Khi bổ sung thêm tư liệu giáo viên không nên bắt ép học sinh phải có nó mà phải để cho học sinh hoàn toàn tự nguyện sử dụng. Giáo viên chỉ nên cố gắng động viên học sinh sưu tầm và sử dụng nó một cách khoa học đúng lúc.
Ví dụ: Khi dạy mục I Tình hình chính trị - kinh tế của bài 27 Chế độ phong kiến nhà Nguyễn (Lịch sử 7). Giáo viên cho học sinh quan sát lược đồ hình 61 sách giáo khoa để biết được các đơn vị hành chính thời Nguyễn. Đồng thời lồng ghép giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo. Thông qua việc giới thiệu trên lược đồ vị trí hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và cung cấp thêm cho học sinh tư liệu về việc xác lập chủ quyền của nhà Nguyễn đối với hai quần đảo này như:
“Những tư liệu còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi
Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844 - 1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875), các Châu bản nhà Nguyễn (1802-1945). đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác các quần đảo này.
Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vào năm 1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền. Cũng cần nói thêm là trong một thời gian khá dài, người Việt Nam luôn coi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một dải đảo dài hàng vạn dặm trên Biển Đông, nên gọi là Vạn Lý Trường Sa, hay Đại Trường Sa, Bãi Cát Vàng.
là thời kỳ mà việc mở mang lãnh thổ về phía Nam, xác lập chủ quyền biển đảo được tiến hành mạnh mẽ và hiệu quả hơn cả, điều đó đã giúp tạo nên một đất nước Việt Nam như ngày nay. Trong những năm gần đây, vấn đề dân tộc, sắc tộc ở nhiều nước đang diễn biến hết sức phức tạp. Sự bùng nổ trào lưu ly khai dân tộc trên thế giới hiện nay đã ảnh hưởng trực tiếp đến nước ta. Còn ở trong nước một số phần tử xấu cố tình xuyên tạc lịch sử để tiếp tay cho các thế lực hiếu chiến phản động nhằm kích động, chia rẽ khối đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo ở nước ta, nhất là ở các vùng dân tộc thiểu số. Với các thủ đoạn mị dân, nhằm tập hợp, lôi kéo quần chúng vào các tổ chức phản động núp dưới các hình thức tôn giáo, sắc tộc, phá hoại truyền thống đoàn kết. Chúng còn ráo riết tổ chức lực lượng để hình thành các tổ chức phản động như là “Nhà nước Đề ga độc lập” ở Tây Nguyên, “nhà nước Khơ-me Crôm độc lập” ở Tây Nam bộ, “Vương quốc Mông” ở vùng miền núi phía Bắc, “Vương quốc Chămpa” ở miền TrungVì vậy giúp học sinh hiểu đúng về công cuộc mở mang lãnh thổ, xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa của chính quyền Họ Nguyễn cũng là góp phần vào việc đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Để học sinh hiểu đúng về công cuộc mở mang lãnh thổ nói chung, và việc mở mang lãnh thổ của chính quyền Họ Nguyễn nói riêng cũng là giúp các em thấy được để có được một đất nước Việt Nam ngày nay là sự kế thừa và phát triển từ nhà nước Văn Lang thời các Vua Hùng. Nhưng trải mấy nghìn năm lịch sử cương vực nước ta đã nhiều lần thay đổi. Để có diên mạo như ngày nay, tổ tiên ta đã đổ bao mồ hôi và xương máu Qua đó giúp học sinh thấy được việc tìm lại lịch sử về việc mở mang lãnh thổ đất nước thật là lý thú, hấp dẫn và bổ ích. Nhưng để làm được việc này cũng rất khó khăn do đến nay các tài liệu viết về nội dung này rất tản mát, sách giáo khoa phổ thông thì ít thể hiện. Nên việc giúp học sinh hiểu đúng về những việc làm của tổ tiên, nhất là tài liệu viết về việc mở mang bờ cõi của chính quyền Họ Nguyễn. theo tôi để thực hiện điều này đang trông chờ rất lớn vào tâm huyết của giáo viên giảng dạy lịch sử ở cấp trung học cơ sở. Vì vậy nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên dạy lịch sử nói chung và dạy lịch sử lớp 7 nói riêng là phải biết chọn những nội dung, kiến thức phù hợp với bài học để bổ sung, lồng ghép. Qua đó khơi dậy tính chủ động, tích cực của học sinh, các em tự giác thảo luận, tranh luận và rút ra được bài học về sự trung thực khách quan cho mình. 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. Thuận lợi của vấn đề tôi nghiên cứu là: bản thân đã có nhiều năm kinh nghiệm dạy môn lịch sử ở tất cả các khối lớp ở cấp Trung học cơ sở, nhất là khối lớp 7, được tham gia tập huấn chuyên môn do ngành giáo dục tổ chức, được thường xuyên trao đổi học tập kinh nghiệm với đồng nghiệp. Thời gian gần đây việc đánh giá lại công lao của chính quyền Họ Nguyễn đối với lịch sử dân tộc cũng được các nhà khoa học lịch sử rất quan tâm đó chính là điều kiện thuận lợi để tôi thực hiện nghiên cứu đề tài này. Bên cạnh những thuận lợi thì việc nghiên cứu đề tài này cũng gặp nhiều khó khăn như: tài liệu viết về công cuộc mở mang lãnh thổ, xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa của chính quyền Họ Nguyễn còn rất tản mát, sách giáo khoa phổ thông thì viết về nội dung này rất ít và không rõ ràng. Nên việc làm cho học sinh hiểu đúng, khách quan về chính quyền Họ Nguyền chủ yếu là do giáo viên trực tiếp giảng dạy. Thành công của việc áp dụng đề tài này vào việc dạy Lịch sử lớp 7 thời kỳ từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX là tôi thấy nhận thức của học sinh về đánh giá công lao của chính quyền Họ Nguyễn trung thực, khách quan hơn. Điểm kiểm tra của các em đối với các câu hỏi liên quan đên nội dung này khá cao, trong đó nhiều em đạt điểm khá giỏi như: Năm học 2013 -2014: (chưa áp dụng đề tài) đối với nội dung kiểm tra: Nhận xét về tình hình kinh tế Nông nghiệp Đàng Trong các thế kỷ XVI – XVIII, vai trò của chính quyền Họ Nguyễn như thế nào trong việc mở mang lãnh thổ đất nước như thế nào? Thì tỉ lệ học sinh làm được bài từ TB trở lên là 62.1% Năm học 2014 -2015 và 2015 -2016 ( áp dụng đề tài) đối với nội dung kiểm tra Nhận xét về tình hình kinh tế Nông nghiệp Đàng Trong các thế kỷ XVI – XVIII, vai trò của chính quyền Họ Nguyễn như thế nào trong việc mở mang lãnh thổ đất nước như thế nào? Thì tỉ lệ học sinh làm được bài từ TB trở lên là 90 % Qua đó có thể thấy là chỉ cần một số thay đổi nhỏ trong phương pháp dạy học, một ít cố gắng của giáo viên sẽ làm cho hiệu quả giáo dục của bộ môn lịch sử được tăng lên đáng kể. Đó là điều khích lệ tôi tiếp tục thực hiện đề tài này trong thời gian tới ở các lớp 7 nhất là lớp 7 Mô hình trường học mới. Ưu điểm của vấn đề nghiên cứu là đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học môn Lịch sử là phải đánh giá các sự kiện lịch sử một cách trung thực, khách quan. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên đóng vai trò hướng dẫn, định hướng...hiệu quả giáo dục của bộ môn tăng lên rõ rệt Trước sự phát triển của công nghệ thông tin, sự mở cửa giao lưu kinh tế, văn hóa với các nước trên thế giới ngoài mặt tích cực thì cũng đã có tác động tiêu cực đến nhận thức của học sinh đó là: Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, sự kích động, tiếp tay của các thế lực hiếu chiến phản động, sự can thiệp lật đổ. Các thế lực thù địch đã và đang xuyên tạc, lợi dụng những vấn đề lịch sử để kích động, gieo rắc tư tưởng phân biệt, hận thù chia rẽ khối đoàn kết giữa các dân tộc gây ảnh hưởng xấu đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh, nhất là đối với những trường có đông học sinh dân tộc thiểu số như ở Đắc Lắc.Vì vậy khi dạy lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX ở lớp 7, đòi hỏi giáo viên phải hết sức kỹ lưỡng trong việc lựa chọn nội dung kiến thức ngoài sách giáo khoa, để bổ sung cho phù hợp với bài dạy và phải chú ý nâng cao khả năng lý luận của mình để lý giải vấn đề một cách thuyết phục hơn. Để làm được điều nói trên khi dạy học thì giáo viên phải chuẩn bị kỹ càng hơn, phải tham khảo nhiều tài liệu, thường xuyên cập nhật thông tin mới về khoa học lịch sử. Phải suy nghĩ lựa chọn nội dung kiến thức để bổ sung vào bài dạy phù hợp, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng dàn trải, mất nhiều thời gian mà hiệu quả không đạt được. Dạy học theo phương này chỉ thật sự trôi chảy, thuận lợi đối với những lớp có ý thức tốt. Vì vậy không thể áp dụng một cách dạy học chung của một bài cho tất cả các lớp, tất cả các đối tượng học sinh... Làm thế nào để cho học sinh hiểu đúng về vai trò của chính quyền Họ Nguyễn, đối với lịch sử đất nước trong các thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX là một vấn đề mà tôi hết sức quan tâm. Xuất phát từ thực trạng trên, để góp phần vào công tác nâng cao chất lượng dạy học, giáo dục đạo đức học sinh qua môn lịch sử, ở lớp 7 là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của người giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn Lịch sử. Việc tìm tòi các phương pháp dạy học lịch sử phù hợp đối với nội dung trên là việc làm hết sức quan trọng. Đó là động cơ để tôi thực hiện đề tài này. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp. 3.1. Mục tiêu của giải pháp Việc chú trọng lựa chọn một số nội dung kiến thức ngoài sách giáo khoa, để bổ sung cho các bài dạy lịch sử, việc lựa chọn một số phương pháp dạy học tích cực trong việc dạy học nội dung lịch sử đất nước trong các thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX ở lớp 7, là biện pháp quan trọng để nâng cao nhận thức cho học sinh về vai trò của chính quyền Họ Nguyễn trong việc mở mang lãnh thổ đất nước. Giúp học sinh đánh gia khách quan trung thực các sự kiện lịch sử, hạn chế sự đánh giá thiên lệch, méo mó lịch sử là mục tiêu chính của giải pháp này. Mỗi phương pháp dạy học được lựa chọn đúng sẽ mang lại hiệu quả cao, điều đó đã được chứng minh qua kinh nghiệm nhiều năm dạy môn lịch sử lớp 7 của bản thân. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp a. Bổ sung kiến thức ngoài sách giáo khoa bằng cách kể chuyện lịch sử trong giờ dạy. Có thể nói những câu chuyện kể lịch sử luôn luôn mang lại hiệu quả. Đặc biệt là gợi sự tò mò, hứng thú và hiệu quả giáo dục của các câu chuyện. Nhưng điều cần chú ý là ta phải biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ để nó phát huy giá trị và không làm mất thời gian của tiết học. Đối với mục tiêu: Để học sinh hiểu đúng về vai trò của chính quyền Họ Nguyễn trong lịch sử dân tộc, từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX. Thì giáo viên phải biết chắt lọc truyện kể và sau mỗi câu chuyện phải biết đặt những câu hỏi, hoặc gợi ý cho học sinh nêu lên suy nghĩ của mình, từ đó giáo dục tư tưởng cho học sinh. Ví dụ: Khi cho học sinh học sinh tìm hiểu sự kiện: Năm 1698 Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý phía nam, đặt phủ Gia Định. Tiếp đó vùng đất Mỹ Tho, Hà Tiên cũng được sáp nhập vào phủ này (SGK lịch sử 7 trang 110) Giáo viên có thể kể câu chuyện về Nguyễn Hữu Cảnh như: “Nam Bộ vốn thuộc đất Chân Lạp nhưng do bị suy yếu kéo dài nên bị quân Xiêm liên tục xâm lấn, vua Chân Lạp đã tìm đến sự giúp đỡ của chính quyền Đàng Trong. Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh vào vào kinh lý phía nam, đặt phủ Gia Định. Năm 1699, Vua Chân Lạp là Nặc Thu đắp lũy Bích Đôi, Nam Vang và Cầu Nam cướp bóc dân buôn người Việt. Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất đem quân lính, thuyền chiến hợp cùng tướng Trần Thượng Xuyên lo việc đánh dẹp và an dân. Rất nhanh chóng, lực lượng thủy binh của ông đã tiến thẳng đến thành La Bích (thủ phủ Nam Vang), đánh tan quân Nặc Thu. Vua Chân Lạp đầu hàng. Tháng 4 năm 1700, Nguyễn Hữu Cảnh cầm quân về đóng ở cồn Cây Sao còn gọi là cù lao Sao Mộc, nay thuộc chợ Mới, An Giang, báo tin thắng trận về kinh. Theo Gia Định thành thông chí thì tại đây, một thời gian ông bị nhiễm bệnh, hai chân tê bại, ăn uống không được. Gặp ngày Tết Đoan Ngọ ông miễn cưỡng ra dự tiệc để khích lệ tướng sĩ rồi bị trúng phong và thổ huyết. Khi quân về đến đến Sầm Giang thuộc địa phận Mỹ Tho thì ông mất. Nhân dân vùng đất mới khai phá, người Việt cũng như người Hoa, Chăm đều nhớ ơn, họ đã lập đền thờ, bài vị của ông ở nhiều nơi. Thậm chí ở xứ Nam Vang, ngày nay là Cam - pu- chia người ta vẫn thấy dấu vết của ngôi đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh. Có thể nói, chính sự khai phá vùng đất mới của Nguyễn Hữu Cảnh là cơ sở để Chúa Nguyễn từng bước thu phục các vùng đất khác. Từ khi Gia Định phủ ra đời, thế lực của Chúa Nguyễn trên vùng đất Nam bộ phát triển mạnh mẽ. Chứng kiến cảnh đó, vua nước Chân Lạp xin dâng Hà Tiên cho Chúa Nguyễn (1708). Sự kiện đất Hà Tiên được sáp nhập vào lãnh thổ của chúa Nguyễn mở ra bước ngoặt cho hành trình mở cõi, chỉ trong vòng nửa thế kỷ mà Chúa Nguyễn đã chiếm lĩnh trọn đất Đồng bằng sông Cửu Long. Năm Đinh Sửu (1757), Chúa Nguyễn tiếp quản vùng đất Tầm Phong Long do Nặc Ông Tôn dâng tặng. Hà Tiên và Tầm Phong Long được sáp nhập lãnh thổ Đàng trong đánh dấu hành trình mở cõi về phía Nam hoàn thành. ( Theo Báo pháp luật Việt Nam) Sau đó GV có thể đặt câu hỏi: Em có nhận xét gì về việc làm của Nguyễn Hữu Cảnh và cách thu phục vùng đất phía Nam của chính quyền Họ Nguyễn? Sau câu chuyện giáo viên còn có thể yêu cầu học sinh làm bài tập về nhà bằng việc tìm hiểu thêm về một số nhân vật lịch sử Đàng Trong như Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Phúc Chuvv b. Bổ sung kiến thức ngoài sách giáo khoa bằng cách cung cấp thêm tư liệu lịch sử cho học sinh. Sách giáo khoa thường cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản. Đó là một việc làm hết sức cần thiết, không cần phải bàn cãi. Nhưng thử hỏi, học xong phần lịch sử lớp 7 từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX mà học sinh chỉ nhớ được những mặt tiêu cực, phản động của chính quyền Họ Nguyễn như là “ Cõng rắn cắn gà nhà”, “ triều đình bán nước”, hoặc những chính sách tiêu cực trong nội trị, ngoại giao, qua đó khẳng định “ đây là triều đình đối lập với nhân dân”. Thì liệu có thực công bằng khách quan không với chính quyền Họ Nguyễn không. Mỗi giáo viên lịch sử chúng ta có cảm thấy ray rứt với tiền nhân không. Vì vậy để học sinh có cái nhìn công bằng khách quan, khái quát hơn, cụ thể hơn thì giáo viên nên cung cấp thêm cho học sinh những tư liêu cần thiết về công lao của chính quyền Họ Nguyễn đối với đất nước. Nhưng chú ý là tư liệu đó phải phục vụ cho việc học của học sinh phù hợp với nội dung bài học, có tính giáo dục cao. Khi bổ sung thêm tư liệu giáo viên không nên bắt ép học sinh phải có nó mà phải để cho học sinh hoàn toàn tự nguyện sử dụng. Giáo viên chỉ nên cố gắng động viên học sinh sưu tầm và sử dụng nó một cách khoa học đúng lúc. Ví dụ: Khi dạy mục I Tình hình chính trị - kinh tế của bài 27 Chế độ phong kiến nhà Nguyễn (Lịch sử 7). Giáo viên cho học sinh quan sát lược đồ hình 61 sách giáo khoa để biết được các đơn vị hành chính thời Nguyễn. Đồng thời lồng ghép giáo dục ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo. Thông qua việc giới thiệu trên lược đồ vị trí hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và cung cấp thêm cho học sinh tư liệu về việc xác lập chủ quyền của nhà Nguyễn đối với hai quần đảo này như: “Những tư liệu còn lại đến nay và chính sử vẫn đủ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một là, các bản đồ Việt Nam thế kỷ XVII đã gọi hai quần đảo bằng cái tên Bãi Cát Vàng và ghi vào địa hạt huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi Hai là, nhiều tài liệu cổ của Việt Nam như Toàn Tập Thiên Nam Tứ chí Lộ Đồ Thư (thế kỷ XVII), Phủ Biên Tạp Lục (1776), Đại Nam Thực Lục Tiền Biên và Chính Biên (1844 - 1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (1865-1875), các Châu bản nhà Nguyễn (1802-1945)... đều nói về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa như là Bãi Cát Vàng vạn dặm trên Biển Đông và việc Nhà nước cử đội Hoàng Sa ra khai thác các quần đảo này. Ba là, nhiều sách cổ, bản đồ cổ của nước ngoài cũng thể hiện các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Đỉnh cao nhất của việc tuyên bố và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là vào năm 1816 khi vua Gia Long sai quân lính ra quần đảo Hoàng Sa cắm cờ Việt Nam và tuyên bố chủ quyền. Cũng cần nói thêm là trong một thời gian khá dài, người Việt Nam luôn coi quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một dải đảo dài hàng vạn dặm trên Biển Đông, nên gọi là Vạn Lý Trường Sa, hay Đại Trường Sa, Bãi Cát Vàng... Trên thực tế, các chúa Nguyễn cũng như nhà Nguyễn sau này đều có nhiều hành động liên tục cử người ra cai quản, khai thác các đảo trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để thực thi quyền chủ quyền và khai thác hai quần đảo. Các thể lệ tuyển chọn người, chế độ khen thưởng, đãi ngộ đối với các đội đều được Nhà nước quy định rõ ràng. Các đội này được duy trì và hoạt động liên tục từ thời chúa Nguyễn (1558-1783) đến nhà Tây Sơn (1786-1802) và nhà Nguyễn. Triều đình Nhà Nguyễn đã cử các tướng Phạm Quang Ảnh (năm 1815), Trương Phúc Sĩ, Phạm Văn Nguyên, Phạm Hữu Nhật (các năm 1834, 1835, 1836) ra Hoàng Sa khảo sát, đo đạc các đảo, khảo sát, vẽ bản đồ, xây miếu, dựng bia.” Câu hỏi: Em có suy nghĩ gì về việc xác lập chủ quyền biển đảo của chính quyền Họ Nguyễn? Trách nhiệm của chúng ta ngày nay đối với chủ quyền biển đảo của tổ quốc như thế nào? Sau đó giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu thêm nội dung này, thông qua việc tìm đọc trên các trang mạng MaxReadinh và một số tài liệu khác nói về chuyên mục: Cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam của các học giả trong và ngoài nước. c. Kết hợp bổ sung tư liệu lịch sử với sử dụng hình ảnh, lược đồ. Tư liệu lịch sử được kết hợp với hình ảnh, lược đồ minh họa sẽ rất có giá trị trong học tập. Nó giúp học sinh có thể hình dung vấn đề rõ hơn về công lao của chính quyền Họ Nguyễn đối với đất nước trong các thế kỷ XVI – XIX. Từ đó để lại ấn tượng sâu sắc trong trí nhớ của học sinh. Giúp học sinh có thể khắc sâu hơn về cách đánh giá sự kiện, nhân vật lịch sử. Ngày nay, giáo viên ngoài việc tận dụng kênh hình trong sách giáo khoa lịch sử, thì có thể tận dụng mạng internet để có được những hình ảnh rất đẹp phục vụ cho việc dạy lịch sử. Điều chú ý của giáo viên khi sử dụng hình ảnh kết hợp với tư liệu lịch sử là : Hình ảnh phải phù hợp với tư liệu và nội dung kiến thức của bài học. Trong lúc sử dụng cần đặt các câu hỏi để HS suy nghĩ tìm ra các vấn đề liên quan đến hình ảnh chứ không để cho học sinh nhìn hình chỉ vì nó lạ, đẹp. Đối với các nhân vật lịch sử có thể đặt dạng câu hỏi như: Em biết gì về nhân vật lịch sử này? Ông có công lao gì? Ta có thể học được gì nơi ông? Đối với các hình ảnh là lược đồ, bản đồ ta có thể đặt câu hỏi: Lược đồ ( bản đồ) phản ánh nội dung gì? Nó liên quan đến triều đại nào, sự kiện lịch sử nào? Qua hình đó thể hiện điều gì (liên quan đến bài học)? và qua đó giáo dục tư tưởng cho HS. Ví dụ: khi học về tình hình thương nghiệp thời Nguyễn giáo viên có thể cung cấp thêm cho học sinh tư liệu về Hội An , kết hợp với quan sát hình ảnh: Thương cảng Hội An thế kỷ XVIII (hình 64 SGK lịch sử 7 trang138) để học sinh thấy được những cố gắng của nhà Nguyễn trong việc xây dựng đất nước, ở trong hoàn cảnh đang bị các thế lực ngoại xâm phương Tây đe dọavv Hay giáo viên có thể sử dụng lược đồ: Các đơn vị hành chính Việt Nam thời Nguyễn (hình 63 SGK lịch sử 7 trang135) kết hợp với việc cung cấp thêm các tư liệu: Thời Lý biên giới phái nam của Đại Việt đến phia bắc Quảng trị. Thời Trần biên giới phái nam của Đại Việt đến đèo Hải Vân. Cuối thế kỷ XV thời vua Lê Thánh Tông đến năm 1471 biên giới phái nam của Đại Việt đến đèo Cù Mông (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên ngày nay). Nhưng đến năm 1757 thời chúa nguyễn Phúc Khoát, lãnh thổ của nước ta cơ bản đã được như trong lược đồ. Bên cạnh đó là quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam ở các đảo như: Côn Đảo (1704), Phú Quốc ( 1708), Trường Sa , Hoàng Sa (từ thế kỷ XVII) ..vv sau đó cho học sinh đánh dầu trên lược đồ thời gian xác lập chủ quyền của nước ta qua các thời kỳ đối với phần lãnh thổ phía Nam, cũng như các đảo, quần đảo trên Biển Đông và vịnh Thái Lan với hoạt động này, học sinh sẽ thấy được việc mở mang lãnh thổ về phía nam của nước ta được tiến hành mạnh mẽ nhất, hiệu quả nhất là thời các chúa Nguyễn và thời kỳ đầu của triều Nguyễn từ cuối thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX. Điều đó giúp các em khẳng định được chính quyền họ Nguyễn là chính quyền có công rất lớn trong việc mở mang lãnh thổ về phía Nam và xác lập chủ quyền biển đảo cho nước ta. Qua đó các em có cách đánh giá công bằng hơn, khách quan hơn khi học về những hạn chế của các nhân vật lịch sử thời Nguyễn và của chính quyền Họ Nguyễn mà trong sách giáo khoa đề cập rất nhiều. 3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp Việc sử dụng phương pháp dạy học bổ sung thêm các tư liệu lịch sử thông qua việc cung cấp tư liệu, kể chuyện lịch sử, sử dụng hình ảnh...vv khi dạy phần lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX ( Lịch sử 7). Để làm cho học sinh, có nhận thức đúng đắn hơn về công lao của chính quyền Họ Nguyễn, đối với lịch sử dân tộc trong giai đoạn này có thể thực hiện được đối với tất cả các đối tượng học sinh, ở tất cả các địa bàn, trong điều kiện dạy học bình thường cũng như khi có phương tiện công nghệ hỗ trợ. Chỉ lưu ý là giáo viên khi thực hiện phải nghiên cứu đối tượng học sinh từng lớp, từng bài, từng hoạt động dạy học, để làm sao đảm bảo được thời lượng của tiết học học và phù hợp khả năng nhận thức của học sinh từng lớp. 3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Khi sử dụng các phương pháp dạy học nói trên, giáo viên cần nắm vững những nội dung kiến thức lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XIX. Giáo viên cũng cần chú ý điều chỉnh uốn nắn những nhận định thiếu công bằng, không khách quan của học sinh đối với những hạn chế của chính quyền Họ Nguyễn . Khi thấy học sinh cơ bản đã nắm được vấn đề rồi thì tiến hành cho các em liên hệ thực tế, liên hệ bản thân, hướng các em vào cách giả quyết tình huống pháp luật thường gặp trong cuộc sống, để để rút ra bài học cho bản thân. Làm được như vậy chắc chắn hiệu quả dạy học sẽ cao hơn rất nhiều. 3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu Qua
Tài liệu đính kèm: