Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy Chương III Gia công cơ khí của môn Công nghệ 8

Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy Chương III Gia công cơ khí của môn Công nghệ 8

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Đề tài muốn khẳng việc giáo dục bảo vệ môi trường ở trường Trung

học cơ sở là cần thiết. Giáo dục môi trường vào giảng dạy Chương III Gia

công cơ khí của môn Công nghệ 8 chính là hành trang cho các em học sinh

bảo vệ cho mình và người thân, bảo vệ lá phổi xanh của trái đất.

3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

- Giáo dục môi trường cho học sinh Trung học cơ sở thông qua những bài

học của chương III Gia công cơ khí môn Công nghệ 8.

- Đối tượng học sinh trường Trung học cơ sở A

4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp.

- Phương pháp thống kê.

- Phương pháp đàm thoại.

- Phương pháp vấn đáp gợi mở.

pdf 26 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 03/03/2022 Lượt xem 721Lượt tải 6 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy Chương III Gia công cơ khí của môn Công nghệ 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vạn tấn nằm rải rác ở khắp các địa phương. Kim loại màu gồm các loại 
đồng, chì, nhôm... ở trong động cơ điện, biến thế điện, các chi tiết xe, máy, 
tàu thuyền nhẹ, bình ắc quy hỏng, vỏ đạn các loại, xác máy bay. Kim loại đen 
ở các loại máy, các loại pháo, xe tăng, tàu, thuyền, cầu cống hư nát, trong đó 
có một khối lượng lớn thép không rỉ, hợp kim có độ bền vật liệu cao,v.v... 
Các nhà máy sản xuất thép đang ngày đêm thải ra môi trường một 
lượng chất thải, phế thải lớn. Các chuyên gia môi trường nhận định, nếu tất cả 
các dự án thép được cấp phép và triển khai đúng cam kết thì đến năm 2020, 
ngành thép sẽ thải ra 174 triệu tấn CO2 và lúc đó, riêng ngành thép sẽ “giáng” 
lên đầu mỗi người dân Việt Nam thêm 1,5 tấn khí CO2”. Theo tính toán, sản 
xuất 1 tấn thép sẽ thải ra từ 0,5-1 tấn xỉ, 10.000m3 khí thải, 100kg bụi. Rất 
nhiều các chất ô nhiễm như: axit, kiềm, các nguyên tố hợp kim... thải ra môi 
trường. Trong các vùng luyện kim, khí quyển bị nhiễm bẩn chiếm tỷ lệ gần 
60%. Ngoài nguyên liệu chính là thép phế, sắt xốp, gang thỏi hoặc gang lỏng, 
vôi, việc sản xuất thép còn sử dụng năng lượng như than, gas, điện, dầu, oxy, 
nước và các chất phụ trợ như hợp kim, điện cực, khí trơ, vật liệu đầm lò. Quá 
trình sản xuất thép sinh ra các chất thải khí, rắn và tiếng ồn. Trong một số 
trường hợp, nước làm mát không được tuần hoàn tuyệt đối cũng phát thải ra 
môi trường. 
Các kim loại nặng như Pb, Hg, Cr, Cd, As, Mn,... thường có trong nước 
thải công nghiệp. Hầu hết các kim loại nặng đều có độc tính cao đối với con 
người và các động vật khác. Chì (Pb): chì có trong nước thải của các cơ sở 
sản xuất pin, acqui, luyện kim, hóa dầu. Chì có khả năng tích lũy trong cơ thể, 
gây độc thần kinh, gây chết nếu bị nhiễm độc nặng. Chì cũng rất độc đối với 
động vật thủy sinh. Các hợp chất chì hữu cơ độc gấp 10 – 100 lần so với chì 
vô cơ đối với các loại cá. Thủy ngân (Hg): thủy ngân là kim loại được sử 
dụng trong nông nghiệp (thuốc chống nấm) và trong công nghiệp (làm điện 
cực). Trong tự nhiên, thủy ngân được đưa vào môi trường từ nguồn khí núi 
 lửa. Ở các vùng có mỏ thủy ngân, nồng độ thủy ngân trong nước khá cao. 
Nhiều loại nước thải công nghiệp có chứa thủy ngân ở dạng muối vô cơ của 
Hg(I), Hg(II) hoặc các hợp chất hữu cơ chứa thủy ngân. Thủy ngân là kim 
loại nặng rất độc đối với con người. Vào thập niên 50, 60, ô nhiễm thủy ngân 
hữu cơ ở vịnh Minamata, Nhật Bản, đã gây tích lũy Hg trong hải sản. Hơn 
1000 người đã chết do bị nhiễm độc thủy ngân sau khi ăn các loại hải sản 
đánh bắt trong vịnh này. Asen (As): asen trong các nguồn nước có thể do các 
nguồn gây ô nhiễm tự nhiên (các loại khoáng chứa asen) hoặc nguồn nhân tạo 
(luyện kim, khai khoáng...). Asen thường có mặt trong nước dưới dạng asenit 
(AsO33-), asenat (AsO43-) hoặc asen hữu cơ (các hợp chất loại methyl asen 
có trong môi trường do các phản ứng chuyển hóa sinh học asen vô cơ). Asen 
và các hợp chất của nó là các chất độc mạnh (cho người, các động vật khác và 
vi sinh vật), nó có khả năng tích lũy trong cơ thể và gây ung thư. Độc tính của 
các dạng hợp chất asen: As(III) > As(V) > Asen hữu cơ. 
Nếu thu hồi, phân loại, chế biến tốt các phế thải từ ngành cơ khí sẽ tạo 
ra một khối lượng hàng hoá khá lớn phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nhân 
dân. Ngoài ra, có thể thu được hàng chục vạn tấn nguyên liệu cho ngành 
luyện kim; tạo điều kiện cho hàng vạn lao động có công ăn việc làm và có thể 
xuất khẩu được hàng chục triệu đô-la. 
Theo Sở Công Thương Hà Nội, để xử lý ô nhiễm môi trường các làng 
nghề, thành phố Hà Nội cần một khoản kinh phí 1.350 tỷ đồng. Cụ thể, giai 
đoạn từ nay đến năm 2020, thành phố cần 750 tỷ đồng triển khai xây dựng hệ 
thống xử lý môi trường tại 50 làng nghề trọng điểm Giai đoạn 2021 - 2030 
cần 600 tỷ đồng triển khai xây dựng hệ thống xử lý môi trường tại 30 làng 
nghề khác. 
Từ những thành quả mà ngành cơ khí đạt được và lợi ích của nó mang 
đến cho con người đồng thời góp phần xây dựng nền kinh tế cho nước nhà. 
Và những hậu quả của quá trình sản xuất cơ khí đưa đến cho con người và 
môi trường. Tôi càng mong muốn đưa giáo dục môi trường vào những bài 
 giảng môn Công nghệ nói chung và nội dung phần gia công cơ khí nói riêng. 
Nên tôi lựa chọn đề tài: “Tích hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy 
Chương III Gia công cơ khí của môn Công nghệ 8”. 
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 
Đề tài muốn khẳng việc giáo dục bảo vệ môi trường ở trường Trung 
học cơ sở là cần thiết. Giáo dục môi trường vào giảng dạy Chương III Gia 
công cơ khí của môn Công nghệ 8 chính là hành trang cho các em học sinh 
bảo vệ cho mình và người thân, bảo vệ lá phổi xanh của trái đất. 
3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
 - Giáo dục môi trường cho học sinh Trung học cơ sở thông qua những bài 
học của chương III Gia công cơ khí môn Công nghệ 8. 
- Đối tượng học sinh trường Trung học cơ sở A 
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU 
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết. 
- Phương pháp phân tích, tổng hợp. 
- Phương pháp thống kê. 
- Phương pháp đàm thoại. 
- Phương pháp vấn đáp gợi mở. 
5. PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU 
5.1. Phạm vi nghiên cứu: 
- Học sinh khối 8 trường Trung học cơ sở A. 
5.2. Kế hoạch nghiên cứu: 
- Rút kinh nghiệm những năm giảng dạy môn Công nghệ 8 nói chung và 
chương III Gia công cơ khí nói riêng. Và dựa vào xu thế phát triển của kinh tế 
- xã hội trong nước và thế giới. 
- Dựa vào sự hứng thú và yêu thích của học sinh đối với môn học và từng bài 
học cụ thể. 
- Tìm tòi thêm kiến thức, học hỏi bạn bè đồng nghiệp. 
- Lồng ghép giáo dục môi trường vào từng bài học phù hợp của chương III 
Gia công cơ khí. 
 - Tổng hợp kiến thức, kĩ năng làm phong phú thêm bài học, nâng cao chất 
lượng giảng dạy, tăng cường sự hứng thú, yêu thích môn học cho học sinh. 
II. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI HOẶC CẢI TIẾN 
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ 
 Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, công nghiệp hóa hiện đại hóa 
đất nước. Ngành cơ khí đã và đang đóng góp mạnh mẽ vào sự phát triển của 
đất nước. Nhưng thực trạng sản xuất cơ khí ở Việt Nam còn nhỏ lẻ, tự phát. 
Tập trung ở các làng nghề khu công nghệp nhỏ. Các làng nghề chủ yếu là sản 
xuất thủ công, với thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, lực lượng lao động chủ yếu 
làm việc theo kinh nghiệm "cha truyền con nối". Khu vực làng nghề nằm xen 
kẽ với các khu dân cư. Hầu hết các làng nghề đều chưa có quy hoạch, kế 
hoạch đầu tư, quản lý, xử lý các nguồn thải về lâu dài cũng như trước mắt. 
Theo điều tra của cơ quan chức năng, gần 50% số làng nghề thải ra 
môi trường các chất thải dạng ô nhiễm điển hình; trong đó có nước thải chưa 
qua xử lý, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của người dân. Ý thức bảo 
vệ môi trường của các hộ, các cơ sở sản xuất tại các làng nghề còn yếu nên 
tình trạng ô nhiễm ngày càng gia tăng. Ở nhiều làng nghề tình trạng ô nhiễm 
được đánh giá là hết sức nghiêm trọng, điển hình là các làng nghề cơ khí đúc 
Vân Chàng, Đồng Côi (Nam Trực). Nhiều làng nghề sử dụng lượng lớn các 
hoá chất như axít, sút, dung dịch mạ, dung môi hữu cơ, sơn màu (HCL, 
Andehyt, Axeton, Phenol, Xyclohecxan)... rất độc hại đối với môi trường, ảnh 
hưởng đến sức khoẻ con người và gây viêm đường hô hấp, dị ứng, bệnh ngoài 
da bệnh phụ khoa. Ô nhiễm môi trường đang đe dọa sức khoẻ người dân, dù 
địa phương đã có dự án đẩy khí thải lên cao và dồn nước thải nguy hại vào 
hồ sinh học. Làng nghề chuyên sản xuất hàng cơ khí, đúc, mạ tẩy - mỗi tháng 
sử dụng khoảng 300 tấn than và 112,5 tấn hoá chất các lại như axít, sút, Cr 
CaC2.Theo điều tra của ngành y tế, tuổi thọ trung bình của người dân không 
vượt quá 55. Làng nghề tái chế nhựa có gần 600 lao động tham gia làm nghề. 
Hiện, làng nghề này vẫn chưa có bể chứa, chôn lấp chất thải rắn, trong khi ô 
nhiễm nguồn nước đang ở mức báo động. Các hộ và cơ sở sản xuất sử dụng 
bình quân mỗi tháng 140 tấn dầu, gần 100 kg hoá chất các loại. Hoặc làng 
nghề chuyên sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, dù đã có bể chứa chất thải tập 
trung, nhưng kết quả phân tích cho thấy môi trường nơi đây đang ô nhiễm 
 nghiêm trọng, với các thông số COD, BOD5, tổng N (T-N) đều vượt tiêu 
chuẩn cho phép từ 1,15 đến 2,6 lần, trong khi các mẫu P (T-P) vượt từ 9-11,9 
lần, thông số NH3 vượt từ 1,29 đến 7,1 lần. Tại nhiều làng nghề khác, dù 
được quan tâm đầu tư xử lý nước thải, song ô nhiễm vẫn ở mức lo ngại, do 
các làng nghề sử dụng nhiều than và hóa chất độc hại. Tại làng nghề chuyên 
sản xuất hàng sơn mài, đồ thờ, mây tre đan xuất khẩu có gần 70% số hộ tham 
gia làm nghề. Hệ thống cống thu gom nước thải và thoát nước cơ bản đã 
được đầu tư nhưng chưa thực sự đảm bảo, môi trường vẫn đang là vấn đề nổi 
cộm. Tỷ lệ người dân mắc các bệnh về phổi, ngoài da, bệnh tiêu hóa, bệnh 
mắt tăng cao. 
Các em học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường tương lai là chủ nhân 
của đất nước. Chúng ta mong muốn một xã hội tốt đẹp hơn, một nước Việt 
Nam xanh, sạch, đẹp hơn. Thì ngay từ khi các em còn nhỏ ý thức bảo vệ môi 
trường trở thành tác phong sống, phóng cách sống của mỗi em học sinh. 
Muốn vậy thì mỗi bài học của các em giáo viên lồng ghép những kiến thức 
môi trường phù hợp dần dần sẽ hình thành ở các em những nếp sống tốt tích 
cực với môi trường. Sau này các em trưởng thành tham gia vào hoạt động sản 
xuất. Những tình trạng ô nhiễm môi trường đang tồn tại sẽ được chính các em 
tìm cách khắc phục. 
2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ 
 Môn Công nghệ theo khái niệm của học sinh là môn phụ nên học sinh 
không chú ý nhiều và đầu tư cho môn học. Khi tôi bắt đầu vào nghề thì tôi thực 
sự buồn vì học sinh không chú ý và có thái độ khinh thường khi học môn Công 
nghệ. Bài vở học sinh còn không ghi chép đầy đủ và khi học không mấy hứng 
thú. Tôi rất muốn thay đối suy nghĩ và cách học của học sinh. Muốn vậy thì 
mỗi tiết dạy của tôi đều được đầu tư kĩ lưỡng và mỗi năm tôi lại bổ sung thêm 
những kiến thức mới cập nhập theo sự phát triển của đất nước và thế giới. Quan 
trọng nhất những kiến thức khi đưa ra phải gần gũi với học sinh, kích thích học 
sinh tìm tòi thêm tri thức mới. 
 Đặc biệt môn Công nghệ có nhiều bài học còn khô khan và nội dung học 
sinh chưa được làm quen trong cuộc sống. Nên mỗi bài học cần đưa nội dung 
đến với học sinh một cách đơn giản nhất, dễ hiểu nhất. Với nhưng bài học đó 
nếu giáo viên đưa ra những hình ảnh minh họa hay đoạn video thì học sinh dễ 
dàng hiểu kiến thức mới nhanh hơn. Và có một cách cũng rất hiệu quả đó là 
 Tích hợp giáo dục môi trường vào những bài học phù hợp thì hiệu quả giáo 
dục sẽ tăng lên rất nhiều. 
 Chương III Gia công cơ khí là một chương học sinh ít hứng thú nhất 
trong chương trình học của môn Công nghệ 8. Các bài trong chương này xa 
vời với các em học sinh. Mà điều kiện để các em đi thăm quan thực tế các nhà 
máy sản xuất thì chưa thực hiện được. Các em không được tiếp xúc hay quan 
sát nhiều đến các đồ dùng sử dụng trong ngành cơ khí hay được thao tác làm 
việc trên các máy công cụ này. Các em chỉ học những lý thuyết trống rỗng 
nên gây nhàm chán rất nhanh. 
 Trường học chưa có phòng học thực hành riêng cho môn học nên việc 
chuẩn bị và giảng dạy của giáo viên gặp khó khăn hơn. 
 Ở trường học các bộ môn cũng đã chú trọng đến vấn đề giáo dục môi 
trường vào giảng dạy. Đó là điều kiện thuận lợi vì học sinh đã rèn luyện kĩ 
năng học tập tìm tòi và áp dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn. 
 Sau 3 năm làm việc tuy chưa phải là dài nhưng tôi đã đúc kết thêm được 
nhiều kinh nghiệm để đưa những bài học gây hứng thú cho học sinh. Nhưng 
hằng ngày tôi vẫn chứng kiến những học sinh của mình còn xả rác bừa bãi, 
những khu tập thể, đường phố, dòng sông vẫn phải chịu sự vô trách nhiệm 
của con người. Nó thôi thúc tôi không ngừng để đưa những bài học về môi 
trường vào mỗi tiết học. 
 Không phải bài học nào cũng tích hợp được giáo dục môi trường vào 
giảng dạy. Tích hợp vào bài nào, phần nào là cả nghệ thuật và sự khéo léo 
tinh tế của giáo viên. Có những bài chúng ta đưa hình ảnh, có bài đưa doạn 
video hay đơn giản chỉ là những câu chuyện nhỏ của giáo viên cũng mang đến 
hiệu quả rất lớn. 
 Trường tôi có 5 lớp 8, mỗi lớp có đặc thù riêng và khả năng tiếp thu 
cũng khác nhau. Nên khi áp dụng vào từng bài tôi cũng phải chú ý đến từng 
lớp từng đối tượng cụ thể. Trong các lớp tôi dạy có 2 lớp là lớp 8A2 và 8A4 
các em học sinh rất tích cực và nhanh nhẹn khi tham gia học tập. Mỗi khi tôi 
áp dụng biện pháp mới ở hai lớp này đều nhận được sự hợp tác và hứng thú 
của học sinh. Còn các lớp còn lại tôi cần phải dạy chậm lại và đưa biện pháp 
mới học sinh tiếp thu chậm hơn. Hiệu quả sau mỗi tiết dạy cũng ít hơn. Vì có 
khi các em nghe đó xây dựng bài đó nhưng hành động của các em thì vẫn 
chưa đúng. Tôi lại phải tìm những phương pháp và kiến thức bổ sung phù hợp 
 cho từng lớp cụ thể để mỗi giờ lên lớp học sinh hứng thú học tập và ham 
muốn tìm tòi thêm kiến thức. Và những nội dung tích hợp giáo dục môi 
trường của tôi mang đến cho học sinh những bài học hay bổ ích, nâng cao ý 
thức bảo vệ môi trường cho mỗi học sinh. Các em sẽ mang kiến thức học 
được về tuyên truyền và nhắc nhở những người thân và bạn bè của mình. 
3. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ ĐƯỢC TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN 
ĐỀ. 
Chương III Gia công cơ khí gồm 6 bài học trong 4 tiết. Mỗi bài đưa 
đến cho học sinh nhưng nội dung khác nhau và phong phú. 
Theo “Hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học môn công nghệ, cấp 
trung học cơ sở của Bộ giáo dục và đào tạo” 
Bài 19: Thực hành vật liệu cơ khí không dạy. Khi dạy bài, mục 1, 2 giáo viên 
lấy ví dụ các vật liệu kim loại, vật liệu phi kim loại minh họa. 
Bài 20: Dụng cụ cơ khí không dạy b)thước cặp 
Bài 21 + 22: Cưa và đục kim loại. Dũa và khoan kim loại không dạy phần II 
bài 21+22 ghép nội dung phần I bài 21+22 dạy trong một tiết 
Bài 23: Thực hành đo và vạch dấu không bắt buộc nhưng nhóm giáo viên 
giảng dạy môn công nghệ thấy sự cần thiết của bài học nên thống nhất vẫn 
đưa nội dung bài học vào giảng dạy và rèn kĩ năng cơ bản của gia công cơ khí 
cho học sinh. 
Áp dụng cụ thể vào một số bài 
Bài 18: Vật liệu cơ khí 
Bài với nội dung kiến thức nhiều một tiết học 45 phút đã khó khăn để 
học sinh tìm hiểu hết các nội dung. Tôi đã tích hợp giáo dục bảo vệ môi 
trường cho học sinh ở phần 2) Vật liệu phi kim loại. Vì thời gian ngắn nên 
hình ảnh đưa ra cũng phải được chắt lọc kĩ càng để mang lại hiệu quả cao. 
Do đó tôi đã chọn hình ảnh sau: 
 CHẤT DẺO VỚI MÔI TRƯỜNG
Kèm theo câu hỏi: 
? Em cho biết tác hại của phế thải chất dẻo đến môi trường. 
? Em đề suất biện pháp gì để giảm ô nhiễm môi trường từ rác thải. 
Sau đó cho học sinh thỏa sức đưa ra các biện pháp khắc phục. 
Tôi nhấn mạnh đến một biện pháp mà ngày nay con người đang nỗ lực 
hướng tới đó là tận dụng tái chế phế thải của ngành cơ khí nói riêng và các 
ngành trong sản xuất nói chung và mong muốn học sinh tuyên truyền về gia 
đình và cộng đồng không vưt rác bừa bãi, phân loại rác thải và sử dụng các 
sản phẩm sinh học an toàn và dễ phân hủy. 
Khơi sự sáng tạo của học sinh biến những sản phẩm phế thải của sinh 
hoạt trở thành những tác phẩm nghệ thuật và những vật dụng có ích. 
Bài 20: Dụng cụ cơ khí 
Với tính chất bài học khô khan nội dung về các dụng cụ cơ khí đơn 
giản. Học sinh dễ nhàm chán, thời gian cho nội dung chính của bài không quá 
nhiều nên tôi sử dụng một số hình ảnh và thông tin để học sinh hiểu rõ về 
những việc làm mà con nguời tưởng chừng nó vô hại nhưng lại gây hậu quả 
nghiêm trọng tới môi trường. Trong những hình ảnh tôi đưa hầu hết liên qua 
đến gia công khí và những hoạt động thường nhật của con người. Những 
thông tin và con số của tôi đưa ra đáng để học sinh suy nghĩ và tìm hiểu thêm 
sau đó có biện pháp bảo vệ môi trường riêng đối với cương vị là học sinh 
đang ngồi trên ghế nhà trường. 
Đãi vàng là hiểm họa lớn nhất trong danh sách. Người dùng thủy ngân để đãi vàng 
không những gây hại cho chính bản thân và gia đình mà còn đầu độc những làng 
mạc gần đó khi chất độc này thoát ra môi trường. Khoảng 15 triệu người phải hứng 
chịu tác hại của thủy ngân được sử dụng để đãi vàng. 
Kim loại nặng và chất hữu cơ từ sản xuất công nghiệp thâm nhập vào người 
do dùng nước này để nấu ăn hay tưới cây trồng. 
 Tất cả các giếng đào vào nước ngầm đều có thể bị nhiễm độc. Ngoài ra, nước 
ngầm nhiễm độc còn có thể chảy ra sông hay hồ. 
Đốt than, củi, mùn cưa để nấu ăn, sưởi, chiếu sáng là nguyên nhân chủ yếu tạo ra 
độc tố trong nhà. Do không thoáng khí, những gian phòng dùng than, củi hay 
phân để nấu ăn chứa nhiều khói độc, dẫn đến các bệnh ở đường hô hấp, ung thư 
phổi. Hơn một nửa dân số thế giới nấu ăn bằng than và củi, đặc biệt là ở Ấn 
Độ, Trung Quốc và các nước ở phía nam châu Phi. Theo báo cáo, than củi khiến 
3 triệu người chết mỗi năm và gây nên 4% ca bệnh trên thế giới. 
 Vấn đề lớn nhất của khai thác mỏ là phế liệu chứa chất độc gây tác hại đến 
nông nghiệp và nước trong vùng. 
Môi trường bị ô nhiễm nặng trong lúc nấu chảy kim loại: Khí SO2, NO, hơi 
độc và kim loại nặng bị thải ra môi trường xâm nhập vào trong cơ thể theo 
đường hô hấp. 
 Phế liệu phóng xạ gây nhiều tác hại đối với sức khỏe con người, từ ung thư 
cho đến tử vong. 
Nước thải không qua xử lý gây ra những bệnh như dịch tả, thương hàn, lỵ, 
viêm gan. WHO dự tính hằng năm có khoảng 1,5 triệu người chết vì nước thải 
không xử lý. 
 Ô nhiễm không khí gây ra nhiều bệnh đường hô hấp và tuần hoàn. WHO dự 
tính mỗi năm có khoảng 865.000 người chết do ô nhiễm không khí là nguyên 
nhân trực tiếp gây ra. 
Ắc quy thường được chuyên chở sang các nước nghèo. Ở đó chì được tái sinh bằng 
phương tiện thô sơ. Nó gây nhiều hậu quả đến sức khỏe như rối loạn tăng trưởng, hỏng 
gan, thiểu năng trí tuệ 
 Hay tôi có thể lựa chọn những hình ảnh ô nhiễm môi trường quen thuộc để 
giáo dục môi trường cho học sinh . Khi đưa ra hình ảnh tôi muốn học sinh của mình 
tìm ra nhưng biện pháp để khắc phục. Hướng tới môi trường lớp học, trường học của 
chúng ta xanh, sạch, đẹp. Những con đường đẹp hơn khi không có rác ở khắp nơi. 
Một số hình ảnh hướng học sinh tới những hành động đúng. Và những việc 
làm biến những vật tưởng chừng vô chi thành những đồ dùng xinh xắn và hữu 
ích. 
Đối với một số bài tôi tích hợp giáo dục môi trường vào giảng dạy bằng 
chính những hành động chưa đúng của học sinh ngay tại lớp, hay bằng những 
câu chuyện đời thường. Có khi tôi cho học sinh đóng kịch ngắn 3 đến 5 phút. 
Ví dụ1: Tình huống học sinh xả rác tại lớp tôi cho học sinh nhặt lên và để 
trên bàn giáo viên. 
? Cả lớp cho biết vật cô thu được trong lớp ta hôm nay là gì. 
? Nó có lợi hay có hại. 
Học sinh tha hồ phân tích và tôi hướng học sinh vào bài học vì hầu hết 
những sản phẩm chúng ta đang dùng đều la sản phẩm của nghành cơ khí. 
Tôi luôn hướng học sinh theo hai chiều hướng là: 
- Nếu không sử dụng được thì để gọn gàng theo đúng nơi quy định. 
- Có thể dùng nó thành một sản phẩm có ích, giúp giảm gánh nặng khi 
ngày càng nhiều chất thải của ngành cơ khí bị đẩy ra môi trường. 
Ví dụ 2: Tôi xây dựng một tình huống: “Hôm nay, trên đường đi làm cô gặp 
bạn nữ nhìn rất xinh, ăn mặc đẹp và đang uống cốc capuchino ngon lành. 
Nhưng khi uống hết bạn nữ đó ném ngay xuống lòng đường mà cô nhìn thấy 
thùng rác chỉ cách đó vài mét. 
? Cả lớp mình cùng phân tích tình huống này và nếu các em gặp tình 
huống này sẽ xử lý như thế nào. 
Các em sẽ cùng nhau phân tích tình huống và tự rút ra bài học cho mình 
và quan trọng hơn các em còn học cách góp ý với người khác để cùng chung 
tay bảo vệ môi trường. 
 Ví dụ 3: Tôi sẽ giao hiệm vụ cho một nhóm tự xây dựng và thực hiện một 
tiểu phẩm nhỏ từ 3 đến 5 phút về vấn đề ý thức bảo vệ môi trường ở nơi công 
cộng. 
Các em vừa được vui chơi rèn luyện năng khiếu mà còn mang đến những bài 
học quý giá. Tiết học sẽ nhẹ nhàng và thú vị hơn rất nhiều. 
 Tôi cũng kể cho học sinh nghe về những câu chuyện lịch sử liên quan 
đến những vật liệu cơ khí hay các dụng cụ cơ khí. Mỗi câu chuyện sẽ làm các 
em tò 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_tich_hop_giao_duc_moi_truong_vao_giang.pdf