng tránh, các cách hoạt động an toàn thì sẽ không thực sự đạt hiệu quả. Muốn trẻ nhận biết đúng và ứng xử đúng với những tình huống có nguy cơ thì giáo viên cần giúp trẻ được trải nghiệm thực tế và trải nghiệm với nhiều tình huống khác nhau. Trong điều kiện trường lớp, chắc chắn nhiều tình huống không thể có sẵn và cũng khó xảy ra thường xuyên, giáo viên có thể sử dụng các tình huống, trò chơi, các bài tập . để cho trẻ rèn luyện. 
Ví dụ: Trong chủ đề giao thông, ở góc chơi phân vai khi trẻ chơi trò chơi “ bố mẹ chở con đi học” giáo viên có thể dạy trẻ cách đội mũ bảo hiểm sao cho đúng cách và an toàn. Yêu cầu trẻ đội mũ và gài dây dưới cằm trước khi ngồi lên xe. Cứ như vậy cho trẻ lặp đi lặp lại 2 – 3 lần để nhớ các thao tác, từ đó hình thành kỹ năng đội mũ bảo hiểm cho trẻ một cách tự nhiên.
Còn với chủ đề Gia đình, có thể gợi ý cho trẻ đóng vai ông, bà, cha mẹ, con cái  hướng dẫn sử dụng các đồ vật như phích nước, hay dao, kéo các vật sắc nhọn là những đồ vật nếu không biết cách sử dụng có thể gây nguy hiểm như phích nước sôi có thể làm bỏng, dao kéo có thể làm dứt taysử dụng đúng mục đích và sau khi sử dụng xong để đúng nơi quy định.
Trong giờ hoạt động vui chơi, nếu quan sát kỹ chúng ta sẽ thấy vô vàn những tình huống xảy ra. Vì vậy giáo viên nên quan tâm và suy nghĩ để tìm ra những biện pháp kịp thời xử lý tình huống, điều chỉnh hành vi cho trẻ, giúp trẻ có thói quen tốt, biết được cái nào nên làm và cái nào không nên làm. Lâu dần những hành vi, thói quen ấy sẽ được tích lũy và nó trở thành kỹ năng sống đối với trẻ.
- Biện pháp 3: Bồi dưỡng, hình thành những kinh nghiệm bảo vệ bản thân phòng tránh các nguy cơ không an toàn và thương tích cho trẻ thông qua những câu chuyện, ca dao, tục ngữ.
Bồi dưỡng kinh nghiệm cho trẻ là một biện pháp quan trọng. xác định được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng kinh nghiệm cho trẻ sẽ giúp người giáo viên hình dung ra từng công việc cần làm để giúp trẻ có một lượng kiến thức vừa đủ để tự biết bảo vệ bản thân. Nó là cơ sở để thống nhất thực hiện mọi công viêc, mọi hoạt động mà giáo viên đặt ra. Chính vì thế ngay từ đầu năm học, tôi sưu tầm các bài thơ, ca dao, đồng dao truyện có nội dung phòng chống tai nạn thương tích và các nguy cơ không an toàn vào trong kế hoạch giáo dục của mình ngay từ đầu năm học. 
Được nghe kể chuyện, với trẻ là điều vô cùng thích thú. Những câu chuyện hay, có ý nghĩa truyền tải những thông điệp có giá trị, giúp trẻ có được những kỹ năng sống quý báu. Giáo viên cần lựa chọn các tác phẩm có giá trị, phù hợp với nhận thức của trẻ để kể cho trẻ nghe. Qua những câu những câu chuyện giáo viên có thể xây dựng thành những kịch bản ngắn, đơn giản có nội dung giúp trẻ nhận biết và phòng tránh các nguy cơ không an toàn.
Ví dụ: Cô kể cho trẻ nghe câu chuyện “Vì sao thỏ cụt đuôi” với nhiều hình thức khác nhau, sau khi trẻ đã nắm được nội dung chuyện cô tổ chức cho trẻ lựa chọn các vai và tổ chức cho trẻ đóng kịch dưới sự hướng dẫn của cô.
Đối với trẻ, thơ là một kho tàng kiến thức vô cùng phong phú. Nhiều khi chúng ta không thể giải thích mọi việc bằng những câu nói khô cứng, khó hiểu vì như vậy trẻ rất khó tiếp thu. Nhưng khi những đưa những kiến thức đó vào những câu nói có vần, có điệu thì trẻ dễ dàng được tiếp thu và dễ nhớ. Chính vì vậy, tôi đã đưa các nội dung giáo dục phòng tránh tai nạn thương tích cho trẻ vào các bài thơ để những nội dung vốn rất khô cứng nay đã trở lên nhẹ nhàng hơn.
Ví dụ: Qua những bài thơ giáo dục trẻ các kỹ năng tự phòng tránh và biết bảo vệ mình.
Xuống cầu thang 
Này các bạn nhỏ
Khi xuống cầu thang 
Bé lưu ý nhé 
Bước xuống cẩn thận
Nhớ đừng đùa nhau
Đừng lấy tai vịn
Làm cầu trượt chơi
Nhỡ mà bị rơi 
Thì nguy hiểm lắm !
 ( Sưu tầm)
Hay 
Đừng chơi gần bếp
Bé ơi đừng có loanh quoanh lại gần
Bếp ga, tủ lạnh, quạt trần
Nồi cơm, chảo điện rất gần tầm tay
Lại còn cả phích nước đầy 
Không may ngã phải là gây bỏng liền
An toàn là việc đầu tiên
Bé ơi phải nhớ, tránh liền bếp thôi
 ( Sưu tầm)
Thông qua nội dung trẻ được nghe, được đọc cùng với sự giảng giải của cô, trẻ sẽ thâm dần ý nghĩa của chúng, từ đó sẽ tích lũy dần cho mình những kinh nghiệm sống cho bản thân.
- Biện pháp 4: Sử dụng tình huống có vấn đề nhằm hình thành cho bé một số kỹ năng cần thiết.
Một trong những điều quan trọng đó là giúp các bé có khả năng biết từ chối, kỹ năng biết xử lý tình huống khi bé cảm thấy không an toàn.
Giáo viên có thể thiết kế một số tình huống để tập cho trẻ tự giải quyết vấn đề. Những tình huống này được sử dụng xuyên suốt trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Giáo viên có thể sử dụng các tình huống xảy ra trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ, giáo viên cần chú ý và tận dụng. Tuy nhiên nếu chỉ “trông chờ” vào các tình huống tự nảy sinh thì giáo viên sẽ luôn bị động, thêm vào đó sẽ khó triển khai hết các nội dung muốn dạy trẻ vì vậy giáo viên nên tạo thêm các tình huống cho trẻ hoạt động.
Ví dụ: Trong phạm vi lớp học: giáo viên có thể đặt một số đồ vật có khả năng gây nguy hiểm ở trên sàn nhà hoặc ở trên bàn thấp vừa tầm của trẻ ( hột hạt, dao nhọn, kéo, bình thủy tinh) hoặc giáo viên làm đổ ít nước ra nền nhà và giáo viên quan sát phản ứng của trẻ. 
Khi xây dựng tình huống người lớn lưu ý không cho trẻ phát hiện ra. Sau mỗi tình huống cần có sự trao đổi với trẻ, cố gắng để trẻ tự phát hiện những việc làm chưa đúng, hậu quả có thể xảy ra và rút kinh nghiệm cho những lần sau.
Ngoài ra giáo viên có thể chuẩn bị các vấn đề thảo luận và đưa các vấn đề đó cho trẻ ( qua một câu chuyện nhỏ hay qua xem một đoạn phim). 
Ví dụ: Cô kể cho trẻ nghe mẩu chuyện
Hôm nay sau giờ tan học, Hà đang chờ mẹ đón về, cô bé rất sốt ruột khi chờ mãi mà không thấy mẹ tới, nhân lúc đó cô giáo không để ý và Hà đã chạy thật nhanh ra cổng để đón mẹ. Bỗng có một người đàn bà xuất hiện và đưa cho Hà một gói bánh và nói với Hà hãy đi theo cô nhà cô con có rất nhiều bánh ngon nữa.. Sau khi kể cho trẻ nghe mẩu chuyện đó, cô có thể hỏi trẻ một số câu hỏi để trẻ giải quyết tình huống.
+ Con có được tự ý chạy ra khỏi lớp khi chưa có sự đồng ý của cô không? Vì sao?
+ Nếu là con con có đi theo người đàn bà đã cho con bánh hay không? Vì sao?
Giáo viên giúp trẻ phát triển vấn đề thông qua việc tham gia như một thành viên của nhóm thảo luận đưa ra các câu hỏi mang tính gợi mở suy nghĩ của trẻ. Sau quá trình thảo luận, giáo viên mời từng nhóm nói về kết quả thảo luận của nhóm mình. Giáo viên và các nhóm khác cùng tham gia ý kiến. Giáo viên giúp trẻ tổng hợp và đưa ra ý kiến cuối cùng.
Từ đó thông qua tình huống thực tế, quá trình trải nghiệm để bản thân trở nên vững vàng, biết cách xử lý mọi tình huống. Cho trẻ tham gia vào tình huống và giải quyết những tình huống đó dần dần chúng sẽ học được nhiều điều và đó sẽ là những kiến thức quý báu để hình thành kỹ năng sống cho trẻ.
- Biện pháp 5: Tổ chức tuyên truyền phòng, chống tai nạn thương tích cho trẻ với nhiều hình thức và nội dung thiết thực.
Đối với trẻ thơ, gia đình là môi trường thuận lợi nhất để hình thành và phát triển nhân cách. Gia đình là trường học đầu tiên của trẻ thơ. Vì vậy, giáo dục gia đình trở thành một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ nói chung và giáo dục trẻ mầm non nói riêng.
Nhiều người đã bỏ qua những cơ hội đơn giản và thuận lợi hàng ngày để hướng dẫn con những thói quen tốt để rồi sau đó lại mất thời gian bắt con phải học những điều này ở một nơi khác với những người xa lạ. Cho nên việc phối hợp với phụ huynh có vai trò rất to lớn đối với việc thực hiện thành công của các hoạt động trong trường mầm non. 
Xây dựng mối quan hệ tốt trong sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình là một nhiệm vụ quan trọng của trường mầm non. Giáo viên là người đại diện nhà trường có trách nhiệm trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này tạo ra môi trường giáo dục thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Đồng thời, giúp nhà trường phát huy được thế mạnh của gia đình trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ em, tạo nên sự thống nhất giáo dục trẻ giữa hai lực lượng giáo dục này.
Để tạo sự tin tưởng và thu hút sự tham gia của đông đảo các bậc phụ huynh và cộng đồng vào các hoạt động chăm sóc giáo dục của lớp và của nhà trường, tôi đã thực hiện:
 Lắng nghe ý kiến của cha mẹ trẻ, chủ động xây dựng mối quan hệ tốt với phụ huynh. Sẵn sàng tư vấn và giúp đỡ các kiến thức chăm sóc - giáo dục trẻ khi gia đình trẻ có yêu cầu.
Tuyên truyền phổ biến kiến thức, kỹ năng tạo sự an toàn cho trẻ với phụ huynh ở trường bằng nhiều hình thức khác nhau như: Họp phụ huynh, bảng thông tin, góc trao đổi với phụ huynh, qua sổ bé ngoan với hình thức trao đổi những nơi nguy hiểm đối với trẻ như ao hồ, sông suối, điện giật, bỏng nước sôi, ngã, tai nạn giao thông.. hay khi phụ huynh đưa con em mình đi học thường xuyên nhắc nhở, chú ý cách ngồi như thế nào để trẻ được an toàn, phát tờ rơi về những phòng tránh tai nạn cho phụ huynh và lắng nghe ý kiến phản hồi từ phụ huynh. Cô luôn tiếp thu những ý kiến đó và rút ra bài học kinh nghiệm.
 Liên lạc thường xuyên với gia đình để tìm hiểu sinh hoạt của trẻ ở gia đình, thông tin cho cha mẹ trẻ biết về tình hình của trẻ ở lớp, những thay đổi của trẻ để kịp thời có biện pháp tác động chăm sóc – giáo dục phù hợp.
Thống nhất với các bậc phụ huynh về nội quy của nhóm lớp, của nhà trường. Ví dụ: Đưa đón trẻ đúng giờ, không nên đưa trẻ đến quá muộn và đón quá sớm vì không đảm bảo thời gian để thực hiện chương trình ảnh hưởng đến chất lượng của lớp.
 Lập kế hoạch của chủ đề, kế hoạch tuần, đưa nội dung phối hợp với gia đình vào kế hoạch, nêu những yêu cầu cụ thể về vấn đề cần phối hợp với gia đình để thực hiện chủ đề đó. 
Giáo viên nên khuyến khích cha mẹ tạo điều kiện cho trẻ được làm những việc mà khi chúng có thể tự làm, trẻ sẽ cảm thấy vui và thoải mái. Cha mẹ tạo cơ hội để trẻ tự phục vụ bản thân như: Tự rửa mặt, chải răng, thay quần áo, tự chọn quần áo, đồ dung cá nhân chuẩn bị đi học.hoặc người lớn có thể dạy trẻ số điện thoại của bố mẹ và số điện thoại cần thiết khác như là công an, cứu hỏa, cấp cứu để trẻ có thể tự bảo vệ bản thân trong những trường hợp nguy hiểm.
Chính vì vậy vai trò của các bậc phụ huynh rất quan trọng trong việc nhận biết các nguy cơ không an toàn và phát triển một số kỹ năng cần thiết cho cuộc sống của trẻ, cho nên vai trò của người giáo viên cũng rất quan trọng trong việc tuyên truyền các bậc phụ huynh cần chú ý hơn và tận dụng những điều đơn giản ở nhà để góp phần đảm bảo an toan cho trẻ.
Chất lượng chăm sóc – giáo dục của lớp phụ thuộc nhiều vào sự đóng góp của gia đình trẻ. Ý thức được điều đó, tôi luôn chú trọng đến công tác phối kết hợp với gia đình trẻ bằng nhiều nội dung, hình thức phong phú để tạo điều kiện cho công tác chăm sóc – giáo dục trẻ trên lớp có hiệu quả. Mọi sự giáo dục đều lấy nền tảng giáo dục gia đình làm cốt lõi.
IV. Tính mới của giải pháp
Trước khi chưa áp dung nội dung phòng chống các nguy cơ không an toàn và chống tai nạn thương tích thì bản thân tôi nhận thấy:
 Phương pháp dạy không thay đổi và hình thức học mang tính chất bắt buộc, nội dung không phong phú ít được lồng ghép các nội dung phòng tránh tai nạn vào trong các chủ đề. Môi trường cho trẻ hoạt động được quan tâm nhưng chưa sát sao, chưa có các biển hiệu nhận biết phòng tránh các nơi nguy hiểm. Phụ huynh chưa quan tâm đến nhu cầu chơi và môi trường chơi đã được đảm bảo hay chưa....
 Nhưng sau khi áp dụng đề tài này vào thực tiễn thì các phương pháp làm giảm các nguy cơ không an toàn cho trẻ nhất là trẻ lứa tuổi mâm non thì nay đã được lồng ghép vào hầu như tất cả các chủ đề và luôn cho trẻ được học ở mọi lúc mọi nơi. Trẻ có kiến thức và kỹ năng tự biết phòng tránh những nguy cơ không an toàn. Nâng cao được nhận thức của phụ huynh và toàn xã hội.
V. Hiệu quả SKKN
Khi thực hiện đề tài này tại trường nơi tôi đang công tác với đối tượng học sinh chiếm khoảng 70% là học sinh dân tộc thiểu số. Khi kiến thức và kỹ năng của trẻ còn hạn chế, nhận thức của phụ huynh chưa cao. Các nội dung về giảm thiểu tai nạn và thương tích cho trẻ được áp dụng trong chương trình học chưa nhiều. Chính vì vậy khi áp dụng đề tài này thì chúng ta sẽ đạt được những hiệu quả nhất định như: 
	 Nâng cao nhận thức của phụ huynh và giáo viên về các nguy cơ không an toàn, tai nạn thương tích và những hậu quả mà trẻ gặp phải.
	 Hình thành ở trẻ những kiến thức sơ đẳng, biết áp dụng và xử lý tình huống khi gặp phả

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN NGỌC.doc