Cô trực tiếp hướng dẫn trẻ
Buổi chiều trong giờ hoạt động chiều, giờ trả trẻ, trong khi chờ phụ huynh đến đón tôi sử dụng máy vi tính để mở nhạc thiếu nhi, phim hoạt hình cho trẻ nghe một vài cháu tò mò tiến lại gần và hỏi tôi đã hướng dẫn và chỉ rõ từng phần của máy vi tính cho trẻ biết nó giúp chúng ta rất nhiều việc như: đánh chữ, nghe nhạc, vẽ hình ngoài ra các con còn có thể chơi rất nhiều trò chơi. Tôi giới thiệu qua cho trẻ biết về các bộ phận của máy tính gồm: màn hình, con chuột, bàn phím, CPU . Sau đó tôi làm chậm một số thao tác cho trẻ xem như: khởi động máy, cách rê chuột, nhấp chuột chọn biểu tượng, thoát chương trình Mỗi buổi như vậy, tôi lựa chọn vài trẻ lên chỉ dẫn cho trẻ làm thử thao tác. Ban đầu các trẻ hơi lúng túng trong việc rê chuột đến biểu tượng và khó mà nhấp liên tục được 2 cái nên tôi đã chỉ bé nhấp vào rồi nhấn Enter, tôi đã cầm tay bé thực hiện. Sau đó cho trẻ tự làm lại vài lần và trẻ đã thực hiện được. Vì có một máy nên không thể cho tất cả trẻ đều thực hiện cùng một lúc được vào những lúc đón trẻ, trả trẻ, giờ chơi tôi đã cùng với giáo viên đứng lớp với mình lần lượt hướng dẫn cho các bé nắm được một số thao tác cơ bản về việc sử dụng máy tính.
, các hình ảnh sống động mà theo phương pháp truyền thống thì khó mà thực hiện được. Cho trẻ tiếp cận với công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy ở trường Mầm Non được diễn ra rất linh hoạt theo hai hình thức chính: hình thức trong giờ hoạt động chung và các hoạt động khác. Việc lựa chọn hình thức cho trẻ làm quen và tiếp cận dựa trên đặc điểm tình hình của trẻ do đó buộc người giáo viên phải lựa chọn hình thức cho phù hợp với trẻ làm sao để trẻ dễ dàng tiếp thu. Qua đó ta thấy được sự cần thiết của việc cho trẻ tiếp cận với công nghệ và ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy và lựa chọn hình thức cho trẻ làm quen với công nghệ thông tin là yếu tố tạo tiền đề cho sự thành công sau này của trẻ. 2. Thực trạng a. Thuận lợi, khó khăn * Thuận lợi Nhà trường luôn sát sao chỉ đạo giáo viên về chuyên môn, thường xuyên dự giờ thăm lớp để nâng cao chất lượng giảng dạy. Lớp có đầy đủ cơ sở vật chất phương tiện công nghệ, trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi phục vụ giảng dạy. Bản thân thường xuyên tham dự những buổi thao giảng, dự giờ, thi giáo viên giỏi các cấp, hội giảng, chuyên đề có ứng dụng công nghệ thông tin do trường, phòng giáo dục tổ chức. *Khó khăn Bản thân chỉ mới tìm tòi học hỏi cách soạn và tạo giáo án trên các phần mềm chưa được học qua các lớp bài bản. Do Phụ huynh học sinh chủ yếu là làm nông, với tính chất công việc là bận rộn, chân lấm tay bùn nên cũng không có thời gian để rèn trẻ, cũng chỉ có một số phụ huynh nhà có máy vi tính nhưng chưa dám cho trẻ tiếp cận. Có một trẻ khuyết tật như bé Thúy Nga (Bệnh đao) tiếp cận thông tin của trẻ cũng bị hạn chế. Qua khảo sát đầu năm khoảng 70% trẻ ở lớp chưa được tiếp xúc với công nghệ thông tin. b. Thành công, hạn chế. * Thành công: 100% Trẻ hứng thú và nhận thức tốt khi được làm quen và tiếp cận công nghệ thông tin trong tiết học (Khám phá khoa học, làm quen chữ cái, làm quen với toán, làm quen với văn học) * Hạn chế: Khả năng và nhận thức của trẻ chưa đồng đều và còn hạn chế. Một số trẻ chưa biết sử dụng máy tính như: di chuyển chuột, nhấp đôi, rê chuột. c. Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh: Trẻ luôn mong đợi và hứng thú khi được tham gia tiết dạy có giáo án điện tử. Một số trẻ ở gia đình đã có máy tính nên trẻ đã được tiếp xúc nhiều nên trẻ nhanh nhẹn và thực hiện tốt khi cô hướng dẫn cách cầm chuột, rê chuột, bấm chuột để chọn, * Mặt yếu: Việc sử dụng máy móc vào trong tiết học chưa được thường xuyên vì máy móc rườm rà, giáo viên chưa có máy tính xách tay. Dễ xảy ra dán đoạn khi dạy như máy hỏng, mất điện, d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động. Qua quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ bản thân luôn gặp khó khăn trong việc tìm các tư liệu làm đồ dùng trực quan khi lên lớp. Việc áp dụng một số phương tiện công nghệ trong giảng dạy là điều cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. (ví dụ: Có hình ảnh thực, có âm thanh,) Bên cạnh đó có các yếu tố chưa tốt ảnh hưởng đến quá trình sử dụng và áp dụng đề tài như: Khả năng nhận thức của trẻ chưa đồng đều. Sự phối hợp giữa cha mẹ học sinh với giáo viên còn lỏng lẻo. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra. Thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ theo hướng tích hợp “Hướng vào trẻ, trẻ là trung tâm”. Đó là quan niệm mọi tác động giáo dục phải vì lợi ích của trẻ. Trẻ là người khởi xướng các hoạt động, trẻ được khuyến khích tham gia vào quá trình giáo dục chứ không thụ động. Trẻ được học qua chơi, qua khám phá thử nghiệm bằng các giác quan. Người lớn giữ vai trò “trung gian”. Tổ chức môi trường, tạo điều kiện cho trẻ hoạt động nhằm phát huy hứng thú, nhu cầu và năng lực của trẻ. Hiện tại trong trường về cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy ở các lớp lá phân hiệu chính tương đối đầy đủ, mỗi lớp có 1 máy vi tính và 1 ti vi màn ảnh rộng. Nhà trường luôn sát sao chỉ đạo giáo viên về chuyên môn, thường xuyên dự giờ thăm lớp để nâng cao chất lượng giảng dạy. Bản thân thường xuyên tổ chức, tham gia những buổi thao giảng, dự giờ, thi giáo viên giỏi các cấp, hội giảng, chuyên đề có ứng dụng công nghệ thông tin tại trường, cụm, phòng giáo dục . Từ đó rút ra được những kinh nghiệm, những bài học để tạo nên những tiết dạy sử dụng công nghệ thông tin đem kiến thức mới lạ đến cho trẻ. Được học thông qua một số phương tiện công nghệ trẻ được mở mang thêm kiến thức mà những tiết học sử dụng phương pháp truyền thống không thể có được (ví dụ: hình ảnh động, video, âm thanh,), trẻ được học qua những trò chơi mang tính tư duy và sáng tạo, những phần mềm giáo dục (Kismart: Ngôi nhà không gian, thời gian của Trudy, ngôi nhà khoa học của Sammy, ngôi nhà toán học của Mili, ngôi nhà sách của Happykid) trẻ được thực hành ngay tại lớp và cô giáo có thể phát hiện ra trẻ nào có khả năng nhanh, chậm,Từ những thực trạng trên với những thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn bản thân chỉ mới tự tìm tòi học hỏi cách soạn và tạo giáo án trên các phần mềm mà chưa qua các lớp đào tạo bài bản. Bên cạnh đó phụ huynh học sinh chủ yếu là làm nông, với tính chất công việc là bận rộn, chân lấm tay bùn nên cũng không có thời gian để rèn trẻ, cũng chỉ có một số phụ huynh nhà có máy vi tính nhưng chưa dám cho trẻ tiếp cận. Qua khảo sát đầu năm khoảng 70% trẻ ở lớp chưa được tiếp xúc với công nghệ thông tin. Thực hiện đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 5-6 tuổi tiếp cận phương tiện công nghệ thông tin tại trường Mầm non Hoa Phượng” bản thân luôn khắc phục những thực tiễn khó khăn, mặt yếu để tìm ra những biện pháp phù hợp với khả năng của trẻ giúp trẻ học tập đạt kết quả tốt nhất. 3. Biện pháp a. Mục tiêu của biện pháp Trẻ hứng thú và nắm được kiến thức sâu hơn khi tham gia các hoạt động có sự can thiệp của phương tiện công nghệ thông tin. Trẻ biết được những kỹ năng cơ bản khi sử dụng máy tính, đàn, Thay đổi trạng thái, không khí trong tiết học bằng những hình ảnh, những video sinh động, tiếng kêu sinh động khơi dậy sự sáng tạo trong tâm hồn trẻ. Trẻ có một số thói quen tốt khi sử dụng công nghệ thông tin ở lớp và ở nhà (vd: chơi xong biết tắt máy, sử dụng chuột,...) Thông qua các tiết dạy có sự can thiệp của công nghệ thông tin trẻ hứng thú và nhận thức tốt hơn, đầy đủ và sáng tạo hơn. Các bậc cha mẹ học sinh nhận thức rõ tầm quan trọng khi cho trẻ tiếp cận với các phương tiện công nghệ thông tin đúng cách. b. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp * Biện pháp 1: Biện pháp giúp trẻ tiếp cận với công nghệ thông tin và những kết quả đạt được: Để giúp trẻ tiếp cận phương tiện CNTT đạt hiệu quả trong hoạt động giảng dạy. Tôi đã tiến hành một số phương pháp : Nắm đặc điểm tâm sinh lý của trẻ trong lớp: Cấu tạo cơ thể, cơ tay của trẻ 5 tuổi còn yếu, chưa linh hoạt nên đối với việc gõ bàn phím còn gặp nhiều khó khăn, sử dụng chuột và thực hiện một số câu lệnh đơn giản như nhấp chuột 2 lần trẻ chưa thực hiện được. Mắt trẻ còn yếu nên thời gian tiếp xúc với máy tính rất ngắn không qúa 30 phút đồng thời giáo viên cũng không quên nhắc trẻ khoảng cách cũng như tư thế khi ngồi trước máy tính. Trẻ chưa ý thức được việc cần thiết hay không cần thiết khi được tiếp cận với Công nghệ thông tin nếu không được sự định hướng, hướng dẫn của người lớn hoặc giáo viên. Trẻ ít được tiếp xúc với máy vi tính, công nghệ thông tin vì đa số phụ huynh làm nông chưa quan tâm đến việc học của trẻ. Chính vì dựa vào những đặc điểm của trẻ đòi hỏi giáo viên cần phải chú ý đến trẻ và tìm ra những biện pháp tạo điều kiện khi được học, chơi trên máy tính như hướng dẫn tiếp xúc thường xuyên với máy tính, cho trẻ được chơi với các phần mềm: ban đầu giáo viên có thể cầm tay hướng dẫn, khi trẻ đã thành thục thì cho trẻ tự thực hiện. Phối hợp cùng phụ huynh Hầu hết gia đình các trẻ không có máy vi tính vì gia đình không sử dụng máy vi tính hoặc cũng có một vài gia đình trẻ có máy vi tính trẻ vẫn không được sử dụng máy vi tính bởi phụ huynh không có thời gian và cũng không muốn cho trẻ tiếp xúc với máy vi tính vì đa phần phụ huynh rất e ngại trong việc cho trẻ tiếp xúc với máy sớm và sợ bé sẽ phá lung tung. Hiểu được suy nghĩ và những lo lắng đó, bản thân tôi đã trực tiếp giải thích và động viên phụ huynh phối hợp cùng tôi. Tôi nhận thấy rằng lời nói, giải thích chưa thực sự tác động đến phụ huynh nên tôi đã xây dựng những giáo án điện tử hấp dẫn, sử dụng hình ảnh sinh động, lạ mắt, mời phụ huynh tham gia dự giờ tiết học của trẻ, cho trẻ tiếp cận, sử dụng Công nghệ thông tin, trẻ được lên nhấp chuột, chọn hình ảnhđể phụ huynh tận mắt chứng kiến và tin tưởng tuyệt đối vào giáo viên, từ đó thay đổi nhận thức về việc cho trẻ tiếp cận Công nghệ thông tin tại nhà. Ngoài ra tôi còn trao đổi với phụ huynh về một số trò chơi trên đĩa phù hợp với trẻ như: bé vui học chữ, bé tập tô màu, Kidsmartkhuyến khích phụ huynh mua đĩa về cho các cháu chơi. Cô trực tiếp hướng dẫn trẻ Buổi chiều trong giờ hoạt động chiều, giờ trả trẻ, trong khi chờ phụ huynh đến đón tôi sử dụng máy vi tính để mở nhạc thiếu nhi, phim hoạt hình cho trẻ nghe một vài cháu tò mò tiến lại gần và hỏi tôi đã hướng dẫn và chỉ rõ từng phần của máy vi tính cho trẻ biết nó giúp chúng ta rất nhiều việc như: đánh chữ, nghe nhạc, vẽ hình ngoài ra các con còn có thể chơi rất nhiều trò chơi. Tôi giới thiệu qua cho trẻ biết về các bộ phận của máy tính gồm: màn hình, con chuột, bàn phím, CPU. Sau đó tôi làm chậm một số thao tác cho trẻ xem như: khởi động máy, cách rê chuột, nhấp chuột chọn biểu tượng, thoát chương trình Mỗi buổi như vậy, tôi lựa chọn vài trẻ lên chỉ dẫn cho trẻ làm thử thao tác. Ban đầu các trẻ hơi lúng túng trong việc rê chuột đến biểu tượng và khó mà nhấp liên tục được 2 cái nên tôi đã chỉ bé nhấp vào rồi nhấn Enter, tôi đã cầm tay bé thực hiện. Sau đó cho trẻ tự làm lại vài lần và trẻ đã thực hiện được. Vì có một máy nên không thể cho tất cả trẻ đều thực hiện cùng một lúc được vào những lúc đón trẻ, trả trẻ, giờ chơi tôi đã cùng với giáo viên đứng lớp với mình lần lượt hướng dẫn cho các bé nắm được một số thao tác cơ bản về việc sử dụng máy tính. Thông qua trò chơi Vào giờ hoạt động vui chơi hay hoạt động chiều, giờ trả trẻ thôi thường cho trẻ được làm quen sử dụng máy vi tính. Để kích thích sự hứng thú của trẻ, thu hút các bé thì tôi đã mua đĩa “Bé vui học chữ”, “Bé tập tô màu” và về cài vào máy để cho các cháu chơi, thông qua việc các cháu chơi tô màu, thì các cháu phải sử dụng những lệnh cơ bản và biết cách sử dụng chuột thành thạo hơn, qua trò chơi nhỏ tôi còn hướng dẫn các bé thêm một số lệnh như: back (trở về), xóa hay lưu các bức tranh sau khi tô màu). Qua trò chơi các cháu biết cách rê chuột nhanh, chính xác hơn, thậm chí có cháu đã biết nhấp chuột được 2 cái liên tục. Ngoài ra, qua trò chơi còn phát triển về mặt thẩm mỹ cho trẻ. Tôi luôn chú ý đến trẻ yếu cho trẻ chơi với trẻ đã biết, đã nắm vững để trẻ tự học lẫn nhau. Sau khoảng vài tuần lớp tôi đã tương đối biết thực hiện một số lệnh cơ bản và mạnh dạn hơn khi sử dụng máy. Sau một thời gian cho các bé làm quen với máy vi tính, tôi thấy các bé rất mạnh dạn khi tôi trình chiếu một vài chương trình cho các bạn xem ( tôi cho trẻ quây quần bên máy vi tính và mở cho trẻ xem vì điều kiện trường không có máy chiếu). * Biện pháp 2: Hình thức cho trẻ làm quen với máy vi tính qua giờ hoạt động chung. Cho trẻ tiếp cận với Công nghệ thông tin trong các Hoạt động chung sẽ đem lại hiệu quả cao nếu giáo viên biết cách xây dựng và sáng tạo trong tiết học như sử dụng hình ảnh sinh động, các hiệu ứng, các trò chơi hấp dẫn. Trong hoạt động này sử sụng đồ dụng trực quan rất có hiệu quả. Đồ dùng trực quan có thể là tranh ảnh, mô hình, vật thật..đây là yếu tố không thể thiếu được trong việc dạy trẻ, vì trẻ chỉ lĩnh hội kiến thức khi được trực tiếp tri giác các đối tượng. Đồ dùng trực quan càng đẹp, càng hấp dẫn thì càng thu hút được trẻ. Nắm bắt được điều này khi cho trẻ hoạt động học tập nhưng cũng có một số đề tài, ta không thể trực tiếp cho trẻ quan sát bằng vật thật được (quan sát một số con vật sống trong rừng, tìm hiểu về các loài chim) cũng như muốn đảm bảo được tiết dạy sinh động, trẻ hứng thú, hoạt động tích cực tôi đã lên mạng Internet tìm tư liệu phục vụ tiết dạy Ví dụ: Khi dạy trẻ tìm hiểu một số con vật sống trong rừng: trẻ cần phải biết tên gọi, hình dáng, các bộ phận, thức ăn, nơi sống, tiếng kêu, thói quen của các con thú. Nếu sử dụng tranh sẽ rất hạn chế và không mang lại hiệu quả trẻ hoạt động tích cực. Hiểu được điều này tôi đã tìm tư liệu và xây dựng tiết dạy trên Powerpoint. Trẻ rất hứng thú khi được quan sát video về các con vật, đặc biệt trẻ tập trung chú ý khi được xem video các con vật đang rình bắt mồi, các con vật đang đùa giỡn, các con vật gọi đàn . Để trẻ không thụ động trong học tập chỉ ngồi xem và nghe, tôi thường gọi trẻ, dùng những câu hỏi kích thích tư duy trẻ phát triển và cho trẻ lên sử dụng máy như nhấp chuột để tìm hiểu các con vật khác, hay lên chơi trò chơi “Tìm thức ăn cho tôi”, trẻ phải nhấp chuột vào những thức ăn mà các con vật thường ăn (sư tử ăn thịt các con vật, khỉ ăn chuối, voi ăn mía lá cây) Sử dụng hiệu ứng vào trong tiết dạy giúp trẻ hứng thú: Ví dụ: Với bài dạy Khám phá khoa học các phương tiện giao thông đường thủy ở chủ đề “Phương tiện giao thông” tôi scan những hình ảnh tàu thủy, ca nô, ghe. lên máy vi tính, dưới những hình ảnh có từ kèm theo. Khi dạy đến phương tiện nào thì hình ảnh đó xuất hiện kèm theo từ, trẻ phương tiện nào học rồi thì khi nhấp chuột vào những phương tiện đó sẽ chuyển màu. Khi cô giới thiệu tàu thủy thì hiệu ứng sẽ chuyển màu và xuất hiện ở dạng font to, hoặc khi phân tích tàu thủy và ghe và so sánh thì 2 phương tiện này sẽ nhấp nháy, những nét nào giống nhau thì sẽ xuất hiện và có màu giống nhau. Sử dụng các phần mềm giáo dục (Photoshop, Kidspix, Kidsmart, Happykids) để trẻ được tiếp cận Công nghệ thông tin. Tận dụng những đĩa phần mềm Kidsmart, Photoshop, Kidspix trường cấp phát nên tôi cũng đã ứng dụng vào trong tiết dạy của mình để tiết dạy thêm phần hiệu quả. Ví dụ: Trò chơi: “ Truy tìm ẩn số”. Trẻ sẽ lên chọn ô số nào mình thích. Ở mỗi ô cửa sổ sẽ có 1 câu đố về hình dáng phương tiện, (con vật) của đó. Bạn nào đoán đúng câu đố thì bức tranh mới hiện ra và dưới mỗi bức tranh sẽ có hình ảnh và trẻ sẽ phải trả lời câu hỏi của cô dưới bức tranh. Khi đã mở được hết tất cảc các ô cửa sổ thì 1 bạn sẽ đứng lên kể lại nội dung câu chuyện dựa những bức tranh trên theo suy nghĩ của trẻ. Ngày nay việc giảng dạy và ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy không còn là điều mới mẻ với chúng ta, nhưng ở cấp bậc mầm non thì vấn đề này chưa được phổ biến rộng rãi, chỉ có ở khối Lá những năm trước và năm nay là khối Chồi được tiếp cận nhưng cũng chưa nhiều. Việc sử dụng đồ dùng trực quan trên máy vi tính còn mang lại cho trẻ hứng thú và kích thích trẻ tham gia vào hoạt động hơn nữa bởi trên máy vi tính các hình ảnh xuất hiện và mất đi hay kèm theo các hiệu ứng mới lạ hấp dẫn theo ý muốn của giáo viên, trẻ sẽ tập trung sự chú ý trước những điều mới lạ, tiết học sẽ càng đạt hiệu quả hơn. Qua những ví dụ minh họa ở trên, tôi thấy hình thức cho trẻ tiếp cận với máy vi tính và ứng dụng công nghệ thôn tin vào trong giờ hoạt động chung hình thức rất cơ bản giúp người giáo viên đạt được mục đích của giờ hoạt động. Ngoài ra tùy theo nội dung của từng nội dung và chủ đề mà giáo viên có thể lựa chọn hình thức tổ chức giờ hoạt động phù hợp nhằm tạo ra cho trẻ một trạng thái thật thoải mái, gần gũi với cuộc sống thực,“học mà chơi, chơi nhưng mà học” * Kết quả: Điều này quả đã mang lại cho trẻ sức hấp dẫn mới lạ, làm trẻ hứng thú nhiều, tiếp thu được bài học tốt nhanh. Trẻ tích cực hoạt động hơn không còn nói chuyện trong giờ học, cũng như kích thích được tư duy trẻ phát triển. * Biện pháp 3: Hình thức cho trẻ làm quen với máy vi tính, đàn hoạt động khác và qua góc học tập, hoạt động vui chơi, góc nghệ thuật Với chương trình giáo dục mầm non mới và đổi mới trong phương pháp giáo dục thì phương pháp dạy tích hợp nhiều nội dung cũng được lồng ghép trong một giờ hoạt động chung. Việc cho trẻ tiếp cận với công nghệ thông tin không chỉ được tiến hành qua các bài thơ, truyện mà còn được dạy thông qua các giờ hoạt động chung khác như: Tạo hình, Âm nhạc,môn Khám phá khoa học Ví dụ: ở môn Tạo hình: cho trẻ vẽ con vịt, trước khi vẽ tôi cho trẻ xem, nghe tiếng vịt kêu trên máy vi tính. Sau đó tôi hướng dẫn trẻ vẽ, trẻ rất hứng thú và hoạt động tích cực hơn. Ví dụ : Ở giáo dục âm nhạc với phần trò chơi âm nhạc, tôi sử dụng đàn để dạy trẻ hát và vận động , khi chơi trò chơi âm nhạc tôi sử dụng máy vi tính để chơi chiếc đĩa hát kì diệu Ví dụ: Tiết khám phá khoa học ( Chủ đề Tết và mùa xuân) dưới mỗi bông hoa sẽ có 1 hình ảnh trẻ sẽ nhìn hình ảnh và nói lên hoạt động của ngày tết cổ truyền ở Việt Nam Hay khi cho trẻ chơi với củng cố ở tiết Khám phá khoa học chủ đề : Phương tiện giao thông. Như vậy, cho trẻ tiếp cận với thông tin và ứng dụng thông tin qua giờ hoạt động chung cũng là hình thức rất cơ bản để giúp trẻ nắm đựơc những kĩ năng cần thiết khi bước vào trường phổ thông. Bên cạnh đó thì việc tạo môi trường cho trẻ làm quen cũng giúp trẻ ngày càng tự tin, mạnh dạn tìm hiểu khám phá cũng không kém phần quan trọng * Cho trẻ làm quen công nghệ thông tin qua các hoạt động ngoài giờ Theo lịch sinh hoạt hằng ngày của trẻ vào lúc 3h trẻ sẽ được ra hoạt động chiều, ngoài việc dạy trẻ theo chương trình phân phối , Tôi còn hướng dẫn trẻ các thao tác cơ bản khi sử dụng máy vi tính như : nhấp chuột, mở loa, xóa (delete), quay lại (Back), nhấp đôi chuộthay chơi các trò chơi trên máy vi tính : Làm cho hoa đào nở (Excel), đưa thú về chuồng, chọn giày cho bạn (đĩa Kidsmart)trẻ rất thích. * Biện pháp 4: Hình thức cho trẻ tiếp cận phương tiện công nghệ thông tin qua việc tuyên truyền phối hợp với phụ huynh. Hiện nay trước tình hình trẻ em quá ham chơi game đã làm cho phụ huynh rất e ngại trong việc cho trẻ tiếp xúc với máy vi tính sớm. Họ lo sợ cho trẻ nếu trẻ biết sử dụng máy vi tính quá sớm thì trẻ sẽ ham chơi game và một khi trẻ đã quá mê mẫn với trò chơi mà ngồi lâu trên máy thì rất có hại đến sức khỏe của trẻ. Mắt của trẻ còn yếu nên thời gian tiếp xúc với máy rất ngắn không quá 30 phút và chúng ta không quên nắm rõ khoảng cách của trẻ ngồi so với máy vi tính. Nếu chúng ta không nhắc nhở trẻ ngồi đúng khoảng cách và tránh việc để trẻ tha hồ ngồi trên máy tùy thích sẽ rất ảnh hưởng đến sức khỏe và dễ dẫn đến cận thị. Do đã được học về công nghệ thông tin và chương trình Kidsmart nên tôi đã ứng dụng vào trong giảng dạy, bên cạnh đó tôi thường xuyên lên mạng Internet tìm tài liệu cũng như học hỏi kinh nghiệm của các anh chị làm bên công nghệ thông tin. Những Tài liệu như Đĩa trò chơi, chương trình giúp trẻ phát triển tư duy như (bé yêu học chữ cái, bút chì thông minh, ngôi nhà toán học,) được dowloand từ trên mạng về tôi thường chia sẻ với đồng nghiệp và phụ huynh như mang USB đến lớp coppy để ở nhà trẻ có thể được luyện tập thêm. Sau quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài tôi thấy trẻ lớp tôi rất thích và hứng thú khi tham gia vào các hoạt động có liên quan. c. Điều kiện để thực hiện biện pháp Giáo viên tự tin và có một số kinh nghiệm trong việc soạn giảng trên các công nghệ thông tin: Giáo án điện tử, đàn, Trường có đầy đủ trang thiết bị: Ti vi màn ảnh rộng, máy chiếu, Trẻ mầm non lứa tuổi 5- 6 tuổi. Cùng cha mẹ học sinh quan tâm đến con em mình. d. Mối quan hệ giữa các biện pháp Các biện pháp có mối quan hệ tương trợ lẫn nhau là mắt xích quan trọng liên kết từ biện pháp này qua biện pháp khác. Làm tốt nội dung của biện pháp này đồng nghĩa với việc đã hoàn thành biện pháp kia. e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. 100% trẻ hứng thú và nhận thức tốt hơn khi tham gia tiết học có ứng dụng công nghệ thông tin. Giáo viên tiết kiệm được thời gian và kinh phí cho việc làm đồ dùng vì với giáo viên mầm non hiện nay lượng công việc rất nhiều. 4. Kết quả: Qua việc giúp trẻ tiếp cận một số phương tiện công nghệ thông tin, tôi thấy những cháu ở lớp lá 1 tôi thực hiện đề tài tuy không hoàn toàn là đã thuần thục với máy vi tính như các cháu ở trườ
Tài liệu đính kèm: