Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học
Qua quá trình thực nghiệm, chúng tôi đã sử dụng PHT để đưa vào bài dạy
và đã làm cho học sinh yêu thích hơn giờ hoc Công nghệ 10”.
Giáo án của những bài thực nghiệm được dạy song song cùng thời gian
với loại giáo án đối chứng:
Giáo án thực nghiệm có sử dụng PHT vào bài soạn và dạy.
Giáo án đối chứng không sử dụng PHT vào bài giảng .
Sau khi dạy xong bài, chúng tôi tiến hành kiểm tra tinh thần học tập môn
Công nghệ của các em học sinh thấy được các em rất sôi nổi. Các em học sinh thực
hiện xong tiết học cảm thấy rất nhẹ nhàng, vui vẻ, có khi giờ học đã kết thúc nhưng
các em còn muốn tìm hiểu thêm những vấn đề thực tiễn có liên quan đến nội dung
bài học. Học sinh đã yêu thích hơn giờ học Công nghệ. Khả năng lĩnh hội kiến thức
của học sinh tốt hơn và được kiểm tra bằng hệ thống câu hỏi củng cố sau bài dạy.
Điều đó chứng tỏ các em học sinh đã có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và
hiệu quả của việc học đều các môn học.
n,... yêu cầu HS tự lực hoàn thành. 1.2. Tầm quan trọng của phiếu học tập trong hoạt động dạy học môn Công nghệ 10 Phiếu học tập có ưu thế hơn câu hỏi, bài tập ở chỗ muốn xác định một nội dung kiến thức nào đó thoả mãn nhiều tiêu chí hoặc xác định nhiều nội dung từ Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 5 các tiêu chí khác nhau, nếu diễn đạt bằng câu hỏi thì dài dòng. Ta có thể thay bằng một bảng có các tiêu chí thuộc các cột, các hàng khác nhau. Học sinh căn cứ vào tiêu chí ở cột và hàng để tìm ý điền vào ô trống cho phù hợp. Như vậy giá trị lớn nhất của phiếu học tập là với nhiệm vụ học tập phức tạp được định hướng rõ ràng, diễn đạt ngắn gọn bằng một bảng gồm có các hàng, cột ghi rõ các tiêu chí cụ thể. Theo các gợi ý, hướng dẫn của giáo viên, dựa vào nhiệm vụ đó học sinh thực hiện, hoặc ghi các thông tin cần thiết để mở rộng kiến thức, bổ sung kiến thức, tìm hiểu nội dung hoặc củng cố bài học. Với đặc thù của môn Công Nghệ 10 nói chung và phần nông , lâm nghiệp nói riêng, sử dụng phiếu học tập là phương tiện để học sinh và giáo viên sử dụng trong quá trình dạy và học, mang lại hứng thú học tập tích cực cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng lĩnh hội tri thức và đưa lý thuyết đến gần với thực tiễn hơn, góp phần rất lớn trong việc đổi mới phương pháp dạy học . Sách giáo khoa Công nghệ 10 từ khi được chỉnh sửa bổ sung vào năm 2006 – 2007, nội dung được đưa vào nhiều hơn đã đem lại những chuyển biến nhất định trong kết quả dạy và học. Tuy nhiên, để đáp ứng được yêu cầu vận dụng kiến thức thì giáo viên còn phải biết đưa thực tế vào bài học lý thuyết một cách sinh động. Việc sử dụng phiếu học tập trong dạy và học là việc làm cần thiết nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học, đưa việc học đến gần với thực tiễn hơn. Phiếu học tập ưu việt hơn các phương tiện học tập khác vì: + Phiếu học tập có thực hiện nhanh gọn. Thời gian thực hiện phiếu học tập ngắn. Trong thời gian đó có thể hoàn thành một đơn vị kiến thức trong bài học. + Trong phiếu học tập có thể hỏi được nhiều nội dung kiến thức trong cùng một phiếu + Dùng phiếu học tập giúp học sinh phát triển tính cộng đồng. Khi sử dụng phiếu học trong bài dạy, học sinh sẽ cùng nhau thảo luận cùng nhau làm việc. Qua đó rèn luyện cho các em cách làm việc hợp tác nhóm. Mà hợp tác Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 6 nhóm là cách làm việc đem lại hiệu quả công việc cao và hợp tác nhóm cũng là xu thế chung của thế giới ngày nay. Do đó phiếu học tập sẽ giúp các em hình thành được kĩ năng làm việc hợp tác nhóm, làm việc cộng đồng. + Dùng phiếu học tập trong dạy học cũng góp phần phát huy tính tích cực của học sinh. Học sinh sẽ trở thành trung tâm của quá trình dạy và học. Do học sinh sẽ độc lập làm việc với SGK và bày tỏ ý kiến của mình trong nhóm làm việc. Nguồn kiến thức mà học sinh tiếp nhận là từ SGK và từ những ý kiến xây dựng của các bạn khác. + Dùng phiếu học tập học sinh có thể tự đánh giá được kết quả thảo luận nhóm, và có thể tham gia đánh giá nhóm khác. Có thể cho điểm các nhóm khác thông qua ma trận điểm có trong phiếu học tập. Ngoài ra phiếu học tập còn có các vai trò khác như: Phiếu học tập giúp học sinh biết cách diễn đạt ý tưởng của mình bằng ngôn ngữ của chính mình khi nghiên cứu một nội dung sinh học thành một hệ thống kiến thức hoàn chỉnh. Khi sử dụng PHT sẽ rèn luyện cho học sinh các kĩ năng, thao tác hoạt động, phát huy năng lực độc lập nâng cao tinh thần trách nhiệm của học sinh trong học tập, rèn cho học sinh phương pháp tư duy khái quát có khả năng chuyển tải thông tin ở mức độ cao hơn. Quan trọng hơn cả là giúp học sinh vừa chiếm lĩnh kiến thức, vừa nắm vững phương pháp tái tạo cho bản thân kiến thức đó, phát triển năng lực tự học và thói quen tự học, sáng tạo, giúp học sinh có thể tự học suốt đời - đây là một trong những yêu cầu căn bản của lý luận dạy học. 1.3. Các loại phiếu học tập trong dạy học Trong dạy học giáo viên thư ờng sử dụng nhiều dạng PHT khác nhau, tuỳ mục tiêu đạt ra cũng như đặc điểm nội dung từng bài mà lựa chọn dạng PHT cho phù hợp. - Dựa vào mục đích: Phiếu học bài, phiếu ôn tập, phiếu kiểm tra. - Dựa vào nội dung: Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 7 + Phiếu thông tin: Nội dung gồm các thông tin bổ sung, mở rộng, minh họa cho các kiến thức cơ bản của bài. + Phiếu bài tập: Nội dung là các bài tập nhận thức hoặc bài tập củng cố. + Phiếu yêu cầu: Nội dung là các vấn đề và tình huống cần phải giải quyết. + Phiếu thực hành: Nội dung liên quan đến những nhiệm vụ thực hành, rèn luyện kĩ năng. 1.4.Cấu trúc phiếu học tập Về giá trị dạy học, thì PHT là tài liệu hướng dẫn học, nghĩa là hướng dẫn học sinh trình tự thực hiện các thao tác, để tìm ra được kết quả học tập. Do vậy thành phần cấu tạo của PHT phải là: - Phần dẫn dắt. - Phần các công việc thực hiện. - Thời gian hoàn thành. - Đáp án . 1.5. Sử dụng phiếu học tập - Phiếu học tập là công cụ để giáo viên tiến hành tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh, đồng thời là cơ sở để học sinh tiến hành các hoạt động một cách tích cực, chủ động. Việc sử dụng PHT nên được sử dụng trong dạy kiến thức mới, ôn tập, kiểm tra... và thường được diễn ra theo quy trình sau: - Giáo viên nêu nhiệm vụ học tập, giao PHT cho học sinh, tùy theo hình thức tổ chức dạy học mà giáo viên giao cho mỗi học sinh một phiếu hay mỗi nhóm một phiếu, tốt nhất là mỗi bàn một phiếu. - Tiến hành quan sát, hướng dẫn và giám sát kết quả hoạt động của HS. - Giáo viên hướng dẫn cho học sinh trình bày kết quả làm việc PHT. Sau đó, cả lớp trao đổi, bổ sung hoàn thành PHT. Giáo viên yêu cầu học sinh trao đổi Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 8 chéo nhau để sửa chữa, đánh giá kết quả làm việc với PHT của nhau trên cơ sở các kết luận của giáo viên. II.2 Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trường THPT 2.1. Thực trạng dạy học của giáo viên Nhìn chung, giáo viên đã cải tiến đổi mới phương pháp như sử dụng: phương pháp vấn đáp tìm tòi, trực quan tìm tòi, thảo luận nhóm Tuy nhiên, việc sử dụng các phương pháp trên không thường xuyên, đa phần giáo án chủ yếu là nội dung bài học chứ chưa chú trọng đến phương pháp, rất ít câu hỏi tư duy. Chỉ sử dụng hệ thống thông tin trong sách giáo khoa(SGK) để thể hiện trong bài học, mà không có thêm các thông tin kiến thức, sơ đồ tự thiết kế từ nội dung SGK hay liên hệ thực tiễn. Chưa chú ý sử dụng các phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. 2.2. Thực trạng về việc học của học sinh Qua thực tế giảng dạy cho thấy, chất lượng giờ dạy môn Công nghệ chưa cao. Hoạt động các em chủ yếu là nghe giảng, ghi chép chứ chưa có ý thức phát biểu xây dựng bài, các em tiếp thu kiến thức một cách thụ động, miễn cưỡng. . Hầu hết các em học sinh đều có tâm lý chung học lệch, chỉ tập trung học các môn sắp kiểm tra, thi hay các môn chuyên. Một số em còn làm việc riêng trong giờ học, có khi lớp 40- 45 học sinh nhưng trong suốt giờ học chỉ tập trung 3-5 em phát biểu xây dựng bài, thậm chí có những lớp còn không có học sinh nào phát biểu. Các em hầu như không có hứng thú vào việc học tập bộ môn Công nghệ 10. Từ thực tế trên dẫn đến kết quả học tập bộ môn chưa cao. Số học sinh giỏi ít, khá và trung bình nhiều. Qua thực tế giảng dạy nếu sử dụng các PPDH phát huy tính tích cực như: thảo luận nhóm, phiếu học tập, sử dụng băng hình cùng với những câu hỏi tìm tòi, kích thích tư duy, gây tranh luận thì không khí học tập sôi nổi hẳn, các em tích cực phát biểu xây dựng bài. Ngược lại, ở một số lớp giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại tái hiện, thông báo lớp học trở nên trầm, ít học sinh phát biểu xây dựng bài. Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 9 2.3. Thực trạng sử dụng phiếu học tập trong dạy học Công nghệ hiện nay Qua thực tế tiếp xúc những giờ dạy về các bài này cho thấy nhiều giờ dạy một số giáo viên tuy có sử dụng PHT nhưng còn lúng túng về phương pháp sử dụng phiếu học tập. Việc sử dụng PHT chưa mang lại hiệu quả cao trong giờ dạy, do đó gặp nhiều khó khăn trong việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Đặc biệt là quá trình tổ chức các hoạt động nhận thức cho học sinh trong môn Công nghệ 10 còn chưa huy động được khả năng học tập của các em . 2.4. Những nguyên nhân của thực trạng dạy và học Công nghệ 10 ở trường THPT hiện nay Giáo viên ngại áp dụng các phương pháp mới vào quá trình dạy học. Bởi để dạy học theo các phương pháp mới phát huy được tính tích cực của học sinh đòi hỏi phải đầu tư thời gian, trí tuệ vào việc soạn giáo án và cần phải đảm bảo đầy đủ về cơ sở vật chất , có các phương tiện dạy học hiện đại. Đồng thời giáo viên phải có năng lực tổ chức, điều khiển quá trình dạy học. Đây là khó khăn đối với giáo viên hiện nay vì một số trường THPT chưa có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học tập của bộ môn , chưa có đủ các đồ dùng dạy học cần thiết Hơn nữa, nội dung sách giáo khoa Công Nghệ 10 nói chung được thiết kế mang tính chất chung cho mọi vùng miền và cho nhiều đối tượng, trong một giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội xác định và sử dụng trong một thời gian nhất định. Vì vậy không thể cập nhật hết những nội dung kiến thức, mang tính thời sự, tính thực tiễn sản xuất ở địa phương hay những thông tin kiến thức đặc trưng của các vùng miền. Do đó, trong tổ chức dạy học, giáo viên mà không sử dụng phiếu học tập để tạo cơ hội cho học sinh cập nhật thêm các thông tin, kiến thức từ thực tiễn địa phương để bổ sung, mở rộng kiến thức trong sách giáo khoa thì học sinh sẽ thấy nội dung bài học mang tính chất chung chung và gây nên sự nhàm chán cho môn học. Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 10 Bên cạnh đó một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng dạy và học Công nghệ 10 hiện nay bởi do môn này không được học sinh coi là môn học chính, vì không thi học sinh giỏi,không thi tốt nghiệp, không thi đại học. Từ đó đã hình thành nên suy nghĩ buông lỏng, thả trôi trong ý thức học tập của học sinh. Người giáo viên cũng buông xuôi vì môn này “vô thưởng, vô phạt”, dạy theo kiểu đọc chép cho hết giờ, không thi thì dạy thế nào cũng không ai đánh giá... Mặt khác, Công nghệ 10 là môn học khoa học ứng dụng mà kiến thức liên quan chủ yếu về các qui trình công nghệ, kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,...những vấn đề này đối với học sinh ở những vùng sản xuất nông thôn thì rất quen thuộc, gần gũi nhưng đối với học sinh ở khu vực thành phố thì xa lạ, khó hiểu và không thực tế nên làm cho các em ít quan tâm hơn. Nguyên nhân gây nên hiện tượng này khá phức tạp, bắt nguồn từ tâm lý chung của học sinh (sợ bị chê cười khi phát biểu sai, chưa tự tin vào năng lực của mình, chưa hiểu rõ tác dụng của việc phát biểu xây dựng bài), do cá nhân chưa chuẩn bị bài kỹ, đến phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa gây hứng thú tới học sinh Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trường trung học phổ thông (THPT) phần lớn vẫn còn trong tình trạng chung như trên. Do đó, việc đổi mới PPDH,sử dụng phiếu học tập trong dạy học Công nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo, chủ động của học sinh là cấp bách và cần thiết. II.3. Sử dụng phiếu học tập hiệu quả trong môn Công nghệ 10 BÀI 12: ĐẶC ĐIỂM, TÍNH CHẤT, KĨ THUẬT SỬ DỤNG MỘT SỐ LOẠI PHÂN BÓN THÔNG THƯỜNG TRONG NÔNG ,LÂM NGHIỆP. BÀI 48: CHẾ BIẾN SẢN PHẨM CÂY CÔNG NGHIỆP VÀ LÂM SẢN Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 11 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 12 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 13 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 14 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 15 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 16 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 17 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 18 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 19 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 20 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 21 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 22 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 23 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 24 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 25 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 26 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 27 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 28 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 29 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 30 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 31 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 32 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 33 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 34 Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 35 II.4 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học Qua quá trình thực nghiệm, chúng tôi đã sử dụng PHT để đưa vào bài dạy và đã làm cho học sinh yêu thích hơn giờ hoc Công nghệ 10”. Giáo án của những bài thực nghiệm được dạy song song cùng thời gian với loại giáo án đối chứng: Giáo án thực nghiệm có sử dụng PHT vào bài soạn và dạy. Giáo án đối chứng không sử dụng PHT vào bài giảng . Sau khi dạy xong bài, chúng tôi tiến hành kiểm tra tinh thần học tập môn Công nghệ của các em học sinh thấy được các em rất sôi nổi. Các em học sinh thực hiện xong tiết học cảm thấy rất nhẹ nhàng, vui vẻ, có khi giờ học đã kết thúc nhưng các em còn muốn tìm hiểu thêm những vấn đề thực tiễn có liên quan đến nội dung bài học. Học sinh đã yêu thích hơn giờ học Công nghệ. Khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh tốt hơn và được kiểm tra bằng hệ thống câu hỏi củng cố sau bài dạy. Điều đó chứng tỏ các em học sinh đã có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và hiệu quả của việc học đều các môn học. Hơn nữa, khi sử dụng phiếu học tập đã mang lại những giá trị nhất định trong dạy học Công nghệ như: - Cập nhật, bổ sung, mở rộng thêm kiến thức trong sách giáo khoa. - Củng cố, hoàn thiện kiến thức, nhằm củng cố thêm kiến thức và vận dụng kiến thức đó vào trong thực tế sản xuất nông nghiệp tại Đăklăk. - Góp phần đa dạng hoá phương tiện và đổi mới phương pháp dạy học. Trong dạy Công Nghệ 10 nói chung và phần “ phân bón” nói riêng, sử dụng PHT đã góp phần làm phong phú thêm phương tiện để giáo viên tổ chức quá trình dạy học. Không những thế việc sử dụng nhiều dạng PHT đã góp phần thay đổi hình thức tổ chức của bài lên lớp và thay đổi hoạt động của thầy và trò trong quá trình tổ chức dạy học: Giáo viên không mất thời gian cung cấp kiến thức, mà kiến thức đó đã được học sinh tìm hiểu, nghiên cứu và cập nhật thêm, do đó giáo viên có nhiều thời gian Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 36 hơn để hướng dẫn, tổ chức học sinh học tập; Học sinh không chép bài dạy của giáo viên mà tăng cường hoạt động tìm tòi, thảo luậnChính vì vậy, sử dụng PHT trong dạy học Công Nghệ sẽ phát huy được tính sáng tạo, tích cực trong học tập của học sinh. - Góp phần gây hứng thú học tập cho học sinh: Trong dạy học việc gây hứng thú học tập cho học sinh là một trong những biện pháp tích cực để nâng cao hiệu quả tiếp thu kiến thức. Với những thông tin bổ ích về thực tiễn sản xuất ở địa phương sẽ gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh chủ động trong tư duy, sáng tạo trong học tập và làm không khí lớp học trở nên sôi nổi, vui vẻ, học sinh yêu thích hơn với môn học và chất lượng giờ học được nâng cao hơn. - Kiểm tra kết quả học tập của học sinh Ngoài những vai trò trên, PHT có thể dùng để kiểm tra, đánh giá kỹ năng phân tích, tổng hợp, kỹ năng vận dụng kiến thức lý luận vào thực tiễn sản xuất III. 5 Kết quả thu được qua khảo nghiệm Lớp Số HS Kết quả điểm Trung bình môn của năm học 2013 - 2014 HS yếu, kém Tỉ lệ (%) HS trung bình Tỉ lệ (%) HS khá Tỉ lệ (%) HS giỏi Tỉ lệ (%) Lớp đối chứng 10A1 40 0 0 4 10 10 25 26 65 10B1 42 0 0 8 19 16 38 18 43 Lớp thực nghiệm 10A2 42 0 0 0 0 8 19 34 81 10B2 45 0 0 0 0 15 33 30 67 Qua kết quả nghiên cứu ta thấy rằng, ở các lớp thực nghiệm tỷ lệ đạt điểm khá giỏi đều cao hơn các lớp đồi chứng. Ngược lại, tỷ lệ điểm trung bình của các lớp đối chứng lại cao hơn. Điều đó phần nào cho thấy học sinh ở lớp thực nghiệm Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 37 tiếp thu kiến thức nhiều hơn và tốt hơn. Một trong những nguyên nhân đó là: Ở lớp thực nghiệm, lớp học diễn ra nghiêm túc, học sinh hứng thú học tập, tích cực, chủ động trong học tập, số lượng học sinh tham gia xây dựng bài nhiều làm cho không khí lớp học sôi nổi kích thích sự sáng tạo, chủ động nên khả năng hiểu và nhớ bài tốt hơn. Còn ở lớp đối chứng, lớp học vẫn diễn ra nghiêm túc, học sinh vẫn chăm chú tiếp thu bài giảng, nhưng các em tiếp thu thụ động về kiến thức, giáo viên sử dụng phương pháp truyền thống như thông báo, giải thích nên quá trình làm việc thường nghiêng về giáo viên. Qua quá trình phân tích kết quả học tập ở các lớp thực nghiệm và các lớp đối chứng và theo dõi trong suốt quá trình giảng dạy, tôi có những nhận xét sau: - Ở lớp đối chứng: + Phần lớn học sinh chỉ dừng lại ở mức độ nhớ và tái hiện kiến thức. Tính độc lập nhận thức không thể hiện rõ, cách trình bày rập khuôn trong SGK hoặc vở ghi của giáo viên. + Nhiều khái niệm các em chưa hiểu sâu nên trình bày chưa chính xác, thiếu chặt chẽ. + Việc vận dụng kiến thức đối với đa số các em còn khó khăn, khả năng khái quát hóa và hệ thống hóa bài học chưa cao. + Giờ học trầm lắng, kém hứng thú, các em vẫn trả lời câu hỏi nhưng chưa nhiệt tình. Tuy nhiên, vẫn có một số học sinh hiểu bài khá tốt, trình bày khá lô gic, chặt chẽ. - Ở lớp thực nghiệm: + Phần lớn học sinh hiểu bài tương đối chính xác và đầy đủ + Lập luận rõ ràng, chặt chẽ Sáng kiến kinh nghiệm môn Công nghệ lớp 10 Giáo viên: Nguyễn Thị Tâm 38 + Độc lập nhận thức, có khả năng trình bày vấn đề một cách chủ động theo quan điểm riêng, không theo nguyên mẫu SGK hoặc của giáo viên. + Đa số các em có khả năng vận dụng những kiến thức đã học vào kiến thức thực tế. + Các em tham gia vào bài học với tinh thần say mê, hào hứng, không khí giờ học thoải mái. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít học sinh, khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và vận dụng kiến thức chưa tốt. III. Giải pháp Hiệu quả bài dạy phụ thuộc rất nhiều vào phần chuẩn bị bài mới (soạn bài) của giáo viên trước khi lên lớp. Nếu giáo viên chuẩn bị chu đáo bài soạn và có thêm các thông tin, các hình ảnh sinh động của thực tế đưa vào thì lên lớp ngay vào đầu tiết học đã thu hút được sự quan tâm và chú ý của học sinh.Từ đó,việc giải quyết vấn đề trong một tiết dạy sẽ thuận lợi hơn, trôi chảy hơn và sẽ giúp giáo viên giải quyết tốt ý đồ cho tiết dạy của mình.Vì vậy, để đưa được những nội dung thực tiễn vào bài dạy cần thực hiện theo các bước sau: - Giáo viên cần đọc trước bài học để xác định được nội dung trọng tâm của bài và những vấn đề có thể thiết kế và sử dụng được PHT. - Gợi ý cho học sinh những vấn đề của thực tiễn đặt ra có liên quan đến nội dung bài học. - Cho h
Tài liệu đính kèm: