Trực quan bằng cách hát những bài văn, bài thơ đã được các nhạc sĩ phổ nhạc.
Thường thì thao tác này thực hiện ở cuối mỗi bài học và không phải giáo viên nào cũng có thể làm được. Song có thể mời học sinh trình bày hoặc nếu dạy Power point thì có thể trình chiếu một đoạn nhạc, có khi cả bài hát do một ca sĩ nào đó thể hiện. Cách này làm cho giờ học trở nên ấm cúng, gần gũi, thân thiện hơn. Có khi sâu lắng xúc động, có khi hùng hồn mạnh mẽ. Đây cũng là cách nhấn mạnh làm rõ đặc trưng nghệ thuật, nhất là về nhịp điệu, giọng điệu của mỗi văn bản mà tác giả muốn thể hiện.
Chẳng hạn bài " Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc, bài " Đồng chí của Chính Hữu do nhạc sĩ Minh Trí phổ nhạc
Bài "Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải do nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc ngoài ra chúng ta có thể lấy những bài hát có chủ đề cùng với văn bản đang tìm hiểu để học sinh được so sánh, đối chiếu khắc sâu thêm chủ đề của văn bản.
Ví dụ: Khi dạy văn bản " Quê hương" của nhà thơ Tế Hanh ( SGK ngữ văn 8 tập 2) chúng ta có thể lấy bài hát " Quê hương" của Đỗ Trung Quân. Hay khi dạy văn bản: " Mẹ tôi" (SGK ngữ văn 7 tập 1) có thể giới thiệu bài hát " Lòng mẹ " do nhạc sĩ Y Vân sáng tác: " Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.". Theo tôi đây là trực quan ấn tượng khiến học sinh dễ nhớ, dễ tiếp thu.
hư vậy không những là minh họa cho kiến thức cô vừa khai thác mà còn biến từ "đọc - chép" sang "nhìn - chép". Với việc dùng phương tiện dạy học như thế này đã vô tình biến học sinh là "bình chứa" là người "nhận hàng" thầy là người "gói hàng", "giao hàng" là người "rót kiến thức" vào bình. Học sinh với nhu cầu khát vọng và những đặc điểm tâm lý, nhận thức riêng chưa được quan tâm, mối quan tâm của giáo viên là văn bản vì thế học sinh luôn đóng vai trò " thính giả", " người ngoài cuộc" hơn là một "người tham gia" vào các hoạt động học. Thế kỉ XXI, Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ và đi vào mọi lĩnh vực của đời sống. Đặc biệt trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông, việc áp dụng công nghệ thông tin góp phần hỗ trợ việc tích cực hóa quá trình dạy học. Đối với môn ngữ văn cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên đổi mới phương pháp dạy học văn bằng cách vận dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy có nhiều hình thức và tùy theo sáng tạo của người giáo viên( chủ yếu là việc thiết kế giáo án điện tử bằng phần mềm Power point). Tôi đã chứng kiến một tiết dạy power point văn bản " Con chim tu hú" của nhà thơ Tố Hữu (SGK ngữ văn 8, tập 2) giờ học sôi nổi, học sinh hoạt động tích cực, giáo viên đúng với vai trò là người hướng dẫn các hoạt động học. Nhờ công nghệ thông tin mà các bức tranh minh họa cho tác phẩm trở nên sinh động hơn. Và giáo viên đã sưu tầm rất nhiều tranh cho học sinh quan sát. Thế nhưng giá trị của tác phẩm không được học sinh chú ý đến vì học sinh mãi chú ý đến tranh minh họa. Quả thật rất đáng buồn khi trong giờ dạy người giáo viên không khéo léo xử lí những tình huống sư phạm, hoặc chọn lựa đồ dùng dạy học hợp lí thì giờ học sẽ không mất đi giá trị biểu đạt của văn bản. Khi sử dụng phương tiện trực quan, học sinh ngoài việc sử dụng thính giác để nghe thì các em còn huy động thêm thị giác để thu nhận thông tin. Song việc sử dụng phương tiện trực quan như tôi đã trình bày khi dạy một số văn bản như trên thì việc lĩnh hội tri thức của học sinh vẫn là thụ động, học sinh chỉ cần nghe, nhìn và chấp nhận sự điều khiển của giáo viên mà ít phải động não, suy nghĩ. Cho nên cách sử dụng các phương tiện trực quan như vậy vẫn là cách dạy thụ động. Từ những thực trạng mà tôi đã dẫn ra một số dẫn chứng cụ thể ở một số văn bản như trên tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm và giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng bộ môn như sau: 3. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: 3.1- Lựa chọn đồ dùng trực quan: Tác phẩm văn học là "con đẻ" tinh thần của nhà văn, được nhà văn sáng tạo bằng nghệ thuật ngôn từ. Nhà văn tái hiện lại mọi khía cạnh của cuộc sống xung quanh chúng ta vì thế văn học rất gần gũi với đời sống của mỗi người. Bởi vậy, người dạy phải có những rung cảm thật sự bằng ngôn ngữ, thái độ, cử chỉ phù hợp để định hướng cho các em xây dựng những hoạt động đúng đắn về tác phẩm văn học. Trong quá trình chuẩn bị tiết dạy, việc lựa chọn đồ dùng trực quan phù hợp và dự đoán những tình huống sư phạm có thể xảy ra cũng là khâu quan trọng không kém khâu sử dụng: - Trước hết người hướng dẫn phải nghiên cứu, nhận xét về chất lượng, giá trị của trực quan trước khi sử dụng. - Cần phải định hướng khai thác nội dung nào để có thể lựa chọn trực quan phù hợp. - Xác định chọn thời điểm sử dụng trong quá trình dạy- học. - Khi sử dụng ngoài việc giúp học sinh quan sát, mô tả, liên tưởng thì người hướng dẫn phải có hệ thống câu hỏi dẫn dắt giúp học sinh phát hiện, phân tích tổng hợp tư duy từ quan sát trực quan. Trong bài viết này tôi phân loại các nhóm trực quan như sau: Nhóm 1: Tranh ảnh chụp chân dung tác giả, một số tác phẩm của các tác giả: nhóm này thường dùng để giới thiệu chứ không dùng với mức độ khai thác nội dung văn bản. Nhóm 2: Tranh ảnh những địa danh có trong tác phẩm, tranh ảnh có liên quan đến những vấn đề trong văn bản: Nhóm này dùng để khai thác nội dung văn bản. Nhóm 3: Nhóm trực quan mẫu: bao gồm trích đoạn những văn bản khác có cùng chủ đề, (dùng với phương pháp tích hợp dọc ) dùng để khai thác nội dung, làm nổi bật tư tưởng chủ đề tác phẩm; bảng phụ. Nhóm 4: Đoạn phim tư liệu, những bản nhạc của bài thơ đã được phổ nhạc, một khúc ca, một điệu hò liên quan đến văn bản: Nhóm này ngoài việc sử dụng để khai thác nội dung còn có thể kết hợp khai thác hình thức nghệ thuật. Nhóm 5: Trực quan linh hoạt: Bao gồm cách trình bày bảng của giáo viên, cách đọc phân vai hay là ngôn ngữ, cử chỉ, ngữ điệu của chính người hướng dẫn (giáo viên): dùng để khai thác nội dung và hình thức nghệ thuật của văn bản. Lựa chọn trực quan nào thì tùy vào văn bản và đối tượng tiếp nhận văn bản mà lựa chọn phương tiện cho phù hợp. 3.2- Sử dụng đồ dùng trực quan: Trong quá trình sử dụng đồ dùng trực quan giáo viên không truyền đạt để cung cấp kiến thức cho học sinh mà chỉ là người hướng dẫn cho các em tự phát hiện kiến thức từ đối tượng quan sát. Lúc này đối tượng quan sát không phải là phương tiện minh họa kiến thức nữa mà là nguồn gốc của kiến thức. 3.2.1, Trực quan bằng cách dùng tranh ảnh chân dung, địa danh: Tranh ảnh chân dung, địa danh, hay hình ảnh liên quan đến văn bản đều chứa đựng một lượng thông tin rất lớn. Nguồn thông tin đó được khai thác nhiều hay ít là tùy thuộc vào người quan sát nó. Khi cho học sinh quan sát một đối tượng, trước hết giáo viên phải lựa chọn một đối tượng phù hợp để làm sao từ đối tượng đó học sinh có thể vừa quan sát vừa khai thác tri thức cùng với sự dẫn dắt khéo léo của người giáo viên bằng một hệ thống câu hỏi lôgic các em sẽ tích cực suy nghĩ để khai thác nội dung bài học. Chẳng hạn như trong văn bản " Đồng chí "của Chính Hữu (SGK ngữ văn 9 tập 1). Ngoài việc giới thiệu chân dung của nhà thơ Chính Hữu giáo viên có thể sử dụng những hình ảnh quen thuộc về người nông dân, con trâu cày ruộng, gian nhà tranh, giếng nước, gốc đa ( Có thể dùng Power point càng tốt ) để có thể vừa yêu cầu học sinh đọc khổ thơ vừa trình chiếu. Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính Từ đây giáo viên đặt câu hỏi để khai thác kiến thức: ? Lúc này, những đồng chí của tác giả là ai? Họ biết gì về hoàn cảnh của nhau? ? Hiểu nhau từ "ruộng nương", " bạn thân cày", gian nhà lung lay, "giếng nước gốc đa" Đó là một cách hiểu như thế nào? => Kết hợp với việc quan sát các bức tranh học sinh dễ dàng nhận thấy được những người lính trong kháng chiến chống thực dân Pháp là những người nông dân ra trận, họ thấu hiểu tường tận bằng lòng cảm thông bè bạn => cảm thông những tâm tư nỗi lòng của nhau, hy sinh tình nhà cho việc nước thật giản dị và cảm động. Hay ở văn bản" Qua đèo Ngang" của bà Huyện Thanh Quan (SGK ngữ văn 7 tập 1), giáo viên có thể dùng một số hình ảnh đèo Ngang xưa và nay để giúp học sinh thấy đèo Ngang xưa hoang vắng thưa thớt ít ỏi, buồn phù hợp với hình thức nghệ thuật tả cảnh ngụ tình làm nổi bật tâm trạng của tác giả lúc đặt chân tới đèo Ngang vào lúc chiều tà khác với đèo Ngang ngày nay đông vui sầm uất. Hình ảnh đèo Ngang xưa Hình ảnh chiều tà ở đèo Ngang bây giờ Hoặc khi dạy một số văn bản nhật dụng có thể sử dụng một số hình ảnh sau làm phương tiện trực quan để khai thác nguồn gốc kiến thức: Tôi đã dùng trực quan và hệ thống câu hỏi khi dạy bài " Thông tin về trái đất năm 2000" (SGK ngữ văn 8 tập 1) như sau: ? Quan sát bức tranh và thông tin trong SGK em hãy cho biết tác hại của việc dùng bao bì ni lông được nói tới ở phương diện nào? ( môi trường và sức khỏe con người bởi đặc tính không phân hủy). ? Nêu cụ thể những phương diện gây hại của bao bì ni lông? Một dòng kênh đầy bao bì ni lông Bao bì ni lông vừa gây ô nhiễm vừa ảnh hưởng tới sức khỏe Từ quan sát tranh và thông tin học sinh đã rút ra được kiến thức: - Ni lông lẫn vào đất, cản trở quá trinh sinh trưởng của các loài thực vật -> xói mòn. - Làm tắc các đường dẫn nước, sinh muỗi, truyền dịch bệnh - Khi đốt: thải khí độc, gây ô nhiễm. ? Khi có thông tin này rồi em thu nhận được kiến thức mới nào về hiểm họa của việc dùng bao bì ni lông? ? Theo em có những cách nào có thể tránh được những hiểm họa đó? Tiết kiệm bao bì ni lông là bảo vệ môi trường Hạn chế sử dụng bao bì ni lông ? Nhận thức của em về các biện pháp hạn chế sử dụng bao bì ni lông trước và sau khi có được kiến thức này? Mỗi một cách khai thác văn bản có những cách riêng để lựa chọn hình ảnh trực quan tùy thuộc vào sự linh hoạt của giáo viên. 3.2.2, Sử dụng trực quan mẫu: a. Sử dụng bảng phụ làm trực quan: Trực quan này hầu hết giáo viên dạy văn thường hay dùng để khai thác chi tiết, tổng kết nội dung cho một phần hoặc cho cả văn bản. Với trực quan này người hướng dẫn phải chuẩn bị kĩ lưỡng, chính xác, đảm bảo logic, hợp lí về nội dung lẫn hình thức, sau khi cho học sinh nêu ý kiến, rút ra nhận xét thì giáo viên mới sử dụng để đối chiếu, so sánh giúp cho học sinh có thể tự sửa sai, củng cố hoặc bổ sung thêm kiến thức mà hoc sinh mới phát hiện (vấn đề này tùy thuộc vào từng tình huống sư phạm có thể xảy ra). Tuy nhiên giáo viên phải khéo léo dẫn dắt học sinh đi đúng hướng nhưng không phải là " úp nơm" kiến thức. b. Sử dụng những trích đoạn của các văn bản khác có cùng chủ đề làm trực quan: ( Cách này còn gọi là tích hợp dọc). Yếu tố trực quan này thường được sử dụng đan xen trong quá trình hướng dẫn học sinh khai thác nội dung văn bản. Có thể chọn những đoạn trích phù hợp ở những văn bản đã học để trình chiếu (Nếu dùng Power point ). Giúp học sinh so sánh đối chiếu nhằm làm nổi bật tư tưởng chủ đề của văn bản đang khai thác. Ví dụ: Khi dạy văn bản "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật (Ngữ văn 9, tập 1) ta có thể so sánh với văn bản " Đồng chí" của Chính Hữu đã học trước đó để học sinh thấy được những điểm giống và khác nhau của anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Qua đó sẽ giúp các em có sự cảm nhận sâu sắc và toàn diện về hai tác phẩm. Hoặc khi dạy bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải (Ngữ văn 9, tập 2) giáo viên có thể so sánh nội dung với văn bản "Lặng lẽ sa pa" của Nguyễn thành Long (Ngữ văn 9, tập 1) để học sinh thấy được sự cống hiến lặng thầm cho đất nước của những con người sống có mơ ước và lí tưởng cao đẹp. Từ đó giáo dục cho học sinh tình yêu quê hương đất nước và cách sống có ích cho tổ quốc. Hay một ví dụ khác đó là khi dạy văn bản " Làng " của Kim Lân (SGK ngữ văn 9 tập 1) có thể tích hợp với văn bản" Lòng yêu nước" của I-li-a-ê-ren-bua.(SGK ngữ văn 6 tập 2.): "Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê, trở nên lòng yêu tổ quốc". Cũng như ông Hai trong văn bản " Làng", Tình yêu của ông thể hiện ở cách khoe làng, tự hào về làng, đau khổ, dằn vặt, tủi hổ khi nghe tin làng ông theo giặc... tình yêu làng của ông Hai chính là yêu quê hương, đất nước. Cách tích hợp này không những giúp học sinh so sánh đối chiếu 2 tác phẩm văn học mà còn giúp các em liên hệ thực tế bản thân trong việc thể hiện tình cảm, cảm xúc của chính các em. Trực quan theo kiểu tích hợp dọc không chỉ để làm rõ nội dung tư tưởng chủ đề của văn bản mà tích hợp còn để học sinh thấy được sự giống và khác nhau giữa các loại khác nhau trong một thể loại. Ví dụ: Khi dạy thể loại nghị luận trung đại cụ thể văn bản " Bàn luận về phép học" (SGK ngữ văn 8 tập 2) có thể tích hợp với các văn bản cùng thể loại như " Bình ngô đại cáo", " Hịch tướng sĩ", " Chiếu dời đô" mà các em đã được học ở trước đó. Giáo viên đặt câu hỏi: ? Tấu có điểm gì giống và khác so với chiếu, hịch, cáo? Khi trình chiếu hình ảnh chụp các thể loại này hoặc các trích đoạn văn bản trong mỗi loại thì học sinh dễ dàng nhận ra sự giống và khác nhau trong lối văn, bố cục, người thể hiện, thể loại. .. Mỗi văn bản chúng ta có một cách tích hợp khác nhau mà khai thác triệt để nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật của văn bản, chưa kể đến tích hợp ngang. 3.2.3, Sử dụng trực quan bằng các đoạn phim tư liệu, những bản nhạc của bài thơ đã được phổ nhạc: a. Trực quan bằng cách hát những bài văn, bài thơ đã được các nhạc sĩ phổ nhạc. Thường thì thao tác này thực hiện ở cuối mỗi bài học và không phải giáo viên nào cũng có thể làm được. Song có thể mời học sinh trình bày hoặc nếu dạy Power point thì có thể trình chiếu một đoạn nhạc, có khi cả bài hát do một ca sĩ nào đó thể hiện. Cách này làm cho giờ học trở nên ấm cúng, gần gũi, thân thiện hơn. Có khi sâu lắng xúc động, có khi hùng hồn mạnh mẽ. Đây cũng là cách nhấn mạnh làm rõ đặc trưng nghệ thuật, nhất là về nhịp điệu, giọng điệu của mỗi văn bản mà tác giả muốn thể hiện. Chẳng hạn bài " Viếng lăng Bác" của nhà thơ Viễn Phương được nhạc sĩ Hoàng Hiệp phổ nhạc, bài " Đồng chí của Chính Hữu do nhạc sĩ Minh Trí phổ nhạc Bài "Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải do nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc ngoài ra chúng ta có thể lấy những bài hát có chủ đề cùng với văn bản đang tìm hiểu để học sinh được so sánh, đối chiếu khắc sâu thêm chủ đề của văn bản. Ví dụ: Khi dạy văn bản " Quê hương" của nhà thơ Tế Hanh ( SGK ngữ văn 8 tập 2) chúng ta có thể lấy bài hát " Quê hương" của Đỗ Trung Quân. Hay khi dạy văn bản: " Mẹ tôi" (SGK ngữ văn 7 tập 1) có thể giới thiệu bài hát " Lòng mẹ " do nhạc sĩ Y Vân sáng tác: " Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào...". Theo tôi đây là trực quan ấn tượng khiến học sinh dễ nhớ, dễ tiếp thu. b. Trực quan bằng cách giới thiệu những đoạn phim tư liệu: Trực quan này đòi hỏi giáo viên phải công phu trong việc sưu tầm cũng như vận dụng trong quá trình sử dụng. Tôi đã vận dụng trực quan này khi dạy văn bản " Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật (SGK ngữ văn 9, tập 1): Đó là đoạn phim về hình ảnh những chiếc xe vận tải không kính vẫn băng băng tiến lên phía trước, trong xe là hình ảnh các chiến sĩ lái xe tươi cười, ung dung, ngang tàng. Khi dạy văn bản " Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê (SGK ngữ văn 9 t 2) Ta có thể vận dụng đọan phim về tuyến đường Trường Sơn máu lửa đang bị máy bay Mĩ dội bom, rồi hình ảnh những cô gái mở đường trên tuyến đường đó đang rất khẩn trương san lấp đường cho đoàn xe đi qua. Với trực quan này không những giúp học sinh khai thác nội dung kiến thức văn bản mà còn đưa các em trở về với lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, các em khâm phục, tự hào và thêm yêu mến quê hương đất nước mình hơn. c. Sử dụng trực quan linh hoạt: Theo tôi trực quan trong khi hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản không chỉ như vậy mà còn chính hình ảnh của người hướng dẫn (Giáo viên) trong con mắt của học sinh. Trước hết, là xây dựng thái độ thân thiện để tạo tâm thế cho học sinh Thể hiện qua thái độ, cử chỉ: một nụ cười rạng rỡ, một ánh mắt trìu mến, khuyến khích cũng đủ để gây tâm thế cho học sinh trước khi bước vào giờ học. Tiếp đến là ngôn ngữ của người hướng dẫn, mà theo tôi chủ yếu là dùng để hướng dẫn cách đọc theo đặc trưng phương thức biểu đạt. Phương thức biểu đạt là cách thức tạo lập và tồn tại của văn bản làm thành các đặc trưng hình thức của các kiểu văn bản phù hợp với mục đích giao tiếp." Phương thức biểu đạt ở đây hiểu là cách thức tạo, như cách kể chuyện, cách biểu cảm, cách thuyết minh... cho phù hợp với mục đích giao tiếp” ( SGV ngữ văn 6 tập 2 NXB GD, HN 2002 trang 52.), như thế hình thức của một văn bản thấm đẫm nội dung để đạt tới mục đích giao tiếp mới là hình thức mang tính nội dung. Do vậy cách đọc cũng phải có cách đọc tương ứng. Ví dụ: Đọc " Ông lão đánh cá và con cá vàng"( SGK ngữ văn 6 tập1) phải từ các dấu hiệu của phương thức tự sự dân gian như hệ thống sự việc, nhân vật, ngôi kể, trí tưởng tượng kì ảo... để hiểu bài học dân gian muốn truyền lại khi kể chuyện này. Đó là: Con người ta có thể tham lam đến độ nào và chịu hậu quả ra sao từ lòng tham đó. Hay đọc " Tinh thần yêu nước của nhân dân ta" (SGK ngữ văn 7 tập 2) Là bám vào hệ thống các luận điểm, luận cứ ( Vốn là đặc trưng hình thức của phương thức lập luận trong các văn bản nghị luận). Để hiểu được tác giả đã bàn luận và đánh giá như thế nào vẻ đẹp truyền thống yêu nước nồng nàn, bền bỉ của nhân dân ta và cảm nhận niềm hạnh phúc của tác giả - một con người được sống trong tự do có truyền thống yêu nước quý báu đó. Từ đây có thể cho chúng ta thấy đọc - hiểu văn bản theo đặc trưng phương thức biểu đạt sẽ là con đường khoa học để chiếm lĩnh các tri thức của văn bản ngữ văn. Ngoài ra, ngôn ngữ của người hướng dẫn còn thể hiện ở cách xây dựng hệ thống câu hỏi, hay nội dung bình luận cho một đoạn văn, đoạn thơ của văn bản nào đó. Ngôn ngữ phải được trau chuốt, chuẩn mực, truyền cảm khi nêu ra trước học sinh thể hiện thái độ phù hợp với ngữ cảnh của văn bản. Xúc cảm, chân thành trong mỗi văn bản: Luôn cảm thông và đau với nỗi đau của nhân vật, vui vì hạnh phúc mà nhân vật có được. Chắng hạn: ta có thể hiểu và cảm thông với nỗi đau khổ và dằn vặt của lão Hạc trong văn bản " Lão hạc" ( SGK ngữ văn 8, tập 2) khi phải bán đi "cậu vàng" – kỉ vật của đứa con trai lão. Ta vui cùng những giọt nước mắt hạnh phúc của anh Sáu trong truyện " Chiếc lược ngà" (SGK ngữ văn 9 tập 1) khi bé Thu gọi ba - là tiếng gọi anh đã chờ đợi 8 năm qua. Hay là thái độ hiên ngang, ung dung, vui vẻ, hóm hỉnh, lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong bài " Bài thơ về tiểu đội xe không kính" ( SGK ngữ văn 9 tập 1). Cần tránh tình trạng phát thanh những lời giảng khô khan, thái độ cau có, bực tức khi học sinh không trả lời được câu hỏi dẫn dắt của giáo viên, càng không thể tươi cười, vui vẻ mà đặt câu hỏi hay là lời bình cho đoạn văn, đoạn thơ đang đề cập tới niềm ân hận, hay nỗi đau của nhân vật trong văn bản: Giáo viên không thể hớn hở vui tươi mà nêu câu hỏi trong niềm ân hận của Dế Mèn khi đã lỡ gây ra cái chết cho Dế Choắt ("Dế Mèn phiêu lưu kí"- SGK ngữ văn 6 tập 2), chẳng thể vui cười mà đưa ra lời bình khi Thúy Kiều bị Mã Giám Sinh xem như một món hàng có thể cân- đo - đong - đếm để cò kè ngã giá ( Đoạn trích " Mã Giám Sinh mua Kiều " - SGK ngữ văn 9, tập 1). Một trực quan sinh động nữa mà bất kì giáo viên nào cũng có thể sử dụng một cách linh hoạt và có hiệu quả đó là trình bày bảng. Thực chất trình bày bảng không có một khuôn mẫu, qui định nào, mỗi giáo viên tùy theo từng văn bản mà có những cách ghi riêng. Trực quan còn là cách đọc phân vai: đặc biệt là thể loại truyện ngắn hoặc kịch. Sau khi hướng dẫn cách đọc giáo viên chọn học sinh phù hợp với cách thể hiện từng đối tượng nhân vật, người dẫn chuyện rồi để học sinh tự thể hiện, như vậy học sinh cảm thấy tự do thoải mái thể hiện bản chất nhân vật còn người nghe ( là những học sinh khác) dễ hình dung số lượng nhân vật, bản chất, hành động, ngôn ngữ của mỗi nhân vật từ đó nhận ra những người tốt, kẻ xấu, những phi lí bất công do xã hội đem lại, hay lẽ công bằng trong sự chiến thắng của cái thiện đối với cái ác. Ví dụ: Khi dạy văn bản " Ông Giuốc- đanh mặc lễ phục" ( Trích "Trưởng giả học làm sang" của Mô-li-e, Sgk Ngữ văn 8) giáo viên có thể cho học sinh đọc phân vai theo các nhân vật. Qua đó các em sẽ có hứng thú khi đọc và học tác phẩm. Hoặc khi dạy văn bản " Đánh nhau với cối xay gió" (Trích Đôn-ki-hô-tê _ Xéc- van - téc: SGK ngữ văn 8 tập 1), giáo viên cho học sinh đọc phân vai hai nhân vật Đôn-ki-hô-tê và Xan-trô-pan- xa đặc biệt chú ý đến các đoạn đối thoại của hai nhân vật để thấy được sự đối lập, tương phản: Đôn- ki- hô- tê: hoang tưởng nhưng cao cả còn Xan-trô-pan- xa tỉnh táo nhưng tầm thường; nếu bổ sung, bù trừ được cho nhau thì hai người sẽ trở thành hai nhân vật hoàn hảo. Với lí tưởng cao cả và hành động dũng cảm như Đôn- ki- hô- tê mà gắn với một cái đầu luôn tỉnh táo thực tế như, Xan-trô-pan- xa thì hẳn hiệp sĩ Đôn- ki- hô- tê đã làm được việc lớn. Dù là sử dụng trực quan nào nào đi chăng nữa thì chúng ta cũng chỉ nên xem đó là cách để tạo hứng thú, gây tâm thế để học sinh phát huy tích tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo trong việc khai thác nguồn gốc kiến thức văn bản chứ không nên xem là phương pháp trung tâm để khai thác một văn bản nào đó. Tóm lại người giáo viên phải như là hiện thân của mỗi nhân vật trong văn bản đứng về lẽ phải, về cái thiện, sự chân thật... để dẫn dắt học sinh đi đúng hướng giúp học
Tài liệu đính kèm: