Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực

Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực

Tổ chức mô hình đôi bạn học tập, để các em đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tạo cơ hội để các em này phát huy hoàn thành nhiệm vụ, tin tưởng vào bản thân. Hướng các em có niềm tin: “Mình cũng có thể học giỏi như các bạn khác”. Tạo động lực để các em cố gắng.

 - Nếu GV có phương pháp giáo dục hợp lí thì HS dù có cá biệt đến đâu cũng sẽ vươn lên thành một học trò ngoan được. GV cần có cái nhìn thiện cảm với HS cá biệt để các em mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ, khó khăn của mình. Nếu vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, không cha, mất mẹ, không được gia đình quan tâm đúng mức.Tôi vận động nhà trường, địa phương, các bạn trong lớp tặng sách vở, dụng cụ học tập, quần áo, cặp để các em giảm bớt khó khăn, có niềm vui. Từ đó thắt chặt tình nghĩa thầy trò, bè bạn. Vận động gia đình tiếp tục động viên khuyến khích con em mình cố gắng học tập. Đối với những HS bị lôi kéo, có suy nghĩ lệch lạc, trốn học đi chơi, chọc phá bạn, có những biểu hiện lệch lạc về đạo đức. Tôi đã tìm hiểu HS đó qua người thân, bạn bè. Kết hợp với gia đình, Đội, động viên, hướng dẫn, phân tích những điều lợi hại nhằm dẫn dắt các em có suy nghĩ, việc làm đúng đắn hơn, hòa nhập lại với môi trường giáo dục.

 - Chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi cho bài học và cho từng đối tượng học sinh. Chú ý phát triển bồi dưỡng HS khá giỏi bộ môn. Dự kiến những sai lầm của HS(nếu có)và cách khắc phục, có kế hoạch bồi dưỡng HS yếu trong từng tiết dạy.

 

doc 21 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 4849Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 được sự sáng tạo của học sinh và trách nhiệm, ý thức của các em trong việc bảo vệ, giữ gìn, thái độ tham gia sẽ không được nâng cao.
	 d) Nguyên nhân
	- Trường học được xây dựng kiên cố, nhưng chưa được trang bị đầy đủ các thiết bị đồ dùng dạy học cho tất cả các tiết học, phòng ngoại ngữ, phòng âm
nhạc, khu vui chơi, bãi tập...
	- Học sinh còn nhỏ, một số em ở xa đi lại còn khó khăn, nhất là lúc trời mưa. 
	- Địa phương còn nhiều khó khăn, có nhiều học sinh thuộc hộ gia đình hộ nghèo và cận nghèo.
	- Một số cha mẹ các em đi làm xa nhà, để con ở trọ hoặc gửi cho họ hàng nên việc quan tâm đúng mức tới các em còn rất nhiều hạn chế.
- Các em học sinh tiểu học còn nhỏ, còn ham chơi, chưa ý thức hết được tầm quan trọng của việc học tập, chưa tự giác học tập. Còn nhiều em đi học muộn, đi học chưa chuyên cần vì ngủ quên..., có em không có đủ sách vở và đồ dùng để học tập. Vì vậy trong giờ học các em không có đồ dùng để thực hành, để trải nghiệm nên ảnh hưởng lớn đến việc nắm bắt kiến thức cũng như các kỹ năng cần thiết của tiết học. 
	- Phần lớn ở lứa tuổi này các em đều có tính hiếu động, tò mò, muốn được giải thích thắc mắc hay một điều gì mà trong quá trình khám phá các em chưa hiểu. Thích bày tỏ để các bạn và cô giáo thấy được kết quả khám phá của mình dù đúng hay sai. Nếu không nắm được đặc điểm của lứa tuổi thì việc giáo dục gặp rất nhiều trở ngại.
	- Để đảm bảo các chỉ tiêu của trường, lớp, ngành đề ra, các áp lực công việc về thời lượng tiết dạy, mục tiêu bài học, kết hợp giáo dục lồng ghép, phân hóa đối tượng học sinh, hồ sơ giáo viên.Không ít giáo viên đôi khi quá nóng vội trong việc giáo dục học sinh để đảm bảo những chỉ tiêu và hoàn tất các công việc đó. Chính vì lí do trên, giáo viên dễ rơi vào tình trạng áp đặt, nhồi nhét kiến thức, răn đe, hình phạt, roi vọt, gò bó học sinh, chưa lắng nghe tâm tư nguyện vọng tình cảm của các em . Việc đánh giá sửa sai còn khắt khe, chưa dân chủ. Làm cho các em cảm thấy mệt mỏi, chán nản, sợ học, triệt tiêu sự ngây thơ, ham học hỏi, tính tích cực, sôi nổi của các em.
	- Một số giáo viên chưa thường xuyên tự bồi dưỡng thêm những kiến thức và kĩ năng sư phạm cũng như các kiến thức tâm sinh lí trẻ thường xuyên nên đôi khi thấy lúng túng trong các tình huống sư phạm. Giáo viên không chuẩn bị đồ dùng dạy học cho một tiết dạy, dạy chay, dạy một chiều tiết học không sinh động. Sự định hướng đúng đắn của giáo viên có vai trò rất quan trọng trong mọi hoạt động. Nếu ta chủ quan, lơ là thì kết quả không những không có tính giáo dục mà còn làm mất đi sự hứng thú tham gia của học sinh và cha mẹ các em. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém, chán học, bỏ học, thụ động, nhút nhát, mất tự tin, chưa thực sự yêu trường, mến lớp của học sinh.
 	e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra. 
- Ban giám hiệu luôn tạo điều kiện về sơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc
	dạy và học. Thường xuyên động viên khuyến khích giáo viên đổi mới phương pháp, tăng cường làm đồ dùng phục vụ giảng dạy, nâng cao mối quan hệ thân thiện giữa thầy và trò, cha mẹ học sinh với giáo viên. Thông qua việc dự giờ góp ý cho giáo viên đổi mới cách dạy, cách trang trí lớp nhằm cuốn hút, tạo hứng thú cho các em trong học tập. Tổ chức các chuyên đề để giáo viên được trao đổi, học tập lẫn nhau. Tổ chức thi làm đồ dùng dạy học. Hàng tháng có kiểm tra việc tự làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên và kiểm tra đột xuất việc chuẩn bị đồ dùng của học sinh, cách trang trí lớp của các lớp. 
- Một số giáo viên ngại đổi mới cho rằng kiến thức đơn giản, xưa nay vẫn dạy vậy mà học sinh vẫn lên lớp, vẫn trưởng thành nên cứ thế mà làm, không cần phải mất thời gian nghiên cứu chuẩn bị, vừa tốn kém thời gian nghiên cứu, thời gian làm đồ dùng, tốn kinh phí. Họ chưa hiểu được rằng kiến thức đó sẽ đọng lại trong đầu các em bao lâu, giúp ích gì cho các em trong cuộc sống. Bên cạnh việc nắm kiến thức đó học sinh còn có thêm các kỹ năng gì để vận dụng vào cuộc sống, góp phần giáo dục con người mới phát triển toàn diện phù hợp với tình hình đất nước thời kỳ đổi mới.
- Đồ dùng dạy học và các thiết bị dạy học được nhà trường bảo quản tốt, hàng năm được mua sắm thêm. Mỗi năm giáo viên lại làm thêm nhiều đồ dùng để phục vụ dạy học. Phần lớn vẫn là đồ dùng mong hỏng, rẻ tiền.
- Phương pháp dạy học cũ đã ăn sâu vào một số giáo viên lớn tuổi, ngại đổi mới. Để thay đổi được quả là một vấn đề khó khăn. Qua tập huấn, chuyên đề, dự giờ, góp ý họ cũng một phần nào nắm được phương pháp mới song sự vận dụng còn gò bó, chưa linh hoạt, chưa thường xuyên nên kết quả giảng dạy chưa cao. 
- Cha mẹ học sinh của một số em thường xuyên quan tâm, kết hợp với giáo viên để giúp con học tập thì các em đó tiếp thu tốt bài. Bên cạnh đó có một số cha mẹ học sinh do điều kiện kinh tế khó khăn lo lao vào làm kinh tế nên chưa có thời gian quan tâm đến sát sao đến con cái. Không cần qua tâm đến thái độ, hành vi, cách ứng xử của các em. Đồ dùng học tập, sách vở của các em còn thiếu, đi học còn quên đồ dùng. Vì vậy trong giờ học các em không có đồ dùng để thực hành, để trải nghiệm nên ảnh hưởng lớn đến việc nắm bắt kiến thức cũng như các kỹ năng cần thiết của tiết học. Trong cuộc sống các em chưa mạnh dạn, tự tin, ứng xử chưa thân thiện trong giao tiếp, chưa có kĩ năng ứng xử, đối phó kịp thời khi gặp tình huống trong đời sống hằng ngày. 
- Học sinh phần lớn rất thích học theo phương pháp dạy học mới vì các em được thoải mái hơn, thích thú hơn, hiểu bài hơn nên càng có hứng thú học tập. Bên cạnh đó một số em tính nhút nhát thì không thích giao lưu, tiếp xúc với bạn, với giáo viên. Một số em không có đồ dùng thì lo sợ khi nghe yêu cầu mang đồ dùng ra học. Trước những vấn đề đó giáo viên cần có biện pháp kết hợp với cha mẹ các em tốt hơn, tham mưu với hội cha mẹ học sinh của trường, lớp và các đoàn thể để giúp đỡ các em. Tạo cho các em không những nắm tốt nội dung kiến thức mà còn có được những kỹ năng cơ bản của tiết học, mạnh dạn hơn trước tập thể.
III. 3. Giải pháp, biện pháp
Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
	- Nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với thực tế của trường, lớp. Tạo cho các em thực sự yêu trường, mến lớp thấy được mỗi ngày đến trường thực sự là một ngày vui.
- Giúp học sinh có hứng thú trong học tập, thu hút được tất cả học sinh vào quá trình học. Học sinh chủ động, tích cực học tập, ghi nhớ kiến thức sâu hơn, kĩ hơn, tiết học không nặng nề, đơn điệu. Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, thân thiện nhưng vẫn đảm bảo được việc giáo dục toàn diện cho học sinh về thái độ, tình cảm, thẩm mĩ...Cập nhật được những vấn đề xung quanh gắn với đời sống thực tế của học sinh. Phát huy được tính năng động, sáng tạo trong các em. 
b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Qua những năm thực tế giảng dạy, tìm tòi học hỏi trên các phương tiện và qua trao đổi với đồng nghiệp tôi rút ra được một số kinh nghiệm để “ Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực” như sau:
* Công tác tham mưu
- Làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo nhà trường để nâng cao về chất lượng sơ sở vật chất, thiết bị dạy học. Mua sắm thêm tài liệu tham khảo, máy chiếu, đồ dùng phục vụ tốt cho việc dạy và học. Tổ chức có chất lượng các chuyên đề để học tập, trao đổi kinh nghiệm dạy học. Tổ chức dự giờ tập trung để cùng góp ý cho nhau tiến bộ. Triển khai các sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng để cùng học tập. Đăng kí mua báo, tập san về giáo dục thời đại...
- Tham mưu tốt với Ban tự quản thôn nơi học sinh cư trú để tuyên truyền, vận động tốt việc đưa con em đến trường học đúng độ tuổi và trách nhiệm của cha mẹ đối với việc học của con cái.
- Tham mưu với Ban chấp hành hội cha mẹ học sinh, cùng với họ vận động, tuyên truyền, giúp học sinh, phụ huynh tháo gỡ, khắc phục khó khăn tạo điều kiện giúp các em học tốt.
- Kết hợp tốt với các đoàn thể trong nhà trường để giáo dục các em.
- Kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh để có biện pháp điều chỉnh, giúp đỡ các em kịp thời.
* Tìm hiểu lí lịch của học sinh 
 Khi nhận lớp tôi bắt đầu ngay vào việc tìm hiểu lí lịch của học sinh cũng như lực học và sự rèn luyện của các em. Nhận xét mối quan hệ của các em trong lớp từ đó phân chia các đối tượng vào các tổ, các nhóm có đủ các thành phần giỏi, yếu, có hoàn cảnh khó khăn, hoàn cảnh tốt. Cũng từ đây mà các em có mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau vì vậy các em sẽ quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo viên giao.
* Tổ chức họp cha mẹ học sinh đầu năm
 Nhằm báo cáo tình hình lớp, vận động sự hỗ trợ của cha mẹ học sinh vào việc dọn vệ sinh trường lớp đầu năm, việc hỗ trợ lớp thời gian để lau mạng nhện, lau nhà đối với học sinh lớp 2. Tuyên truyền, vận động cha mẹ các em tham gia xây dựng “ Thư viện thân thiện” của lớp để giúp đỡ các bạn có hoàn cảnh khó khăn có sách, vở, đồ dùng để học tập. GV đưa ra mục tiêu, lấy ý tưởng của cha mẹ học sinh, thảo luận, thống nhất việc đóng góp và trang trí lớp cùng với việc giáo dục các em phát triển toàn diện.
	 * Tăng cường công tác trang trí lớp học 
	 - Không khí lớp học xanh, sạch, đẹp, an toàn thân thiện là yếu tố rất quan trọng góp phần thu hút trẻ đến trường, đến lớp, góp thêm cho lớp học một luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động, hăng say trong giờ học, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Các khẩu hiệu trong lớp mang ý nghĩa quan trọng, mang tính giáo dục cao “ Dạy tốt, học tốt”, “Mỗi ngày đến lớp là một niềm vui”, nội qui học sinh, bảng ghi năm điều Bác Hồ dạy. Vì thế giáo viên cần phải giải thích để các em hiểu được nội dung, ý nghĩa của mỗi bảng, mỗi khẩu hiệu. Di ảnh Bác Hồ được treo nơi trang trọng nhất, dễ thấy. Giáo dục lòng kính yêu nhớ ơn Bác Hồ, lòng yêu nước.
	- Thường xuyên nhắc nhở học sinh giữ gìn tài sản chung của nhà trường từ chỗ ngồi, cửa sổ, lớp học, hành lang cho đến sân trường, “ Hãy giữ gìn tài sản chung của chúng ta”.
	- Lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng lại đạt được kết quả cao như: “Cho tôi xin rác!” hay “Tắt đèn, tắt quạt bạn nhé!” nhằm nhắc nhở các em có ý thức tự giác giữ vệ sinh trường lớp, tiết kiệm điện.
	- Lớp có đủ ánh sáng, quạt, lọ hoa, cây xanh, tạo không khí thật sự thoải mái, thân thiện gần gũi với thiên nhiên hơn. Bàn giáo viên có khăn trải bàn, lọ hoa, tủ đồ dùng phải gọn gàng sắp xếp khoa học, sạch đẹp, dễ đưa vào sử dụng.
	 - Huy động học sinh và cha mẹ các em cùng tham gia xây dựng “ Tủ sách thân thiện”của lớp, tạo điều kiện cho các em ham đọc sách, mở rộng hiểu biết, phát triển khả năng đọc cho các em. Rèn kĩ năng và trách nhiệm bảo quản tài sản chung, gọn gàng, ngăn nắp. 
	- Vườn hoa học tập, bảng danh dự, phản ánh rõ ràng, chính xác, công khai kết quả học tập của mỗi em tư đó kích thích học sinh tích cực học tập để đạt được kết quả cao hơn.(như hay có tên mình trên bảng danh dự, tên mình có nhiều bông hoa hơn..)
	- Sử dụng cuối lớp làm Bảng tin lớp em được trang trí đẹp, nội dung phong phú, phù hợp lứa tuổi của các em.
HÌNH ẢNH TRANG TRÍ LỚP CỦA LỚP
- Chuyên mục: “Người tốt việc tốt” đưa tên các bạn đã làm được những việc tốt trong tuần, tháng), tạo động lực cho học sinh làm nhiều điều tốt hơn, lớp ngày càng thân thiện hơn.
 	- Ai tài thế ? Đây là nơi trưng bày những sản phẩm đẹp của các em trong môn thủ công( Kĩ thuật), Mĩ thuật. Nội dung trưng bày này nhằm kích thích khả năng sáng tạo của các em.
	- Mục văn hay chữ đẹp( lưu lại các bài văn hay, chữ viết đẹp của học sinh). Tạo động lực cho các em có gắng viết chữ đẹp hơn, làm văn hay hơn.
 	- Góc ôn luyện nè! ( Bảng cộng, trừ, nhân, chia các qui tắc môn toán...). Rèn các em có ý thức chủ động trong học tập, ôn tập kiến thức vào thời gian đầu giờ và giờ ra chơi.
 	- Ca dao, tục ngữ là mục dành cho học sinh sưu tầm, GV trình bày lại theo các chủ điểm của tháng) nhằm mở rộng vốn từ, vốn hiểu biết. 
 	- Bức ảnh do HS sưu tầm về cảnh đẹp, di tích lịch sử, làng nghề của các dân tộc nơi mình sinh sống được bố trí vào mục “Đăk Lăk mến yêu!” Mục này có tác dụng giúp các em hiểu thêm về quê hương con người quê mình, đồng thời các em cũng giúp các em tự tin vào bản thân, yêu lao động, yêu quê mình hơn.
 	- Tưởng là bình thường nhưng lại góp phần quan trọng là mục“Điều em muốn nói !” Mục này dán một cái hộp giấy để HS viết ý kiến, tâm tư của mình để vào đó. Tạo điều kiện cho các em mạnh dạn nói lên những suy nghĩ của mình về thầy cô, bạn bè, các mối quan hệ hằng ngày, góp phần thực hiện tốt quyền trẻ em, GV hiểu HS của mình hơn, giúp giải quyết những khó khăn trong suy nghĩ của các em. Cải thiện tốt mối quan hệ thầy - trò, trò - thầy. 
	- Tùy theo từng khối lớp, GV có thể biến đổi bản tin này phù hợp lứa tuổi HS lớp mình.
	* Đầu tư vào công tác giảng dạy
	- Tập trung đầu tư cao cho công tác giảng dạy tích cực hóa hoạt động dạy học, GV chủ động, sáng tạo, lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học. Chuyển từ chủ yếu cung cấp những kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em. Tạo điều kiện cho HS phát huy mọi năng lực, phát hiện khả năng của mình giúp các em tích cực, chủ động, tự giác, tự tin, có niềm vui trong học tập. Từ đó hoạt động học tập trở nên nhẹ nhàng thoải mái, thiết thực, có hiệu quả hơn.
	- Một tiết dạy để đạt được hiệu quả cao cần đảm bảo những yêu cầu sau:
	+ Đối với giáo viên:
- Tích cực tự học, tự rèn để nâng cao trình độ chuyên môn phù hợp với thời kỳ đổi mới. Thường xuyên đọc sách báo, các tạp chí, học tập mọi nơi, mọi lúc trên các thông tin đại chúng để có thêm kiến thức và kỹ năng sư phạm. 
 - Mỗi giáo viên phải thực sự là tấm gương sáng về đạo đức, tự học cho HS
noi theo. Nghiên cứu kĩ bài, sưu tầm tài liệu phục vụ tốt cho bài dạy, soạn bài có chất lượng, xác định được mục tiêu, trọng tâm kiến thức của bài học. Bám sát chuẩn kiến thức kĩ năng, phân hóa đối tượng học sinh để dạy. Lựa chọn các hình thức, phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. Đối với học sinh các biệt, những em chậm tiến thì làm tốt công tác chủ nhiệm đối với giáo viên quả là thử thách lớn. Vì vậy người giáo viên phải có “cái tâm với nghề” phải kiên trì, hiểu được tâm lí lứa tuổi ở trẻ, khéo léo trong ứng xử, đặt biệt là yêu trẻ. Giao việc phải phù hợp với khả năng của các em ( VD: HS yếu mỗi ngày luyện đọc 4 câu trong bài tập đọc rồi đọc cho cả lớp nghe. Có thể tăng dần số câu lên, nên khen khi các em đó đã có chút tiến bộ như: “Em đã có tiến bộ hơn rồi, cố gắng lên chút nữa em nhé !”. Câu nói nhẹ nhàng như thế nhưng mang lại hiệu quả cao.
 - Tổ chức mô hình đôi bạn học tập, để các em đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tạo cơ hội để các em này phát huy hoàn thành nhiệm vụ, tin tưởng vào bản thân. Hướng các em có niềm tin: “Mình cũng có thể học giỏi như các bạn khác”. Tạo động lực để các em cố gắng.
	- Nếu GV có phương pháp giáo dục hợp lí thì HS dù có cá biệt đến đâu cũng sẽ vươn lên thành một học trò ngoan được. GV cần có cái nhìn thiện cảm với HS cá biệt để các em mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ, khó khăn của mình. Nếu vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, không cha, mất mẹ, không được gia đình quan tâm đúng mức.Tôi vận động nhà trường, địa phương, các bạn trong lớp tặng sách vở, dụng cụ học tập, quần áo, cặp để các em giảm bớt khó khăn, có niềm vui. Từ đó thắt chặt tình nghĩa thầy trò, bè bạn. Vận động gia đình tiếp tục động viên khuyến khích con em mình cố gắng học tập. Đối với những HS bị lôi kéo, có suy nghĩ lệch lạc, trốn học đi chơi, chọc phá bạn, có những biểu hiện lệch lạc về đạo đức. Tôi đã tìm hiểu HS đó qua người thân, bạn bè. Kết hợp với gia đình, Đội, động viên, hướng dẫn, phân tích những điều lợi hại nhằm dẫn dắt các em có suy nghĩ, việc làm đúng đắn hơn, hòa nhập lại với môi trường giáo dục.
	- Chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi cho bài học và cho từng đối tượng học sinh. Chú ý phát triển bồi dưỡng HS khá giỏi bộ môn. Dự kiến những sai lầm của HS(nếu có)và cách khắc phục, có kế hoạch bồi dưỡng HS yếu trong từng tiết dạy.
 	- Ví dụ: Môn tập đọc: HS Khá giỏi đọc phân vai, thi đua đọc diễn cảm đoạn, toàn bài, trả lời các câu hỏi khó trong và ngoài bài. Còn HS yếu đọc câu, đoạn ngắn và trả lời các câu hỏi dễ hơn trong bài. Có thể chẻ nhỏ các câu hỏi cho phù hợp với khả năng của các em. Chỉ cần các em này đọc được một lần được GV và các bạn tuyên dương lần sau các em này sẽ có tiến bộ rõ rệt.
	+ Đồ dùng dạy học không chỉ truyền thụ thông tin mà còn là quá trình của truyền thụ tri thức, giáo dục tư cách, rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS. Nó điều khiển mọi hoạt động nhận thức của HS từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, khắc phục tình trạng dạy học một chiều, gây hứng thú, khuyến khích tư duy cho HS, hiểu bài, khắc sâu kiến thức. Vì vậy đồ dùng dạy học phải phát huy hết tính sư phạm, rõ ràng, bắt mắt, đủ lớn, phù hợp nội dung bài học, bao gồm(Tranh ảnh, vật thật, bản đồ, biểu đồ, dụng cụ sắm vai..). Đồ dùng không chỉ được sử dụng trong hình thành kiến thức mới mà còn được sử dụng ở các tiết ôn tập, trò chơi củng cố.
	Ví dụ: Kể chuyện: “Chuyện bốn mùa”(Lớp 2) với nhân vật là bốn nàng tiên, bà Đất, nếu không có dụng cụ sắm vai, các em sẽ khó phân biệt được bạn nào đóng vai nào? Hoạt động sắm vai khuyến khích HS mở rộng vốn từ, phát huy khả năng sáng tạo của HS.Nếu dụng cụ sắm vai đẹp, phù hợp, thì hoạt động này không chỉ dành riêng cho các bạn khá, giỏi mà cho cả HS trung bình yếu nữa. Vì HS những em này cũng muốn được thành những nàng tiên xinh đẹp nên các em cố gắng nhớ lời thoại của nhân vật qua việc đọc tập đọc nhiều lần. Giúp HS tự tin vào bản thân mình, ngày càng thân thiện hơn.
	+ Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy để tạo không khí học tập sôi nổi vì hình ảnh, màu sắc, âm thanh, sinh động đẹp. Dễ dàng thu hút tất cả các em vào hoạt động học tập.
	+ Phiếu giao việc trong các tiết dạy có tác dụng nhằm hướng tới mục tiêu: “ GV nói ít, học sinh hiểu được nhiều”. Giảm bớt bệnh nói nhiều, giảng nhiều của GV, tăng thời gian tư duy luyện tập của HS. Phối hợp nhịp nhàng giữa thầy và trò, trò và trò, tìm ra kiến thức mới. 
+ Lựa chọn hình thức và phương pháp dạy học đặt trưng của môn học:
	- Việc lựa chọn hình thức và phương pháp giảng dạy cũng tùy thuộc vào nội dung và mục đích cụ thể của bài. Nghiên cứu, lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp sẽ giúp tiết dạy không quá nặng nề nhưng lại sôi nổi, thân thiện và đạt được hiệu quả cao nhất.
 	- Những kiến thức mà các em có ích nhiều kinh nghiệm hoặc chứa đựng các hiểu biết khác nhau, chúng ta tổ chức theo nhóm để rèn luyện khả năng trình bày, đi đến thống nhất ý kiến. Qua đó HS dễ nhớ kiến thức,nhớ sâu sắc và bền vững hơn. Cần thường xuyên thay đổi nhóm trưởng để mỗi em có cơ hội phát huy bản lĩnh, năng lực tự tin hơn. GV nhận xét sửa sai nhẹ nhàng, đừng quá khắc khe mà kịp thời động viên, tuyên dương các em HS nhút nhát, chậm tiến ở khía cạnh khác.
	+ Tổ chức các trò chơi học tập để GV và HS thân thiện nhau hơn, giảm bớt căng thẳng mệt mỏi, tăng khả năng tiếp thu bài, khắc sâu kiến thức, giáo dục kĩ năng sống. 
	+ Việc đánh giá học sinh phải được thực hiện tường xuyên, kịp thời, chính xác, công tâm, phản ánh đúng sức học, những tiến bộ, năng khiếu của HS qua từng tháng, từng phân môn. Kiểm tra phải được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo khách quan, công bằng. Thường xuyên liên hệ với cha mẹ các em để trao đổi những ưu điểm và hạn chế của HS để có hướng giúp đỡ các em phát huy ưu điểm, khắc phục kịp thời tồn tại.
	+ Đối với học sinh:
	- Giúp HS nhận ra được: “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui, nhưng vui để học”, có trách nhiệm với mọi người.
	- Đến lớp có đủ sách vở, dụng cụ học tập.
	- Chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
	- Tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường, địa phương như: Múa hát sân trường, sinh hoạt Sao Nhi đồng. Thi vẽ tranh về nhà giáo, về môi trường, về an toàn giao thông Thi làm báo ảnh chào mừng ngày 20/11.Thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thi viết chữ đẹp cấp trường, cấp huyện. Nhặt rác, trồng cây xanh trong lớp học, sân, vườn trường. Tham gia đi thăm viếng nghĩa trang liệt sĩ và tặng quà cho bộ đội phục viên và các gia đình có công với cách mạng, gia đình có hoàn cảnh khó k

Tài liệu đính kèm:

  • docSKKN HOAI.doc