Bài 5: “Trung Quốc thời phong kiến”. Ở bài này, kiến thức địa lí được vận dụng để xác định lược đồ, bản đồ Trung Quốc thời phong kiến, về Vạn lí trường thành thời Tần . Từ đó học sinh hiểu được tình trạng cát cứ của Trung Quốc trước thời Tần và tại sao nhà Tần xây dựng Vạn lí trường thành.
Kiến thức văn học sẽ hỗ trợ học sinh mở rộng và khắc sâu hơn về sự phát triển của Trung Quốc thời Đường. Ví dụ: Thơ Đường phát triển rực rỡ. Học sinh có thể liên hệ các bài thơ nổi tiếng của Lí Bạch (“Xa ngắm thác núi Lư”), Đỗ Phủ (“Bài ca nhà tranh bị gió thu phá”), Bạch Cư Dị (“Tì bà hành”). Hoặc liên hệ kiến thức liên môn, học sinh hiểu rõ hơn về lịch sử Trung Quốc thông qua nhận thức thành tựu văn hóa Trung Quốc thời Minh-Thanh. Các bộ tiểu thuyết nổi tiếng, như: Tam quốc diễn nghĩa miêu tả cuộc đấu tranh về quân sự, chính trị phức tạp giữa ba nước Ngụy, Thục, Ngô, liên hệ trong văn học với đoạn trích “Hồi trống cổ thành”; Tác phẩm Thủy hử tường thuật cuộc khởi nghĩa nông dân do Tống Giang lãnh đạo chống chế độ phong kiến của nông dân Trung Quốc.
chuyên môn, củng cố và mở rộng kiến thức của mình. Vì lí do đó, tôi chọn nghiên cứu đề tài: "Giúp học sinh nâng cao hiệu quả học tập lịch sử ở trường THPT qua việc vận dụng kiến thức liên môn Văn học, Địa lý” nhằm trang bị thêm cho các em học sinh những kiến thức liên môn có giá trị, hiệu quả để nhận thức tốt các vấn đề lịch sử trong chương trình, từ đó vận dụng giải quyết các câu hỏi, bài tập khó trong các kỳ thi, định hướng tốt hơn, tránh nhầm lẫn, lạc hướng. II. Mục đích nghiên cứu Từ đề tài nêu trên, giúp học sinh hình thành phương pháp để nhận thức tốt vấn đề lịch sử, đồng thời có thể áp dụng được các kĩ năng, kĩ xảo trong từng tình huống cụ thể. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu và trên thức tế dạy học, giúp học sinh ghi nhớ, và áp dụng nhanh chóng, hiệu quả. Đề tài cũng giúp cá nhân tôi nâng cao kiến thức và tự bồi dưỡng chuyên môn, trao đổi chuyên môn và kinh nghiệm trong phương pháp dạy học lịch sử nói riêng, mở rộng thêm kiến thức về văn học, địa lý. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu được áp dụng cho học sinh khối lớp 10, 11, 12 - chương trình THPT - ban cơ bản, phạm vi áp dụng cho 3 khối học là ngang nhau. Với phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm ở trường THPT, Đề tài chỉ đề cập đến một số vấn đề của môn lịch sử lớp 10, 11, 12, đó là: Học sinh nâng cao hiệu quả học tập lịch sử. Hướng dẫn cho các em cách vận dụng kiến thức văn học, địa lý để tiếp cận nhanh hơn, nhận thức sâu hơn, nhớ lâu kiến thức lịch sử. VI. Phương pháp nghiên cứu Vận dụng kiến thức liên môn văn học, địa lí khắc sâu và lý giải các sự kiện, hiện tượng, vấn đề lịch sử: - Mở rộng, lý giải, bình luận, đánh giá các sự kiện lịch sử trong nước từ thời cổ đại đến thời cận đại, hiện đại; - Mở rộng, lý giải, bình luận, đánh giá các sự kiện lịch sử thế giới từ thời cổ đại đến thời cận đại, hiện đại, từ đó liên hệ tình hình trong nước. Liên hệ, so sánh, hướng dẫn, phân loại các hiện tượng, vấn đề lịch sử để có thể giải quyết các câu hỏi, tình huống khó. B. NỘI DUNG I. Nhận thức khái quát về việc vận dụng kiến thức liên môn 1. Tầm quan trọng của việc vận dụng kiến thức liên môn Thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông trước đây cũng như từ khi triển khai chương trình giảm tải, nhiều giáo viên vẫn chưa hiểu hết tầm quan trọng của kiến thức liên môn và tìm phương pháp sử dụng thích hợp để góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã chọn vấn đề: «Giúp học sinh nâng cao hiệu quả học tập lịch sử ở trường THPT qua việc vận dụng kiến thức liên môn Văn học, Địa lý” (chương trình cơ bản). Chương trình, SGK Lịch sử ở trường phổ thông trong nhiều năm đã có đổi mới về nội dung và phương pháp biên soạn. Tuy nhiên vẫn không tránh khỏi một vài hạn chế. Từ năm học 2011 – 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa Chuẩn kiến thức, kĩ năng và Hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học môn lịch sử để đảm tính lôgic, tính thống nhất giữa các bộ môn, tránh những nội dung trùng lặp, góp phần khắc phục tình trạng quá tải trong giảng dạy, học tập. Đồng thời tạo điều kiện để giáo viên và học sinh thực hiện tốt yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục trung học. Chương trình lịch sử THPT đa số đều đã được điều chỉnh (Ví dụ: lớp 12 có 24/27 bài được điều chỉnh), trong đó có nội dung không dạy hoặc đọc thêm. Những sự thay đổi cơ bản này đặt ra một vấn đề quan trọng trong phương pháp dạy học của giáo viên là phải có kiến thức liên môn sâu rộng, tổ chức cho học sinh có khả năng sử dụng kiến thức của các môn học có liên quan vào học tập lịch sử để tránh sự trùng lặp, mất thời gian, giúp học sinh lĩnh hội kiến thức nhẹ nhàng, sinh động mà vững chắc. Sử dụng kiến thức liên môn trong dạy học lịch sử sẽ đem lại nguồn kiến thức phong phú, cung cấp lượng thông tin đa dạng hơn, dung lượng lớn, nhiều chiều trên nhiều lĩnh vực đời sống chính trị - kinh tế - xã hội. 2. Khái quát sự liên quan và việc vận dụng kiến thức Văn học, Địa lý vào nhận thức Lịch sử Việc vận dụng kiến thức liên môn với môn văn học, địa lý làm cho hiệu quả của bài học lịch sử nói riêng, môn học Lịch sử nói chung được nâng cao (tất nhiên có cả ứng dụng Công nghệ thông tin), giúp cho học sinh hứng thú hơn trong tìm hiểu bài học, đồng thời làm cho các em hình dung được một cách chân thực, sinh động về những cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong lịch sử gắn liền với truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông ta từ xa xưa. Qua đó giúp hình thành ở các em thái độ biết ơn, biết quý trọng những con người, những vị anh hùng dân tộc có công dựng nước và giữ nước; đồng thời tự hào hơn về truyền thống vẻ vang, hào hùng của dân tộc một thời. Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông phải đào tạo những con người toàn vẹn, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mỗi môn học trong nhà trường phổ thông với đặc trưng của mình đều phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ. Trong đó, môn học Lịch sử với đặc trưng riêng, phù hợp, có giá trị đặc biệt với việc đào tạo, xây dựng phẩm chất, nhân cách con người Việt Nam. Mặc dù vậy, môn học Lịch sử hiện nay chưa được các bạn học sinh quan tâm đúng mức. Vì Lịch sử là những gì đã xảy ra trong quá khứ, từ rất xa xưa; những gì còn lại ngày nay chỉ là những ghi chép chung chung, thậm chí còn thiếu sót. Hiện nay, học sinh biết đến kiến thức lịch sử chủ yếu thông qua sách báo, tài liệu, bài giảng của giáo viên Phần nhiều những kiến thức lịch sử đó không được tái hiện một cách sinh động, lại khó hiểu, khó nhớ... Từ đó, học sinh cảm thấy chưa có hứng thú với môn học, tạo ra tâm lý suy nghĩ cho học sinh: “Quá khứ là những gì đã xảy ra, chẳng cần nhớ lại mà quên đi để tiến đến tương lai phía trước”. Nhưng Khổng Tử đã từng nói “Ôn cố nhi tri tân”, biết được Lịch sử ta sẽ có cách nhìn nhận, hiểu về hiện tại và tương lai một cách đúng đắn. Lịch sử tái hiện lại những trang sử hào hùng của dân tộc, về cuộc đấu tranh anh dũng, về công cuộc dựng nước và giữ nước của cha ông ta từ ngàn xưa. Lịch sử cũng tái hiện đời sống kinh tế, chính trị, xã hộ loài người. Vậy nên, Lịch sử cần phải được tiếp nhận một cách đúng đắn, được lưu giữ và phải được “nhớ”. Nhớ để học hỏi, để biết ơn và để rút ra bài học có ích. Trước thực trạng môn Lịch sử chưa được coi trọng đúng mức, những năm gần đây, Bộ Giáo dục cùng các ban ngành liên quan đã tìm cách để nâng cao hiệu quả và chất lượng giảng dạy, học tập môn Lịch sử. Nhiều giải pháp được đưa ra, trong đó phải kể đến biện pháp “Sử dụng giáo dục tích hợp liên môn để học tốt môn Lịch sử”. Bài viết này, tôi nêu những ví dụ về sử dụng kiến thức liên môn với Văn học, Địa lý và Ứng dụng CNTT trong việc dạy và học một số bài học lịch sử, chương trình THPT, ban cơ bản. II. Những trường hợp vận dụng cụ thể 1. Với chương trình lịch sử lớp 10 Bài 5: “Trung Quốc thời phong kiến”. Ở bài này, kiến thức địa lí được vận dụng để xác định lược đồ, bản đồ Trung Quốc thời phong kiến, về Vạn lí trường thành thời Tần ... Từ đó học sinh hiểu được tình trạng cát cứ của Trung Quốc trước thời Tần và tại sao nhà Tần xây dựng Vạn lí trường thành. Kiến thức văn học sẽ hỗ trợ học sinh mở rộng và khắc sâu hơn về sự phát triển của Trung Quốc thời Đường. Ví dụ: Thơ Đường phát triển rực rỡ. Học sinh có thể liên hệ các bài thơ nổi tiếng của Lí Bạch (“Xa ngắm thác núi Lư”), Đỗ Phủ (“Bài ca nhà tranh bị gió thu phá”), Bạch Cư Dị (“Tì bà hành”). Hoặc liên hệ kiến thức liên môn, học sinh hiểu rõ hơn về lịch sử Trung Quốc thông qua nhận thức thành tựu văn hóa Trung Quốc thời Minh-Thanh. Các bộ tiểu thuyết nổi tiếng, như: Tam quốc diễn nghĩa miêu tả cuộc đấu tranh về quân sự, chính trị phức tạp giữa ba nước Ngụy, Thục, Ngô, liên hệ trong văn học với đoạn trích “Hồi trống cổ thành”; Tác phẩm Thủy hử tường thuật cuộc khởi nghĩa nông dân do Tống Giang lãnh đạo chống chế độ phong kiến của nông dân Trung Quốc... Bài 11: “Tây Âu thời hậu kì trung đại”. Ở bài này, kiến thức địa lí được vận dụng dùng lược đồ để xác định các cuộc phát kiến địa lí lớn trên thế giới. Về văn học, có thể liên hệ cho học sinh cả ba thể loại thơ, kịch, tiểu thuyết của nền văn hóa phục hưng, với các tác giả nổi tiếng như Miguel de Cervantes (1547-1616, Tây Ban Nha), tác phẩm nổi tiếng là Đôn Kihôtê, Wiliam Shakespeare (1564-1616, Anh) với các tác phẩm như: Romeo và Juliet, Hamlet, Othello, Đêm thứ mười hai, Bài 15: “Thời Bắc thuộc và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc”. Ở bài này, kiến thức địa lí được vận dụng dùng lược đồ để xác định địa bàn cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Hán. Kiến thức văn học sẽ hỗ trợ học sinh về tinh thần yêu nước, khí thế của cuộc khởi nghĩa: "Bà trưng quê ở châu phong, Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên, Chị em nặng một lời nguyền, Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân, Ngàn tây nổi áng phong trần, Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên, Hồng quần nhẹ bước chinh yên, Đuổi ngay Tô Định dẹp yên biên thành, Đô kì đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta ..." (trích Đại Nam quốc sử diễn ca”. Bài 19: “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong các thế kỉ X – XV”. Ở bài này, việc ứng dụng CNTT được thể hiện qua việc sử dụng nguồn tài liệu trên các trang web, chủ yếu là trang wikipedia, với các thuật ngữ khó hiểu: như “tiên phát chế nhân”, “vườn không nhà trống”, các hình ảnh về các trận đánh trong bài học. Kiến thức địa lý được vận dụng dùng lược đồ, bản đồ để xác định các trận quyết chiến chiến lược, hướng tiến công của ta/của địch Kiến thức văn học sẽ hỗ trợ nhằm hiểu rõ tinh thần yêu nước của nhân dân ta cùng với chiến lược đánh giặc của các vị tướng. Ví dụ, phần cuộc kháng chiến chống Tống thời Lí, Lí Thường Kiệt đã sử dụng chiến thuật chiến tranh tâm lí, đọc bài thơ “Nam quốc sơn hà” để khích lệ quân ta đánh giặc và làm nao núng tinh thần quân giặc; hoặc trong kháng chiến chống Mông – Nguyên, bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn đã thể hiện rõ tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc của tướng sĩ và quân dân Đại Việt ta đương thời. Bài 25: “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII”. Ở bài này, Kiến thức địa lí được vận dụng dùng lược đồ để xác định về công cuộc thống nhất đất nước cuối thế kỉ XVIII, các trận quyết chiến chiến lược, hướng tiến công của ta/của địch Kiến thức văn học sẽ hỗ trợ học sinh hiểu rõ công lao của Quang Trung – Nguyễn Huệ qua một số vần thơ, như “Anh hùng áo vải, Đánh bại quan Thanh, Lên ngôi hoàng đế”, “Một trận rồng lửa giặc tan tành, Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh, Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh...”. 2. Với chương trình lịch sử lớp 11 Bài 5: « Các nước Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX». Ở bài này, kiến thức địa lí được vận dụng dùng lược đồ để xác định toàn cảnh các nước Đông Nam Á, đặc biệt cần xác định Đông Nam Á có vị trí chiến lược quan trọng, ên dễ bị nhòm ngó và trở thành mục tiêu xâm lược của thực dân phương Tây. Bài 7 : «Những thành tựu văn hóa thời cận đại ». Ở bài này, kiến thức văn học được vận dụng linh hoạt, giúp học sinh liên hệ nhiều chiều, hiểu sâu và rộng nội dung bài học. Ví dụ: Thành tựu văn học buổi đầu thời cận đại, liên hệ nhà văn La Phông ten (Pháp) với những câu chuyện ngụ ngôn nổi tiếng (“Con cáo và chùm nho”, “Chó sói và cừu”...). Thành tựu văn học cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cần liên hệ nhà văn Víchto Huygô (Pháp) với bộ tiểu thuyết “Những người khốn khổ”, Lép Tônxtôi (Nga) với “Chiến tranh và hòa bình”, Lỗ Tấn (Trung Quốc) với “AQ chính truyện”... Bài 9 : « Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917... ». Ở bài này, kiến thức địa lý được vận dụng dùng lược đồ xác định toàn cảnh nước Nga, một đất nước rộng lớn vắt qua 2 châu lục Á-Âu, nơi diễn ra cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh hiểu hơn về ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga đối với cách mạng Việt Nam, như nhà văn Chu Hà đã viết: “Trong bão táp theo tay Người vẫn gọi, Dẫu Đảng ta còn trong bóng tối, Mà phong trào đã sôi nổi công khai, Phấn khởi thay niềm hi vọng tương lai”, hay nhà thơ Chế Lan Viên cũng có những vần thơ kiệt tác “...Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông, Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt, Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc, Sao vàng bay theo liềm búa công nông, Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc, Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin, Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp, Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin...”. Những tư tưởng vĩ đại của Lênin và Cách mạng tháng Mười Nga có ý nghĩa rất quan trọng đối với tiến trình cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Bài 21 : « Phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX ». Ở bài này, kiến thức địa lý được vận dụng dùng lược đồ để xác định phong trào Cần vương chống Pháp cuối thế kỉ XIX. Qua lược đồ, học sinh có thể khai thác nơi diễn ra vụ biến Kinh thành Huế, nơi ban chiếu Cần vương, toàn cảnh diễn biến phong trào Cần vương, nơi có cuộc khởi nghĩa tiêu biểu,... Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh hiểu hơn về lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hương Khê (Phan Đình Phùng): “Cần vương xuống hịch ruổi sao, Phải lấy máu đào đền đáp giang sơn, Mười lăm quân thứ rõ ràng, Suốt từ Thanh Hóa đi sang Quảng Bình, Trong tay mấy vạn tinh binh, Đã trừ quân đạo lại bình quân Tây”. Bài 23 : «Phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam đến Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914) ». Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh hiểu hơn về hai nhân vật yêu nước kiệt xuất đầu thế kỉ XX (Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh). Chẳng hạn, Phan Bội Châu có bài thơ Chúc Tết Thanh Niên: “Dậy! Dậy! Dậy! Bên án một tiếng gà vừa gáy, Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng, Xuân ơi xuân, xuân có biết cho chăng? Thẹn cùng sông, buồn cùng núi, tủi cùng trăng...”. Phan Châu Trinh có bài “Đập đá ở Côn Lôn”: “Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn, Lừng lẫy làm cho lở núi non, Xách búa đánh tan năm bảy đống, Ra tay đập bể mấy trăm hòn, Tháng ngày bao quản thân sành sỏi, Mưa nắng chi sờn dạ sắt son, Những kẻ vá trời khi lỡ bước, Gian nan nào xá sự con con”. 3. Với chương trình lịch sử lớp 12 Bài 1: «Sự hình thành trật tự thế giới mới sau CTTG thứ 2 » Bản đồ Thế giới năm 1962 với các phe liên kết Ở bài này, kiến thức địa lý được vận dụng dùng bản đồ để xác định cục diện toàn thế giới với đặc trưng nổi bật phân chia 2 cực Đông-Tây (sẽ sử dụng CNTT, máy chiếu chiếu rõ các màu nổi bật của mỗi phe). Học sinh sẽ được tìm hiểu về trật tự thế giới, sự phân chia 2 cực Ianta, thế giới trong tình trạng Chiến tranh lạnh. Qua lược đồ, học sinh có thể khai thác những nơi chịu ảnh hưởng của Liên Xô, những nơi chịu ảnh hưởng của Mĩ, xác định các nước trung lập. Học sinh cũng có thể xác định được rằng sự phân chia Đông-Tây không đơn thuần theo mặt địalí, mà chủ yếu theo yếu tố chính trị. Học sinh có thể liên hệ tới ngày nay và rút ra rằng quan hệ quốc tế không phải là thứ bất biến, nhưng xu thế trong quan hệ quốc tế là hòa bình, hợp tác, cùng phát triển, một trật tự thế giới đa cực đang hình thành, trong đó mỗi quốc gia dù lớn hay nhỏ đều có vai trò và trách nhiệm trước những vấn đề toàn cầu đang nảy sinh. Bài 12: «Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam (1919-1925)». Ở bài này, kiến thức địa lý được vận dụng dùng bản đồ toàn thế giới xác định hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành từ 6/1911 đến 01/1941. Khi sử dụng CNTT, máy chiếu sẽ chiếu rõ hành trình 30 năm ra đi tìm đường cứu nước của Bác, qua khắp Âu – Á – Mĩ - Phi. Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh hiểu sâu hơn tại sao Nguyễn Tất Thành lại quyết định ra đi tìm đường cứu nước, ví như “Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi, Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác, Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất, Bốn phía nhìn không bóng một hàng tre. Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ? Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương! Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở, Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương...” (trích “Tiếng hát con tàu” – Chế Lan Viên). Kiến thức văn học cũng được vận dụng khi Bác đọc được Luận cương Lê nin, tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam “Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc, Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin. Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp, Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin...” (trích “Tiếng hát con tàu” – Chế Lan Viên). Học sinh sẽ có cách nhìn toàn diện hơn về cuộc đời hoạt động của Bác Hồ. Bài 16: «Phong trào GPDT và Tổng K/N tháng Tám (1939-1945)». Ở bài này, kiến thức địa lí được vận dụng dùng lược đồ để xác định Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945. Khai thác lược đồ, học sinh xác định được Tổng khởi nghĩa tháng Tám diễn ra đồng loạt trên cả nước và ở từng địa phương, xác định được Khu giải phóng Việt Bắc... về Cách mạng tháng Tám ở Thủ đô Hà Nội, Huế, Sài Gòn, học sinh hình dung ra khí thế cách mạng sôi sục của dân tộc. Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh khắc sâu sự kiện Bác Hồ về nước ngày 28/01/1941 bằng câu thơ Tố Hữu: “Ôi sáng xuân nay, Xuân 41, Trắng rừng biên giới nở hoa mơ, Bác về, im lặng, con chim hót, Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ...”. Ngoài ra, tác phẩm “Tuyên ngôn độc lập” trong chương trình Văn học 12 cũng được vận dụng để học sinh khắc sâu sự kiện Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 02-9-1945: “Hỡi đồng bào cả nước, Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"... Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có thể sử dụng đa dạng kiến thức liên môn. Ở các Bài 14: Phong trào cách mạng 1930 – 1935, Bài 15: Phong trào dân chủ 1936- 1939, Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939- 1945), kiến thức các môn có liên quan có thể sử dụng trong những trường hợp dạy học cụ thể. Kiến thức về Văn học: Nhiều nhà văn hiện thực phê phán như Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố đả kích, châm biếm các tệ nạn xã hội, bọn quan lại cường hào phong kiến sâu mọt. Tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Trăng sáng”, “Đời thừa” của Nam Cao, thơ ca trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân, bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, “Tức cảnh Pắc Bó”, “Cảnh rừng Pắc Bó”, “Nhật kí trong tù”, “Diễn ca Mười chính sách của Việt Minh” của Hồ Chí Minh... Kiến thức về Địa lí: Sử dụng lược đồ tự nhiên vùng Bắc Trung Bộ kết hợp với lược đồ phong trào trào Xô viết Nghệ - Tĩnh để xác định địa điểm xảy ra các cuộc đấu tranh và lí giải điều kiện tự nhiên đã ảnh hưởng, tác động đến phong trào đấu tranh như thế nào. Lược đồ phong trào dân chủ 1936 – 1939 để tìm hiểu những nơi xảy ra các cuộc đấu tranh lớn. Lược đồ khu giải phóng Việt Bắc, lược đồ Cách mạng tháng Tám năm 1945 để tìm hiểu nơi diễn ra các cuộc khởi nghĩa. Kiến thức về Chính trị: Luận cương chính trị, Cương lĩnh chính trị, sách lược cách mạng, chiến lược cách mạng, thời cơ, vai trò của quần chúng, sự lãnh đạo của Đảng, lí luận Mác - Lênin, Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, Mặt trận, Tuyên ngôn, Chương trình. Bài 20: «Cuộc kháng chiến chống TD Pháp kết thúc (1953-1954)». Ở bài này, Kiến thức địa lý được vận dụng dùng lược đồ hình thái chiến trường Đông Dương xác định cuộc tiến công của ta trong đông xuân 1953-1954,vị trí chiến lược quan trọng của Điện Biên Phủ. Học sinh hiểu được tại sao ta mở các cuộc tiến công đông xuân 1953-1954, tại sao Pháp chọn Điện Biên Phủ xây dựng thành tập đoàn cứ điểm mạnh... Kiến thức văn học được vận dụng giúp học sinh khắc sâu sự kiện “Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt , Máu trộn bùn non, Gan không núng , Chí không mòn!...”, “Máu của anh chị, của chúng ta không uổng, Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam, Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam, Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...”. Trận Điện Biên Phủ là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất của dân tộc ta. Học sinh tự hào về chiến thắng vẻ vang của dân tộc, sự thất bại, đầu hàng của quân Pháp tại Điện Biên Phủ. - Bài 22: «Nhân dân 2 miền trực tiếp chống ĐQ Mĩ xâm lược (1965-197
Tài liệu đính kèm: