Kết hợp với phụ huynh và giáo viên.
Trẻ mầm non rất dễ nhớ nhưng cũng rất dễ quên “trẻ học mà chơi, chơi mà học” sự ghi nhớ không có chủ định, do đó việc dạy cho trẻ một số kiến thức không chỉ dừng lại trong tiết học mà phải được dạy ở mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống hàng ngày. Để trẻ có thể khắc sâu những gì đã học được trong lớp, trong trường cùng bè bạn, cô giáo, tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh vào giờ đón trẻ để hiểu được tính cách, năng lực, trình độ của từng cá nhân trẻ và để phụ huynh rèn luyện thêm cho trẻ khi về nhà.
Tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh hỗ trợ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm ra nhiều đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ môn học Khám phá khoa học.
Ngoài ra bản thân tôi tổ chức họp phụ huynh, thông báo với các cha mẹ các cháu, ở nhà giúp trẻ để luyện thêm cho trẻ những lúc trẻ không đến lớp, trao đổi với cha mẹ sưu tầm mua những loại tranh ảnh minh họa để phục vụ cho môn khám phá khoa học, vận động phụ huynh sưu tầm đồ dùng phục vụ học
Thường xuyên giao nhiệm vụ cho trẻ thông qua phụ huynh. Ví dụ: Trẻ A, trẻ B rất thích kể chuyện cho bố mẹ nghe, trẻ C, trẻ D rất hay hỏi về những gì lạ xung quanh. Trao đổi với phụ huynh mua cho trẻ những quyển sách tranh, ảnh hoặc lô tô về con vật, cây cỏ phù hợp với lứa tuổi giúp trẻ được mở rộng biểu tượng về sự vật xung quanh.
trẻ đến lớp sớm để trẻ phát âm Tiếng Việt rõ ràng hơn. Trang thiết bị và một số dụng cụ khoa học của trường còn hạn chế như (kính lúp, máy ảnh) - Nguyên nhân chủ quan: Khi thực hiện đề tài để trẻ tiếp thu và tham gia khám phá một cách tích cực thì đòi hỏi giáo viên phải luôn tìm tòi học hỏi nâng cao kiến thức vì vậy mà giáo viên có thêm nhiều biện pháp giúp cho trẻ học tốt hơn. Giáo viên có trình độ chuyên môn, được đào tạo qua trường lớp, nắm vững phương pháp, có thêm nhiều kinh nghiệm hơn. Trẻ mạnh dạn, tự tin và tự mình khám phá ra kết quả. Để tổ chức tốt cho trẻ giáo viên phải biết cả tiếng Êđê để có thế hiểu được trẻ muốn gì cần gì vì vậy còn gặp khó khăn trong việc cho trẻ tiếp xúc với tiếng việt. Cơ sở vật chất của trường đảm bảo đầy đủ, có tivi đầu đĩa phục vụ cho việc giảng dạy. 80% trẻ là người dân tộc thiểu số nên việc nói tiếng việt chưa thành thạo * Nguyên nhân khách quan: Giáo viên nắm được phương pháp, có nhiều kinh nghiệm hơn tuy nhiên sự sáng tạo và linh hoạt trong quá trình tổ chức chưa cao vì vậy mà chất lượng và sự sáng tạo trong các hoạt động chưa hiệu quả vì thế chưa lôi cuốn và thu hút được trẻ. Giáo viên tổ chức hoạt động còn cứng chưa có nhiều biện pháp mới lạ nên chưa thu hút được trẻ, trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn và tự tin tham gia hoạt động. Giáo viên chưa thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với tiếng Việt (Trong các hoạt động mọi lúc mọi nơi) mà đa phần trẻ được tiếp xúc với Tiếng Việt thông qua các môn học có các từ khó để phát triển ngôn ngữ tiếng Việt cho trẻ. Chính vì nhìn thấy những điều bất cập trong việc tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh, bản thân tôi đã mạnh dạn tìm tòi, học hỏi để tìm cho mình những biện pháp có thể áp dụng trong quá trình thực hiện nhằm giúp trẻ học tốt hơn. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp a. Mục tiêu của biện pháp Những giải pháp, biện pháp nêu ra trong đề tài nhằm mục tiêu giúp trẻ tham gia vào các hoạt động với tâm thế phấn khởi, vui tươi, thích thú, phát triển các khả năng của trẻ như: quan sát, so sánh, ghi nhớ, chú ý Phát triển toàn diện 5 mặt phát triển cho trẻ nhằm hoàn thiện nhân cách và kỹ năng sống cho trẻ. Thúc đẩy quá trình học tập của trẻ ở trường lớp ngày càng đạt kết quả tốt hơn. Bởi vì khi trẻ tham gia vào tất cả các hoạt động thì bắt buộc trẻ phải tư duy, nhận biết, ghi nhớ và đó cũng là tiền đề để trẻ tiếp tục phát triển ở phổ thông sau này. Giáo dục trẻ sống gần gũi với thế giới xung quanh trẻ. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp Từ việc khảo sát chất lượng đầu năm của trẻ lớp lá 1 phân hiệu Buôn K62 trường Mầm non Hoa Hồng tôi đã tìm ra những biện pháp nhằm giúp trẻ dân tộc thiểu số học tốt môn khám phá khoa học. * Biện pháp 1: Chuẩn bị các điều kiện và phương tiện cho trẻ làm quen với trò chơi hoạt động khám phá - Môi trường trong và ngoài lớp: Môi trường là yếu tố trực tiếp tác động hằng ngày đến trẻ. Môi trường trang trí lớp, môi trường học tập, môi trường vui chơicó vai trò quan trọng đến giáo dục trẻ. Đối với việc trang trí môi trường lớp học tôi luôn quan tâm hàng đầu. Ở mỗi chủ đề tôi luôn dành thời gian nghiên cứu thiết kế môi trường lớp học sao cho phù hợp với chủ đề mà trẻ khám phá, tìm hiểu về các sự vật thông qua hình ảnh trang trí đó. Bên cạnh đầu tư trang trí phù hợp với chủ đề, bản thân cũng chú trọng đến việc làm đồ dùng đồ chơi tự làm ở các góc và sắp xếp đồ dùng sao cho thu hút trẻ, vừa tạo cho trẻ khám phá, trải nghiệm thông qua hoat động góc. Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề: “Thế giới thực vật’ Ở góc thiên nhiên là góc dành riêng cho trẻ để khám phá cây xanh. Ở góc này tôi trồng rất nhiều cây xanh. Tôi bố trí sẵn bình nước tưới, chăm sóc cây để khi trẻ tham gia ở hoạt động góc để trẻ vừa chăm sóc cây và khám phá các loại cây. Trong quá trình chăm sóc ở góc thiên nhiên, trẻ được hình thành kỹ năng, kỹ xảo lao động, được bồi dưỡng phẩm chất yêu lao động, yêu thiên nhiên, có ý thức trách nhiệm trong công việc được giao. Thông qua hoạt động vui chơi ngoài trời giáo viên cho trẻ khám phá về một số loại cây như: cây ăn quả; cây lấy gỗ và cho bóng mát, cây ăn rau, cây làm thuốc để chữa bệnh. Giáo viên cung cấp thêm kiến thức cho trẻ ăn rau nhiều sẽ cung cấp Vitamin cho cơ thể và giúp cho da dẻ hồng hào. Tuy công dụng khác nhau nhưng quá trình sinh trưởng và phát triển của chúng tương đối giống nhau. - Môi trường trong lớp: Ngoài những đồ dùng đồ chơi nhà trường cấp thì bản thân tôi tự tìm tòi những đồ dùng đồ chơi và tranh ảnh sinh động và phù hợp với chủ đề phục vụ cho hoạt động dạy học. Để có những đồ dùng đồ chơi tự tạo đẹp mắt và sáng tạo thân thiện và hấp dẫn tôi tận dụng những nguyên vật liệu thiên nhiên như các loại lá, cánh hoa, củ, quả, hạt cát, vỏ trứng, vỏ hến, vỏ ốcđể sử dụng làm sản phẩm tạo hình hay làm một số đồ chơi phù hợp với chủ đề. Tôi tổ chức cho trẻ thành các nhóm để tạo ra sản phẩm từ đó hỏi trẻ đã tạo được gì, trẻ hứng thú kể và có những biểu tượng về đối tượng được khám phá. Với những đồ dùng đồ chơi nhà trường đầu tư và bản thân tự làm đã sử dụng khai thác rất hiệu quả vào trong các tiết dạy và hoạt động khác trong ngày điều đó cho thấy trẻ rất hứng thú học. * Biện pháp 2: Thường xuyên trau dồi sự hiểu biết của trẻ, kích thích tính tò mò của trẻ. Việc đưa trẻ vào với môi trường xung quanh hay nói rõ hơn là trẻ khám phá khoa học, điều đầu tiên mà tôi quan tâm là lượng kiến thức của trẻ có thực sự phù hợp và lĩnh hội các chủ điểm hay không. Hơn nữa, nếu trẻ đã có lượng kiến thức nhất định rồi thì việc khám phá sẽ dễ dàng hơn và có ý nghĩa, hiệu quả hơn rất nhiều bên cạnh đó phát triển được tư duy cho trẻ. Ví dụ: Khi đàm thoại về các mùa trong năm, cô kể cho trẻ nghe về mùa xuân và mùa hè. Sau đó cô hỏi trẻ còn mùa nào trong năm mà cô chưa kể để phát triển thêm tư duy, trí nhớ của trẻ và trẻ sẽ dùng lời nói để kể lại những gì mà trẻ biết. Khi chúng ta làm một việc gì, tìm hiểu hay khám phá một điều gì trong mỗi chúng ta đều phải có một ít hiểu biết nhất định về điều đó để có thể đặt ra câu hỏi “Tại sao”,...và tìm cách giải quyết chúng. Trẻ nhỏ cũng vậy, trẻ cũng có cách nghĩ riêng của trẻ có điều khả năng thu thập thông tin của trẻ còn hạn chế và khả năng phân tích tổng hợp của trẻ hầu như chưa chính xác vì vậy trẻ gặp khó khăn trong bất cứ vấn đề nào trẻ muốn tìm hiểu. Dựa vào những điều trên nên tôi chọn biện pháp thường xuyên trau dồi sự hiểu biết của trẻ, kích thích tính tò mò của trẻ là vấn đề mấu chốt trong đề tài này. Trẻ đến lớp được cô giáo truyền đạt kiến thức ở mọi lúc mọi nơi, bản thân tôi khi lên lớp luôn cố gắng thu thập những điều mới lạ đối với trẻ từ đó tạo cho trẻ có sự quan tâm và muốn tìm hiểu, Ví dụ: Với hoạt động khám phá về con Cua sau khi trẻ đã tìm hiểu được đặc điểm của con cua có hai càng và tám chân, tôi đặt câu hỏi gợi mở: Các con có biết con cua đi như thế nào không? để trẻ trả lời. Như vậy không những trẻ biết được đặc điểm của con cua mà còn biết môi trường sống của chúng, cách vận động, các bộ phận cơ thể ra sao. Khi đã nắm rõ đặc điểm, trẻ quan sát kỹ hơn từ đó so sánh rất rõ ràng và phân loại cũng rất tốt. Thường xuyên trò chuyện và dạy cho trẻ cách quan sát, khám phá sự vật một cách khoa học và logic, rèn cho trẻ khả năng đặt câu hỏi và tìm ra câu trả lời. Sử dụng tranh ảnh, mô hình có kích thước, chất liệu khác nhau để tổ chức cho trẻ xem theo nhóm hoặc cá nhân, khi xem giáo viên có thể trò chuyện với trẻ về nội dung của tranh ảnh, mô hình hoặc có thể giao nhiệm vụ cho trẻ để trẻ nói được các đối tượng được quan sát. Ví dụ: Cho trẻ xem tranh gà mái đang ấp trứng và đặt ra các câu hỏi: Con gà mái đang làm gì?, Gà mái ấp trứng như thế nào?, Gà mái ấp trứng để làm gì?... * Biện pháp 3: Sử dụng một số trò chơi nhằm tạo sự hứng thú cho trẻ hoạt động và xây dựng môi trường cho trẻ khám phá Đối với trẻ mầm non thì việc “Học mà chơi - chơi mà học” sẽ giúp trẻ tiếp thu những kiến thức một cách dễ dàng và sâu sắc nhất. Sau thời gian trò chuyện, đàm thoại với cô trẻ được hoạt động, được tham gia vào các trò chơi hứng thú. Qua đó, trẻ không chỉ ngồi nghe cô nói và trả lời các câu hỏi của cô mà trẻ còn có cơ hội để bộc lộ các hiểu biết của mình thông qua các trò chơi. Ngoài ra trò chơi còn có tác dụng củng cố, bổ sung và phát triển thêm các tri thức mà trẻ vừa lĩnh hội, tái tạo lại biểu tượng đã học thông qua những hoạt động thực tiễn. Do đó việc tổ chức cho trẻ tham gia vào các trò chơi củng cố trong giờ hoạt động khám phá là rất quan trọng. Trò chơi càng phong phú đa dạng bao nhiêu thì các tri thức trẻ lĩnh hội càng sâu sắc và trẻ càng nhớ lâu bấy nhiêu. Trò chơi vận động: Cho trẻ chơi: Gieo hạt nảy mầm, từ đó trẻ hứng thú chơi và hình thành cho trẻ biết được quá trình phát triển của cây. Hoặc sử dụng trò chơi: Trời nắng, trời mưa, mèo đuổi chuột. Dùng để gây hứng thú hoặc chơi củng cố, tạo sự hứng thú cho trẻ, trẻ được chơi được giải tỏa căng thẳng. Trẻ mẫu giáo chủ yếu là tư duy trực quan hình tượng, với trẻ thì những gì mới lạ đẹp mắt hấp dẫn là gây được sự chú ý của trẻ. Nhưng trong môn học này không phải cứ đưa trẻ đi ra ngoài và cho trẻ tự do khám phá là có hiệu quả. Bản thân tôi phải tìm những địa điểm, đề tài phù hợp với khả năng của trẻ, phù hợp với vốn hiểu biết của trẻ và gần gũi với trẻ. Cho trẻ quan sát những đối tượng tùy vào khả năng của trẻ, cho trẻ làm quen với những sự vật hiện tượng đơn giản và dễ hiểu Ví dụ: Góc học tập cho trẻ xem hình ảnh, vẽ, nặn những gì mà trẻ đã học được, dạy cho trẻ cách làm một cơn mưa từ những xoa nước nhỏ. Góc xây dựng cho trẻ xây vườn trường, sở thú,... Để từ đó trẻ có thể nhớ lại kiến thức hay làm tăng tính tò mò của trẻ, giúp trẻ có hứng thú trong buổi học ngoài trời hơn. Mặt khác các hệ thống câu hỏi khi đặt ra phải phù hợp với học sinh đẻ trẻ có thể trả lời một cách lưu loát khi cô đặt câu hỏi, không nên làm cho trẻ chán nản vì trẻ dân tộc thiểu số khi trả lời được câu hỏi của cô thì trẻ rất vui sướng. Bởi vậy trong tiết dạy bản thân tôi vừa cho trẻ khám phá vừa phân tích cho trẻ thấy được những đồ vật, con vật những sự vật xung quanh từ dễ đến khó, sau một lần trẻ trả lời được tôi kịp thời khen trẻ để trẻ phát huy nhiều hơn nữa trong việc khá phá về môn học đó. Môi trường hoạt động cho trẻ cũng rất quan trọng, trẻ được vận động trong điều kiện rộng rãi, thoải mái, làm tăng sự hoạt động của các cơ quan trong cơ thể, tăng sự trao đổi chất, rèn luyện sự thích nghi với tác động của các yếu tố tự nhiên, tăng cường sức đề kháng của cơ thể. Giúp trẻ mở rộng thêm tầm hiểu biết về sự vật hiện tượng xung quanh, làm giàu xúc cảm thẩm mỹ, trẻ được mở rộng diện tiếp xúc, được trực tiếp quan sát tiếp xúc các sự vật hiện tượng sống động trước mắt làm phong phú vốn biểu tượng và giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của môi trường xung quanh. Tạo điều kiện để trẻ vận dụng những hiểu biết, kiến thức, kỹ năng đã học và hoàn cảnh thực tiễn. Vì vậy việc lựa chọn môi trường sao cho phù hợp với trẻ là rất quan trọng. Tôi luôn tìm chọn những địa điểm thực sự gần gũi và gây hứng thú với trẻ dựa trên thực tế mà trường mình có: Bóng mát của các cây trong trường, bồn hoa Trên cơ sở đó tôi biến những điều không có thành có bằng cách khi cho trẻ ra dạo chơi tôi bí mật giấu một đồ vật mà tôi muốn trẻ tìm hiểu rồi tạo tình huống cho trẻ thấy. Khi đó trẻ sẽ tò mò và cùng xúm quanh tôi lại tìm hiểu đặt câu hỏi, như vậy tự nhiên tôi đã có một môi trường học tập thật sự gây hứng thú cho các cháu, và các cháu lại được gần gủi với cô rất là thân thiện. Ví dụ: Cho trẻ quan sát bồn hoa của lớp, cô cho trẻ quan sát và tự nói lên những hiểu biết của mình như: Đó là hoa gì? Hoa có đặc điểm gì? Lợi ích của hoa Qua đó, cho trẻ nói lên những suy nghĩ của mình về môi trường đó và từ đó rút ra kết luận. Hình ảnh trẻ quan sát bồn hoa * Biện pháp 5: Biện pháp cho trẻ khám phá khoa học ở mọi lúc, mọi nơi, trong các hoạt động hàng ngày của trẻ. Không chỉ những hoạt động nêu trên mà còn rất nhiều hoạt động trong ngày ở trường mầm non để giúp trẻ học tốt môn Khám phá khoa học. Vì vậy tôi thường xuyên quan sát trẻ, ghi chép vào sổ để theo dõi, đánh giá quá trình phát triển, những kĩ năng cần thiết chuẩn bị cho việc khám phá các hoạt động tiếp theo của trẻ nhằm điều chỉnh các biện pháp giáo dục đối với từng cá nhân trẻ cho phù hợp và đạt được chất lượng tốt hơn. Ví dụ: Hoạt động làm quen văn học: Cho cháu đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch, kể chuyện sáng tạo theo chủ đề chủ điểm. Nhằm tích lũy cho trẻ về tên gọi của động thực vật, các sự vật hiện tượng. Để trẻ học tốt hơn thì giáo viên cho trẻ quan sát, thực hành ở moi lúc mọi nơi, trẻ được rèn luyện nhiều sẽ giúp trẻ hiểu biết và khăc sâu hơn về các hiện tượng và môi trương xung quanh, phân biệt được các sự vật hiện tượng, đặc điểm rõ nét và đa dạng. Trẻ nói được rất nhiều và phát triển hơn so với yêu cầu, giải thích được những câu hỏi: Tại sao? Như thế nào?. Trẻ vui, tò mò, thích thú, thoải mái cười nói, phát sinh tình yêu sự tôn trọng và bảo vệ thiên nhiên, sự vật xung quanh. Trẻ hình dung và vẽ, nặn thông qua các buổi học ngoài trời, vận động minh họa sinh động đa dạng qua các bài hát. Trong giờ khám phá một số luật lệ giao thông đường bộ cô có thể đọc câu đố, hò vè để trẻ đoán, từ đó giúp trẻ tư duy, ghi nhớ và trả lời đúng câu hỏi của cô. Ví dụ: Cô đọc cho trẻ nghe câu đố: Một hình vuông màu xanh Hình tam giác bên trong Có thêm một hình người Đang đi trên vạch kẻ Đố trẻ biết đó là biển báo gì? Ngoài ra khi cho trẻ dạo chơi trong thiên nhiên trẻ rất thích thú, khi cô cùng trẻ vẽ những chiếc lá rụng hay những chồi cây non. Giáo viên cho trẻ quan sát vườn hoa trẻ muốn hái vài bông hãy nói với trẻ những bông hoa cần ở trên cành để mọi người cùng thưởng thức vẽ đẹp, nên các con không được hái những bông hoa đó và nếu các con muốn có những bông hoa đó hãy dạy trẻ cách vẽ ra giấy. Đó là cách giáo dục hiệu quả đối với trẻ. Trong tiết dạy nào bản thân tôi cũng phải cho trẻ làm quen với các đồ vật, sự vật để trẻ có thể gần gũi với vật đó khi khám phá trẻ tìm tòi sâu hơn và có kết quả hơn. Ngoài ra trong các môn học: Làm quen với toán, làm quen chữ cái, giáo dục thể chất, hoạt động tạo hình, giáo dục âm nhạc, hoạt động vui chơi, Trẻ nhỏ nhìn nhận về thế giới, về môi trường xung quanh mình theo một góc độ tổng thể. Chúng học từ mọi thứ xảy ra xung quanh mình và không phân chia theo từng môn, từng lĩnh vực khác nhau. Chính vì thế, việc tổ chức cho trẻ học cần phải được thực hiện tích hợp trong một tổng thể chung. Thông qua những hoạt động tích hợp đó trẻ sẽ hiểu kiến thức và kỹ năng liên quan đến nhau như thế nào. Hoạt động học của lĩnh vực này sẽ được lồng ghép hoặc chuyển sang hoạt động học của lĩnh vực khác một cách tự nhiên giúp trẻ không bị nhàm chán. Ví dụ: Trong hoạt động tìm hiểu cây hoa hồng, giáo viên giúp trẻ nhận biết đặc điểm cánh hoa bằng việc cho trẻ sờ cánh hoa để cảm nhận cánh hoa mịn và nhẵn, các mép lá có răng cưa, cho trẻ ngửi hoa để biết mùi thơm của hoa hồng. Từ việc được quan sát kỹ, có đầy đủ các đặc điểm của đối tượng trẻ so sánh rất tốt và phân loại rất nhanh. Việc tổ chức các môn học lồng vào các môn học khác là một phần quan trọng trong quá trình học của trẻ, là sự gần gũi để trẻ học, để thúc đẩy trẻ khám phá, tìm tòi, khám phá. Học qua chơi sẽ giúp trẻ nhận thức đúng đắn và đưa ra quyết định lựa chọn, thực hành, duy trì và bày tỏ cảm xúc. Chơi có tổ chức sẽ giúp phát triển và mở rộng sức sáng tạo, các kỹ năng nghe và nói, các kỹ năng xã hội và tính cách, khả năng sử dụng ngôn ngữ đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực như âm nhạc, làm quen chữ cái, tạo hình, toán bản thân tôi chính là người tạo điều kiện để trẻ chơi như là một phần của quá trình học của mình. * Biện pháp 6: Tạo điều kiện cho trẻ trải nghiệm, suy luận, phán đoán và đưa ra kết luận. Cho trẻ xem một số thí nghiệm thông qua các chủ đề như sau: Hình ảnh thí nghiệm Chủ đề: Các hiện tượng thiên nhiên. Cô làm thí nghiệm “Tìm hiểu về nước”. Giáo viên dùng hai ly nước, một ly nước trong suốt và một ly nước cô đã pha sữa bột vào, cô cho hai chiếc thìa vào hai ly và cho trẻ quan. Sau một hồi quan sát cô hỏi trẻ: Các con có thấy được chiếc thìa ở mỗi ly không? Tại sao ly nước thì thấy được thìa còn ly sữa thì không thấy được thìa? (trẻ đưa ra ý kiến theo suy nghĩ của trẻ. Sau đó, cô tổng hợp ý kiến và đưa ra kết luận là do nước trong suốt, không màu, không mùi, không có vị) Chủ đề: Thế giới thực vật: Cô và trẻ tiến hành gieo ba chậu hạt rau ở góc thiên nhiên. Hàng ngày cô và trẻ theo dõi, quan sát sự phát triển của cây. Sau khi nảy mầm thì mang ba chậu để ở mỗi nơi và được chăm sóc khác nhau: Một chậu thường xuyên được tưới nước, có ánh sáng, không khí. Một chậu có ánh sáng, không khí nhưng không tưới nước. Một chậu có nước, có không khí nhưng không có ánh sáng. Cô giao nhiệm vụ cho các tổ quan sát và nhận xét về các chậu rau: Sau một thời gian chậu rau nào tươi tốt? vì sao? Để cây xanh phát triển tốt, ta phải làm thế nào? Từ những ý kiến của trẻ, giáo viên tổng hợp lại và đưa ra kết luận chung: Muốn cây xanh phát triển tốt thì ta phải cung cấp đầy đủ đất, nước, ánh sáng, không khí. * Biện pháp 7: Kết hợp với phụ huynh và giáo viên. Trẻ mầm non rất dễ nhớ nhưng cũng rất dễ quên “trẻ học mà chơi, chơi mà học” sự ghi nhớ không có chủ định, do đó việc dạy cho trẻ một số kiến thức không chỉ dừng lại trong tiết học mà phải được dạy ở mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống hàng ngày. Để trẻ có thể khắc sâu những gì đã học được trong lớp, trong trường cùng bè bạn, cô giáo, tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh vào giờ đón trẻ để hiểu được tính cách, năng lực, trình độ của từng cá nhân trẻ và để phụ huynh rèn luyện thêm cho trẻ khi về nhà. Tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh hỗ trợ nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm ra nhiều đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ môn học Khám phá khoa học. Ngoài ra bản thân tôi tổ chức họp phụ huynh, thông báo với các cha mẹ các cháu, ở nhà giúp trẻ để luyện thêm cho trẻ những lúc trẻ không đến lớp, trao đổi với cha mẹ sưu tầm mua những loại tranh ảnh minh họa để phục vụ cho môn khám phá khoa học, vận động phụ huynh sưu tầm đồ dùng phục vụ học Thường xuyên giao nhiệm vụ cho trẻ thông qua phụ huynh. Ví dụ: Trẻ A, trẻ B rất thích kể chuyện cho bố mẹ nghe, trẻ C, trẻ D rất hay hỏi về những gì lạ xung quanh. Trao đổi với phụ huynh mua cho trẻ những quyển sách tranh, ảnh hoặc lô tô về con vật, cây cỏphù hợp với lứa tuổi giúp trẻ được mở rộng biểu tượng về sự vật xung quanh. Ngày nay khi khoa học công nghệ thông tin bùng nổ, ngoài giờ học ở trường ra về nhà một số cháu thường ngồi ngay vào máy vi tính với những trò chơi phim ảnh bạo lực. Do vậy tôi cũng thường nhắc nhở phụ huynh về nhà nên cho trẻ xem những chương trình thiếu nhi như: Ai thông minh nhất, vườn cổ tích, ca nhạc thiếu nhi, kể chuyện cho bé nghenhằm tích lũy vốn từ cho trẻ và cũng để trẻ học tập theo các bạn.. Kết hợp với phụ huynh giúp trẻ luyện tập nhiều hơn, từ đó trẻ có được vốn kiến thức về tự nhiên, xã hội phong phú và đa dạng hơn. Vì trẻ ở môi trường nông thôn nên được tiếp xúc nhiều với thiên nhiên, cỏ cây, hoa lá, đồng thời được bố mẹ thường xuyên cung cấp và củng cố kiến thức về môi trường xung quanh nên hiệu quả hoạt động làm quen với khám phá khoa học là rất cao. c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các biện pháp đưa ra tuy khác nhau về mặt nội dung và phương pháp tuy nhiên đều có mối quan hệ mật thiết, khăng khít, hỗ trợ cho nhau nhằm giúp trẻ học tốt hơn. Vì khi tạo môi trường cho trẻ khám phá khoa học tức là hoạt động khám phá khoa học ở mọi lúc, mọi nơi, trong các hoạt động hàng ngày tốt, thông qua các hoạt động tạo hình, văn học, thể duc.. và trò chơi trẻ đã tích lũy được một số vốn hiểu biết, trẻ giảm đi cách phát âm bị ngọng, tăng thêm phần so sánh, nhận xét, phán đoán. Như vậy khi tham gia vào tiết học trẻ sẽ mạnh dạn, tự tin có hứng thú hơn, thích tham gia vào hoạt động hơn. d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả sử dụng. * Kết quả khảo nghiệm Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện các biện pháp đã thu được một kết quả rất khả quan: - Về giáo viên: Giáo viên tự tin
Tài liệu đính kèm: