Luyện tập, thực hành
Sau khi học sinh đã nắm được các công thức, cách giải từng dạng của các bài bài toán cơ bản về chuyển động đều, tôi tiếp tục cho các em luyện tập thêm vào các buổi học thứ hai. Trong quá trình hướng dẫn học sinh, giáo viên phải kiên trì, đi từng dạng bài tập. Với mỗi dạng, giáo viên hướng dẫn thật kĩ. Sau khi làm thành thạo thì cho học sinh áp dụng làm nhiều bài tập với từng dạng đó. Việc làm này được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần để các em khó khăn nhớ, thành thạo trong cách giải bài toán. Song song với việc cho các em luyện tập thực hành nhiều thì tôi kết hợp kiểm tra các công thức, những điều cần ghi nhớ liên quan đến cách giải bài toán chuyển động đều thường xuyên vào đầu giờ học để giúp các em nhớ mãi, nhớ lâu, thành thạo trong cách giải các bài toán.
Ngoài ra, việc tổ chức “Trò chơi” trong quá trình học tập cũng chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong việc ôn tập, củng cố, khắc sâu kiến thức cho các em. Tôi thường tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Ai nhanh, ai đúng”. Em nào nhanh, đúng sẽ có thưởng.
ng em khó khăn là những em có tư duy chậm, khả năng ghi nhớ chưa tốt, các em nắm được kiến thức nhưng lại rất mau quên. Các em không xác lập được mối quan hệ giữa các dữ liệu của bài toán đã cho và cái phải tìm nên đẫn đến không giải được bài toán. Vậy làm thế nào để học sinh thuộc, ghi nhớ các kiến thức cơ bản, không bị nhầm lẫn giữa các dạng toán, phân biệt được dạng toán này với dạng toán kia và biết cách xác lập mối quan hệ giữa các dữ liệu của bài toán, tìm ra cách giải, phép tính và lời giải đúng cho bài toán, đó là điều mà tôi thường trăn trở, suy nghĩ. Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài “Kinh nghiệm giúp học sinh khó khăn lớp 5 giải đúng các bài toán cơ bản về chuyển động đều”. II. Mục đích nghiên cứu - Trang bị cho mỗi học sinh vốn kiến thức toán học vững vàng, giúp học sinh khó khăn môn toán nhận dạng, phân biệt giải đúng các bài toán về chuyển động đều cơ bản. - Giúp học sinh biết tìm hiểu, phân tích, phân biệt tìm được cách giải và thực hiện giải, trình bày đúng các bài toán về chuyển động đều một cách thành thạo, hiệu quả. - Giáo dục học sinh ý thức, thái độ học tập đúng đắn. Phần thứ hai: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lí luận để thực hiện đề tài Việc dạy học giải toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán, được rèn luyện kỹ năng thực hành với những yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng. Việc học giải toán còn góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề; nó góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo; nó góp phần vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và tác phong khoa học. Học giải toán mang nhiều tính trừu tượng, khái quát và liên tưởng trong đó có tính thực tiễn. Học sinh không thể cảm thụ bằng giác quan của các sự vật hiện tượng (như nặng, nhẹ, cứng, mềm, màu sắc,) mà phải đưa chúng vào các hình dạng không gian và quan hệ số lượng. Để có thể nắm chắc kiến thức, kĩ năng giải toán học sinh phải chủ động, tích cực và tự giác học tập. Muốn vậy giáo viên phải định hướng giúp học sinh phát hiện vấn đề và tích cực giải quyết vấn đề. ( Trích giáo trình phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học – Tác giả: Đỗ Trung Hiệu, Đỗ Đình Hoan, Vũ Dương Thụy, Vũ quốc Trung – Nhà xuất bản Đại học Sư phạm). Nhưng trong thực tế, mỗi bài toán lại có phép tính, lời giải và cách thực hiện khác nhau. Muốn giải đúng các bài toán cơ bản về chuyển động đều, học sinh cần phải xác định được bài toán đó thuộc dạng toán nào đã học? Dạng toán đó được giải như thế nào? Học sinh phải hiểu và xác lập được mối quan hệ giữa các dữ liệu của đề bài. Có như vậy học sinh mới giải đúng bài toán. Để giúp học sinh giải toán, giáo viên cần phải nghiên cứu bài, có hệ thống câu hỏi gợi ý dễ hiểu và có sự lô gic chặt chẽ nhằm giúp học sinh hiểu kĩ nội dung bài toán. Đây là một đặc trưng quan trọng của dạy giải toán mà khi giáo viên dạy cần chú ý. Dựa trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu về các phương pháp dạy học toán ở tiểu học. Công văn số 5842/BGD ĐT-VP ngày 01/9/2011 của Bộ giáo dục về hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học và chuẩn kiến thức kỹ năng mà học sinh cần đạt được sau giờ học toán, những kiến thức có trong bài học, tham khảo sách hướng dẫn và một số tài liệu bồi dưỡng trong chương trình toán ở tiểu học. Thông tư 22/2016 của BGD&ĐT về sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo TT30/2014/BGD. Công văn số 35/2009 giảm thiểu học sinh lưu ban, bỏ học. Quyết định 16/2006 của BGD-ĐT. Bên cạnh đó còn có sự đúc kết kinh nghiệm của bản thân qua thực tế phụ đạo học sinh khó khăn môn toán thời gian qua. II. Thực trạng Sau khi học xong chương Toán chuyển động đều, tôi tiến hành khảo sát chất lượng học sinh lớp 5A, năm học 2017 – 2018, kết quả như sau: Khảo sát TSHS Học sinh đạt Chuẩn kiến thức kĩ năng Học sinh chưa đạt Chuẩn kiến thức kĩ năng Năm học 2017- 2018 25 20 5 - Dạng toán chuyển động đều là một trong những dạng toán gần như mới mẻ và rất phức tạp đối với học sinh lớp 5. Các em làm quen với dạng toán này trong thời gian rất ngắn ở học kì II. Việc rèn luyện, hình thành, củng cố kĩ năng, kĩ xão giải toán của học sinh ở dạng toán này gần như rất ít. Chính vì vậy, học sinh không tránh khỏi những khó khăn khi giải toán. - Khi làm bài, các em không đọc kĩ đề bài toán, thiếu sự suy nghĩ cặn kẽ những dữ kiện và điều kiện đưa ra trong bài toán dẫn đến không biết suy luận tìm dữ liệu. - Một số học sinh tiếp thu chậm, hiểu máy móc, nhìn làm theo mẫu, tư duy chưa linh hoạt. Óc tư duy phán đoán chậm. - Trong quá trình giải toán học sinh còn nhầm lẫn ở đơn vị đo thời gian, lúng túng trong việc đổi đơn vị đo thời gian, vận tốc (Ví dụ: Đổi phút ra giờ, m/giờ ra km/giờ và ngược lại). - Học sinh chưa nắm vững kiến thức cơ bản về dạng toán chuyển động đều, hệ thống các công thức cần ghi nhớ. - Giáo viên chưa chú trọng trong việc hướng dẫn học sinh cách giải theo từng dạng bài, chưa khắc sâu được kiến thức cần nhớ cho các em. III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề Biện pháp 1: Cung cấp, hướng dẫn học sinh nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản Ở dạng toán này, tôi củng cố, khắc sâu kiến thức về cách tính vận tốc, quãng đường, thời gian, như sau: - Muốn tính vận tốc ta lấy quãng đường chia cho thời gian. Công thức tính: v = s : t ( v là vân tốc, s là quãng đường, t là thời gian) - Muốn tính quãng đường ta lấy vận tốc nhân với thời gian. Công thức tính: s = v x t (s là quãng đường, v là vân tốc, t là thời gian) - Muốn tính thời gian ta lấy quãng đường chia cho vận tốc. Công thức tính: t = s : v (t là thời gian, s là quãng đường, v là vân tốc) - Một số chú ý: Nếu quãng đường s được xác định theo mét(m), thời gian t xác định theo giây thì vận tốc v được xác định theo m/giây. Nếu quãng đường s được xác định theo ki-lô-mét(km), thời gian t xác định theo giờ thì vận tốc v được xác định theo km/giờ. Nếu vận tốc v được xác định theo km/giờ, thời gian t được xác định theo giờ thì quãng đường s được xác định theo ki-lô-mét(km). Nếu vận tốc v được xác định theo m/giờ, thời gian t được xác định theo giờ thì quãng đường s được xác định theo mét(m). Nếu quãng đường s được xác định theo ki-lô-mét(km), vận tốc v được xác định theo km/giờ thì thời gian t được xác định theo giờ. - Đối với với bài toán về chuyển động ngược chiều, cùng lúc: Muốn tính thời gian 2 động cơ gặp nhau ta lấy quãng đường chia cho tổng vận tốc. Công thức: t = s : (v1 + v2) ( t là thời gian, s là quãng đường, v1 và v2 là vận tốc của 2 động cơ) Đối với bài toán về chuyển động cùng chiều, không cùng lúc: Muốn tính thời gian 2 động cơ gặp nhau ta lấy quãng đường chia hiệu vận tốc. Công thức: t = s : (v2 – v1) (v2 > v1) ( t là thời gian, s là quãng đường, v1 và v2 là vận tốc của 2 động cơ) Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách đổi dơn vị đo - Ôn lại cách đổi đơn vị đo thời gian và mối quan hệ giữa chúng: 1 ngày = 24 giờ 1 giờ = 60 phút 1 phút = 60 giây Ví dụ: 15 phút = ? giờ Vì 1 giờ = 60 phút nên 15 phút = giờ = giờ = 1 : 4 = 0,25 giờ Tương tự: 30 phút = giờ = giờ = 1 : 2 = 0,5 giờ 45 phút = giờ = giờ = 3 : 4 = 0,75 giờ 10 phút = giờ = giờ 12 phút = giờ = giờ = 1 : 5 = 0,2 giờ 24 phút = giờ = giờ = 2 : 5 = 0,4 giờ 30 phút = 0,5 giờ Ví dụ: 1 giờ 24 phút = ? giờ Vì từ cách đổi ở trên 24 phút = 0,4 giờ, hướng dẫn học sinh lấy 1 + 0,4 = 1,4 giờ. Vậy 1 giờ 24 phút = 1,4 giờ. Tương tự: 1 giờ 30 phút = 1 + 0,5 = 1,5 giờ 1 giờ 15 phút = 1 + 0,25 = 1,25 giờ - Đổi từ km/giờ sang km/phút Ví dụ: 180km/giờ = ? km/phút Vì 1 giờ = 60 phút nên ta lấy 180 : 60 = 3. Vậy 180km/giờ = 3km/phút. Vậy muốn đổi từ km/giờ sang km/phút ta chỉ việc lấy đơn vị phải đổi chia cho 60. - Đổi từ km/phút sang m/phút: Ví dụ: 3km/phút = ? m/phút Vì 1km = 1000m nên ta lấy 3 x1000= 3000. Vậy 3km/phút = 3000m/phút. Vậy muốn đổi từ km/phút sang m/phút ta chỉ việc lấy đơn vị phải đổi nhân với 1000. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh giải từng dạng bài cụ thể Hoạt động tóm tắt và tìm cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ liệu, điều kiện và câu hỏi của bài toán nhằm xác lập mối liên hệ giữa chúng và tìm được các phép tính thích hợp. Đây là bước quan trọng nhất, quyết định đến hiệu quả làm bài của học sinh. Bởi vì, thông qua bước này, học sinh sẽ nắm được mối liên hệ giữa các dữ kiện, số liệu mà đề bài đã cho với cái cần tìm để trả lời cho câu hỏi của bài toán. Nếu bước này học sinh phân tích không kĩ càng, không khai thác hết các dữ kiện của đề toán thì có thể các em sẽ hiểu không đúng và dẫn đến đi lệch hướng, làm không đúng bài toán. Hoạt động này thường diễn ra theo trình tự sau: * Phân tích bài toán: Bước này giáo viên cho học sinh đọc kĩ bài toán, dùng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt học sinh trả lời. + Bài toán này cho biết gì? + Bài toán yêu cầu chúng ta làm gì? + Bài toán này thuộc dạng toán gì? + Áp dụng công thức nào để tính ? Dạng 1: Bài toán 3: (Sách toán tập 2, VNEN, trang 31) Một con ngựa chạy với vận tốc 32km/giờ. Tính quãng đường chạy của con ngựa đó trong 1 giờ 15 phút. Với dạng bài này tôi hướng dẫn như sau: - Đọc kĩ bài toán. - Bài toán cho biết gì?( Vận tốc 32km/giờ, thời gian 1 giờ 15 phút) - Bài toán hỏi gì? ( Tính quãng đường) - Ta vận dụng công thức nào để tính ? ( s = v x t) - Để giải được bài toán này ta cần lưu ý điều gì ? ( Đổi đơn vị thời gian ra giờ để đồng nhất với đơn vị đo vận tốc.) Vậy học sinh sẽ dễ dàng giải được bài toán. Bài giải Đổi 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ Quãng đường chạy của con ngựa là : 32 x 1,25 = 48 (km) Đáp số : 48 km * Lưu ý: Đổi đơn vị thời gian ra giờ để đồng nhất đơn vị đo vận tốc. Dạng 2: Bài toán 4: (Sách toán tập 2, VNEN, trang 31) Một con chuột túi có thể di chuyển với vận tốc 14 m/giây. Tính quãng đường di chuyển được của chuột túi trong 2 phút 10 giây. Ở bài toán này, cách hướng dẫn giải như bài toán 3 nhưng khác ở chỗ là phải đổi đơn vị thời gian ra giây để đồng nhất với đơn vị đo vận tốc. Bài giải Đổi 2 phút 10 giây = 130 giây Quãng đường di chuyển của chuột túi là : 14 x 130 = 1820 (m) Đáp số : 1820 m * Lưu ý: Đổi đơn vị thời gian ra giây để đồng nhất đơn vị đo vận tốc. Dạng 3 : Bài toán 3: (Sách toán tập 2, VNEN, trang 35) Một con ốc sên bò với vận tốc 15 cm/phút. Hỏi con ốc sên bò được quãng đường 1,2 m trong thời gian bao lâu? Với dạng bài này tôi hướng dẫn như sau: - Đọc kĩ bài toán. - Bài toán cho biết gì?( Vận tốc 15cm/phút, quãng đường 1,2 m) - Bài toán hỏi gì? ( Tính thời gian) - Ta vận dụng công thức nào để tính ? ( t = s : v) - Để giải được bài toán này ta cần lưu ý điều gì ? ( Đổi đơn vị quãng đường ra xăng-ti-mét(cm) để đồng nhất với đơn vị đo vận tốc.) Bài giải Đổi 1,2 m = 120 cm Thời gian ốc sên bò là : 120 : 15 = 8 (phút) Đáp số : 8 phút * Lưu ý: Đổi đơn vị quãng đường ra xăng-ti-mét (cm) để đồng nhất đơn vị đo vận tốc. Dạng 4: Bài toán 4 : (Sách toán tập 2, VNEN, trang 38) Một xe máy đi một đoạn đường dài 1875m hết 3 phút. Tính vận tốc của xe máy với đơn vị đo là km/giờ. Với dạng bài này tôi hướng dẫn như sau: - Đọc kĩ bài toán. - Bài toán cho biết gì?( Quãng đường 1875 m, thời gian 3 phút) - Bài toán hỏi gì? ( Tính vận tốc với đơn vị đo là km/giờ) - Ta vận dụng công thức nào để tính ? ( v = s : t) - Để giải được bài toán này ta cần lưu ý điều gì ? ( Đổi đơn vị quãng đường ra ki- lô-mét(km) và đổi thời gian ra giờ để đồng nhất với đơn vị đo vận tốc.) Bài giải Đổi 1875 m = 1,875 km 3 phút = 0,05 giờ Vận tốc của xe máy là : 1,875 : 0,05 = 37,5 (km/giờ) Đáp số : 37,5 km/giờ * Những lưu ý cần nhớ khi giải các dạng toán này là : Đọc kĩ và nắm vững đề bài. Xác định công thức tính. Lưu ý đổi đơn vị quãng đường ra ki- lô-mét(km) và đổi thời gian ra giờ để đồng nhất với đơn vị đo vận tốc. Dạng 5: Bài toán 2 : (Sách toán tập 2, VNEN, trang 41) Một xe tải đi từ A đến B với vận tốc 52 m/giờ. Xe tải khởi hành lúc 8 giờ 20 phút và đến B lúc 10 giờ 35 phút. Tính độ dài quãng đường AB. Với bài toán này tôi hướng dẫn học sinh theo các bước sau : Đọc kĩ yêu cầu đề bài. Phân tích bài toán. Bài toán cho ta biết gì? ( Vận tốc 52 km/giờ, thời gian xuất phát là 8 giờ 20 phút và đến nơi lúc 10 giờ 35 phút) Bài toán hỏi gì? (Tính độ dài quãng đường.) Ta áp dụng công thức nào để tính? ( s = v x t) Để tính được quãng đường ta cần biết yếu tố nào? (vận tốc và thời gian) Để tính được thời gian xe tải đi ta cần biết yếu tố nào? (thời gian xuất phát và thời gian đến nơi ) Việc tính thời gian thực hiện như thế nào ? (Lấy thời gian đến trừ đi thời gian xuất phát) Hướng dẫn trình bày bài giải Bài giải Thời gian xe tải đi là: 10 giờ 35 phút – 8 giờ 20 phút = 2 giờ 15 phút Đổi 2 giờ 15 phút = 2,25 giờ Quãng đường xe tải đi là: 52 x 2,25 = 117 (km) Đáp số : 117 km * Lưu ý cần nhớ ở dạng bài này: Tính thời gian đi bằng cách lấy thời gian đến nơi trừ đi thời gian xuất phát. Dạng 6: Bài toán 2: (Sách toán tập 2, VNEN, trang 119) Một ô tô đi từ tỉnh A lúc 7 giờ và đến tỉnh B lúc 11 giờ 45 phút. Ô tô đi với vận tốc 48 km/giờ và nghỉ dọc đường 15 phút. Tính quãng đường từ tỉnh A đến tỉnh B. Bài toán này hướng dẫn học sinh giải tương tự như bài toán ở dạng 5 nhưng chỉ khác là nghỉ dọc đường hết 15 phút. Vậy khi tính thời gian ô tô đi ta lấy thời gian đến nơi trừ đi thời gian xuất phát và trừ đi thời gian nghỉ đọc đường. Hướng dẫn trình bày bài giải Bài giải Thời gian ô tô đi là: 11 giờ 45 phút – 7 giờ - 15 phút = 4 giờ 30 phút Đổi 4 giờ 30 phút = 4,5 giờ Quãng đường ô tô đi từ tỉnh A dến tỉnh B là: 48 x 4,5 = 216 (km) Đáp số : 216 km * Lưu ý cần nhớ: Ở bài toán này tính thời gian đi bằng cách lấy thời gian đến nơi trừ đi thời gian xuất phát và trừ đi thời gian nghỉ dọc đường. Dạng 7: Bài toán 3: (Sách toán tập 2, VNEN, trang 40) Quãng dường AB dài 276 km. Hai ô tô khởi hành cùng một lúc, một xe đi từ A đến B với vận tốc 40 km/giờ, một xe đi từ B đến A với vận tốc 52 km/giờ. Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ hai ô tô gặp nhau ? Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán: Đọc kĩ bài toán. Phân tích bài toán. Bài toán cho biết gì? ( hai xe đi ngược chiều nhau, s = 276 km, v1 = 40 km/giờ, v2 = 52 km/giờ) Bài toán yêu cầu tìm gì ? (Thời gian 2 xe gặp nhau) Xác định dạng của bài toán? ( Đây là bài toán chuyển động ngược chiều, cùng lúc, tìm thời gian gặp nhau) Để biết được hai xe gặp nhau lúc mấy giờ, trước tiên ta cần biết gì ? (Mỗi giờ cả hai xe đi được bao nhiêu km? (Tức là tổng vận tốc của hai xe) Việc tính tổng vận tốc được thực hiện thế nào ? (40 + 52 = 92 km) Như vậy ta có bài toán : Cả hai xe đi 92 km trong 1 giờ. Vậy 276 km đi trong ? giờ. Đây là bài toán tỉ lệ thuận giữa thời gian và quãng đường. Việc tính thời gian hai xe gặp nhau được thực hiện thế nào? ( 276 : 92 = 3 giờ) Trình bày bài giải : Bài giải Sau mỗi giờ, cả hai ô tô đi được quãng đường là: 40 + 52 = 92 (km) Hoặc Tổng vận tốc của hai ô tô là : 40 + 52 = 92 (km) Thời gian để hai ô tô gặp nhau là : 276 : 92 = 3 (giờ) Đáp số : 3 giờ * Lưu ý công thức chung cho bài toán : t = s : (v1 + v2) Dạng 8: Bài toán 2 : (Sách toán tập 2, VNEN, trang 43) Một người đi xe đạp từ B đến C với vận tốc 15 km/giờ, cùng lúc đó một xe máy từ A cách B là 48 km với vận tốc 39 km/giờ và đuổi theo xe đạp. Hỏi từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ xe máy đuổi kịp xe đạp? Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài toán: Đọc kĩ bài toán. Phân tích bài toán. Bài toán cho biết gì? ( hai xe đi cùng chiều nhau, s = 48 km, v1 = 15 km/giờ, v2 = 39 km/giờ) Bài toán yêu cầu tìm gì ? (Thời gian 2 xe gặp nhau) Để biết được xe máy đuổi kịp xe đạp lúc mấy giờ, trước tiên ta cần biết gì ? (Sau mỗi giờ xe máy gần xe đạp bao nhiêu km? (Tức là hiệu vận tốc của hai xe) Việc tính hiệu vận tốc được thực hiện thế nào? (39 - 15 = 24 km) Việc tính thời gian để xe máy đuổi kịp xe đạp được thực hiện thế nào? ( 48 : 24 = 2 giờ) Trình bày bài giải : Bài giải Sau mỗi giờ, xe máy gần xe đạp là: 39 - 15 = 24 (km) Hoặc hiệu vận tốc của hai xe là : 39 - 15 = 24 (km Thời gian đi để xe máy đuổi kịp xe đạp là : 48 : 24 = 2 (giờ) Đáp số : 2 giờ * Lưu ý công thức chung cho bài toán : t = s : (v2 – v1), (v2 > v1) Biện pháp 4: Luyện tập, thực hành Sau khi học sinh đã nắm được các công thức, cách giải từng dạng của các bài bài toán cơ bản về chuyển động đều, tôi tiếp tục cho các em luyện tập thêm vào các buổi học thứ hai. Trong quá trình hướng dẫn học sinh, giáo viên phải kiên trì, đi từng dạng bài tập. Với mỗi dạng, giáo viên hướng dẫn thật kĩ. Sau khi làm thành thạo thì cho học sinh áp dụng làm nhiều bài tập với từng dạng đó. Việc làm này được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần để các em khó khăn nhớ, thành thạo trong cách giải bài toán. Song song với việc cho các em luyện tập thực hành nhiều thì tôi kết hợp kiểm tra các công thức, những điều cần ghi nhớ liên quan đến cách giải bài toán chuyển động đều thường xuyên vào đầu giờ học để giúp các em nhớ mãi, nhớ lâu, thành thạo trong cách giải các bài toán. Ngoài ra, việc tổ chức “Trò chơi” trong quá trình học tập cũng chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong việc ôn tập, củng cố, khắc sâu kiến thức cho các em. Tôi thường tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “Ai nhanh, ai đúng”. Em nào nhanh, đúng sẽ có thưởng. Ví dụ: - Muốn tính quãng đường ta làm thế nào? - Muốn tính vận tốc ta làm thế nào? - Muốn tính thời gian ta làm thế nào? - Quãng đường, vận tốc, thời gian kí hiệu là gì? - Nếu đơn vị quãng đường là (km), thời gian là (giờ) thì đơn vị vận tốc là gì? - . Với cách làm như vậy, học sinh khó khăn sẽ hứng thú học hơn, chăm học hơn, kết quả học tập cũng cao hơn. IV. Tính mới của giải pháp Phân dạng các bài toán chuyển động đều, đồng thời phân tích, nhận xét nêu ra các bước đi nhằm dạy từng dạng toán sao cho phù hợp với khả năng của học sinh. Nâng cao chất lượng giải các bài toán về chuyển động đều cho học sinh khó khăn lớp 5. V. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm So sánh, đối chiếu kết quả học tập môn toán chương Chuyển động đều của lớp 5A, năm học 2017 – 2018 và lớp 5B năm học 2018 - 2019 đã có sự thay đổi rõ rệt như sau: Khảo sát TSHS Học sinh đạt Chuẩn kiến thức kĩ năng Học sinh chưa đạt Chuẩn kiến thức kĩ năng Năm học 2017- 2018 25 20 5 Năm học 2018- 2019 25 25 0 Qua các biện pháp nêu trên đã giúp các em học sinh khó khăn có sự tiến bộ một cách vượt bậc, đưa chất lượng học tập của các em nâng dần. Cụ thể nhiều em rất khó khăn trong việc giải toán có lời văn, kĩ năng tính toán rất chậm, không phân biệt được các dạng toán giải, không giải được các bài toán nhưng khi vận dụng các biện pháp trên các em đã cơ bản thuộc, ghi nhớ được các công thức toán, nhận dạng, phân tích và thực hiện giải được các dạng toán một cách thành thạo, hiệu quả. Đưa chất lượng của năm học này cao hơn so với chất lượng của năm học trước. Với những kinh nghiệm trên tôi đã góp phần nâng cao chất lượng của giờ dạy học toán nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Đồng thời tạo sự say mê hứng thú cho học sinh khi học toán và từ đó học sinh ngày càng yêu thích môn toán hơn. Phần thứ ba: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ I. Kết luận - Để học sinh hiểu, làm tốt các bài tập trước hết giáo viên phải hiểu và nắm chắc các kiến thức và kĩ năng dạy học, biết hướng khai thác để giúp học sinh phát triển tư duy, sáng tạo trong dạy học toán. - Thật sự hết mình “Vì đàn em thân yêu”, xem các em này là một đối tượng mà mình cần phải có trách nhiệm giúp đỡ. Nếu giáo viên nhận thức được như vậy thì các em không còn là gánh nặng đối với giáo viên. - Thường xuyên theo dõi và ghi nhận sự tiến bộ của các em, cũng như những hạn chế, khó khăn các em gặp phải để kịp thời điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với từng cá thể học sinh. - Giáo viên phải bình tĩnh, khéo léo, tuyệt đối tránh nôn nóng, xúc phạm các em; phải từng bước dẫn dắt các em trong bầu không khí học tập thoải mái, nhẹ nhàng, tạo tâm lý hưng phấn thích học, thích khám phá, tìm tòi ở các em. Từ đó nâng cao dần tri thức (nhưng phải đảm bảo t
Tài liệu đính kèm: