Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5

Học sinh lớp tôi viết sai chính tả, một phần lớn là do các em không nắm được nghĩa của từ. Vì thế, khi dạy chính tả hoặc dạy các phân môn học khác của môn Tiếng Việt, tôi luôn chú ý giúp các em:

 - Hiểu nghĩa của từ, phân biệt từ này với từ khác để các em ghi nhớ cách viết của mỗi từ.

 Ví dụ: Nếu tôi đọc một từ có hình thức ngữ âm là “ dành “ thì học sinh sẽ lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu tôi đặt nó vào một ngữ cảnh hay gắn cho nó một nghĩa xác định như : Em để dành tiền mua sách truyện Thiếu nhi./ Trong trận đấu bóng đá ngày mai, các em phải giành lấy chiến thắng./ Các em đọc rõ ràng, rành mạch để cả lớp cùng nghe. Như vậy học sinh sẽ dễ dàng viết đúng chính tả.

 - Khi đọc chính tả cho học sinh viết, tôi đọc từng cụm từ ( diễn đạt một ý nhỏ); tôi luôn nhắc nhở các em chú ý lắng nghe , hiểu nghĩa từ để viết đúng chính tả

 - Khi học sinh sửa lỗi trong bài chính tả, tôi yêu cầu các em ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại cho đúng; không nên chỉ ghi một tiếng sai rồi sửa lại, sửa như vậy các em sẽ không ghi nhớ các từ đã viết sai.

 - Trong các tiết Tập đọc, tôi tập cho các em tìm cách ngắt giọng ở những câu dài, ngắt nghỉ đúng các dấu câu, giải nghĩa các từ khó.

 - Khi học sinh làm bài tập chính tả, tôi chọn các bài theo phương ngữ Nam Bộ, tập trung vào các “ trọng điểm chính tả” để khắc phục các lỗi chính tả do cách phát âm của địa phương. Ngoài việc hướng dẫn các học sinh làm các bài tập trong SGK, tôi còn thay đổi hình thức và nội dung bài tập bằng cách vận dụng nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp tiêu cực. Nghĩa là tôi hướng dẫn học sinh làm các bài tập chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xác định cái đúng. Theo cách này, tôi đã điều chỉnh và thay đổi nội dung và hình thức một số bài tập trong SGK nhưng vẫn bám sát yêu cầu cần đạt của bài học.

 

doc 30 trang Người đăng Hoài Minh Ngày đăng 15/08/2023 Lượt xem 1249Lượt tải 6 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o các nguyên nhân trên, tôi đề ra các biện pháp thực hiện sau đây:
* Phát huy tính có ý thức trong học chính tả
 	Trong năm học 2018 -2019, ở tuần đầu nhận lớp, ngoài việc củng cố nề nếp lớp học, sinh hoạt nội qui của trường, của lớp; tôi cho các em chép chính tả bài “ Quyết định độc đáo “ (Bài tập luyện từ và câu tuần 17 trang 171):
Quyết định độc đáo
 	Cách đây không lâu, lãnh đạo Hội đồng thành phố Nót- tinh- ghêm ở nước Anh đã quyết định phạt tiền các công chức nói hoặc viết tiếng Anh không đúng chuẩn. Theo quyết định này, mỗi lần mắc lỗi, công chức bị phạt 1 bảng. Ông Chủ tịch Hội đồng thành phố tuyên bố sẽ không kí bất cứ văn bản nào có lỗi ngữ pháp và chính tả. Đây là một biện pháp mạnh nhằm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Anh.
 Theo báo Công an nhân dân
 	Sau khi học sinh viết xong, tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung đoạn văn bằng các câu hỏi sau đây: 
 	+ Vì sao những công chức nước Anh lại bị phạt tiền?
 	+ Mỗi lần mắc lỗi, công chức bị phạt bao nhiêu ?
 	+ Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Anh, Ông Chủ tịch hội đồng thành phố đã dùng biện pháp gì?
 	+ Vì sao viết sai lỗi chính tả lại bị phạt như vậy?
 	+ Muốn viết đúng chính tả thì các em phải làm sao?
 	Từ việc tìm hiểu bài văn này, tôi làm cho các em hiểu rằng ở đất nước nào cũng vậy, việc viết sai lỗi chính tả sẽ làm cho người đọc, người nghe không hiểu đúng những gì mình đã viết, thậm chí còn làm cho người đọc cảm giác khó chịu và xem thường người viết. Có viết đúng chính tả thì mới học tốt môn Tiếng việt và mới học tốt các môn học khác. Nếu như các em viết sai lỗi chính tả nhiều thì sẽ bị điểm kém môn Tiếng Việt. Và cuối năm sẽ bị thi lại, thậm chí sẽ phải ở lại lớp.Việc rèn luyện kĩ năng viết chính tả không phải là một việc làm dễ dàng nhưng chỉ cần các em chú ý khi đọc, khi viết, có ý thức viết đúng chính tả và làm theo hướng dẫn của cô thì nhất định các em sẽ thành công. 
 	Sau đó, tôi cho các em xem một số cuốn tập chính tả tiêu biểu (chữ viết đẹp,
 trình bày sạch sẽ, ít sai lỗi chính tả) của học sinh năm trước để tác động vào ý 
thức của học sinh.
 	* Rèn kĩ năng đọc đi đôi với luyện viết chính tả
 	Như chúng ta đã biết: đọc thông thì mới viết thạo. Học sinh đọc còn chậm và sai nhiều thì không thể viết đúng chính tả.Vì đọc chưa thông nên khi viết chính tả các em thường mắc các lỗi do không nắm vững chính tự và cấu trúc âm tiết Tiếng Việt. Vì vậy, đối với những học sinh này, trước hết tôi phải chú trọng khâu luyện đọc cho các em.
 	Hàng ngày trên lớp, tôi chú ý rèn đọc cho các em bằng cách: 
 	- Gọi các em đọc bài nhiều lần không chỉ ở phân môn tập đọc mà cả ở các môn học khác, kiên trì sửa lỗi cho từng em.
 	- Tổ chức cho các em đọc bài nhóm đôi trong 15 phút đầu giờ (2 lần/tuần).
 	- Phân công học sinh giỏi đọc bài cùng các em khi luyện đọc trong nhóm.
 	 - Giao bài cho các em luyện đọc và viết bài ở nhà; ngày sau, tôi kiểm tra và nhận xét. 
 	- Khuyến khích các em học thuộc lòng một đoạn văn hay một vài khổ thơ, rồi nhớ - viết đoạn văn hay khổ thơ đã thuộc.
 	* Dạy chính tả theo khu vực
 	Như tôi đã trình bày ở phần đầu, cách phát âm theo phương ngữ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc viết đúng chính tả của học sinh Tiểu học. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc học sinh viết sai lỗi chính tả nhiều. Nhưng chúng ta không thể bắt buộc, không thể luyện cho các em đọc đúng chính âm được. Chúng ta chỉ có thể khắc phục lỗi chính tả cho học sinh ở mỗi vùng miền khác nhau bằng cách Dạy chính tả theo khu vực. Nghĩa là, chúng ta phải xác định đươc” trọng điểm chính tả” cần dạy cho học sinh, nội dung về giảng dạy chính tả phải sát hợp với tình hình thức tế mắc lỗi chính tả của học sinh ở địa phương đó. Hiện nay, SGK Tiếng Việt đã có những bài tập chính tả cho giáo viên lựa chọn hoặc giáo viên có thể tự soạn nội dung bài tập sao cho phù hợp với học sinh thuộc vùng miền mình đang dạy. Đó là điều kiện thuận lợi cho giáo viên, nhưng cũng là những khó khăn đòi hỏi sự sáng tạo, sự đầu tư nhiều cho bài dạy ở mỗi giáo viên.
 	Để dạy chính tả theo khu vực, tôi tiến hành như sau:
- Điều tra, phát hiện và tổng hợp những lỗi chính tả cơ bản của học sinh 
 	- Lỗi mà đa số học sinh lớp tôi mắc phải chủ yếu là lỗi do ảnh hưởng của cách phát âm theo phương ngữ. Cụ thể:
 	- Lẫn lộn các phụ âm đầu (v/d/gi; r/g; x/s; tr/ch; ng/ngh).
- Lẫn lộn 2 âm chính (o/ô; ă/â).
- Lẫn lộn các vần (iu/iêu; in/ inh; ui/ uôi; un/uôn; êu/iêu; in/iên; it/ich).
- Lẫn lộn các âm cuối ( n/ng; t/c; i/y; o/u).
- Lẫn lộn thanh hỏi, thanh ngã.
 	- Căn cứ vào kết quả điều tra, tôi tiến hành lập bảng tổng hợp sau đây và phát đến từng học sinh.
BẢNG TỔNG HỢP MỘT SỐ LỖI CHÍNH TẢ THƯỜNG MẮC PHẢI
Các lỗi chính tả
Ví dụ
Viết đúng
Viết sai
 1.Lẫn lộn âm đầu
v/d/gi
r/g; 
x/s;
- tr/ch
- c/k
- vẻ vang, gia đình
- gọn gàng, cá rô
- hoa sen, màu xanh
- cây tre, trân trọng
- con kiến, kêu gọi,
- dẻ dang, da đình
- rọn ràng, cá gô
- hoa xen, màu sanh
- cây che, chân chọng
- con ciến, cêu gọi
 2. Lẫn lộn 2 âm chính
 - o/ô
 - ă / â
- sóng biển, cuộc sống
- đắp bờ, cái cặp, 
- sống biển, cuộc sóng
- đấp bờ, cái cập
 3 Lẫn lộn các vần:
 - iu/ iêu
 - in/ inh
 - in/ iên
 - ui/ uôi
 - êu/ iêu
- dịu dàng, kì diệu
- niềm tin, trắng tinh
- quả chín, đàn kiến 
- mặt mũi, cuối cùng
- đều đặn, kêu gọi,
- diệu dàng, kì dịu
- niềm tinh, trắng tin
- quả chính, đàn kín
 - mặt muỗi, cúi cùng
 - điều đặn, kiêu gọi
 4. Lẫn lộn các âm cuối:
 - n/ng
 - t/c 
 - y/ i
 - u/o
- buôn làng, mong muốn
 - đôi mắt, ăn mặc
 - may vá, ngày đêm
 - màu xanh, trước sau
-buông làng, mong muống
 - đôi mắc, ăn mặt
 - mai vá, ngài đêm
 - mào xanh, trước sao
 5. Lẫn lộn thanh hỏi, thanh ngã
 - vĩ đại/ vỉ thuốc, mãnh liệt/ mảnh vải, nỗi buồn/ nổi trôi, cái mũi/ mủi lòng, 
 - vỉ đại, vĩ thuốc, mảnh liệt, mãnh vải,nổi buồn, nỗi trôi, cái mủi, mũi lòng,
Mặt sau của bảng tổng hợp này, tôi lập bảng theo dõi việc sửa lỗi của học sinh trong nửa học kì I (một năm 4 lần).	
	BẢNG THEO DÕI VIỆC SỬA LỖI
Số TT
Tên bài chính tả
Tổng số lỗi
Các lỗi cụ thể
Sửa lỗi
1
Việt Nam thân yêu
..
 2
Lương Ngọc Quyến
.
 3
Thư gửi các học sinh
.
4
Anh bộ đội Cụ Hồ gốc Bỉ
.
5
Một chuyên gia máy xúc
.
6
Ê- mi- li, con
7
Dòng kinh quê hương
.
8
Kì diệu rừng xanh
.
9
Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà
.
 	Sau khi trả bài chính tả, tôi hướng dẫn các em cách ghi các lỗi và sửa lại cho đúng (ghi từ chứa tiếng sai để hiểu nghĩa rồi viết lại đúng chính tả), sửa trong vở chính tả, sau đó ghi vào bảng tổng hợp. Mấy tuần đầu, những em viết sai nhiều, tôi nhắc nhở và khuyến khích các em về nhà chép lại bài cho đẹp và đúng chính tả. Hết nửa kì, tôi thu bảng tổng hợp và vở chính tả của học sinh để kiểm tra - đánh giá, chọn ra 5 học sinh tiến bộ nhất để khen thưởng. Nhờ có bảng tổng hợp này, các em có ý thức hơn trong việc rèn luyện chữ viết, thi đua viết đúng chính tả.
 	- Kết hợp ghi nhớ hình thức chữ viết của từ và nghĩa của từ
 	Việc nắm nghĩa từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là một trong những cơ sở giúp học sinh viết đúng chính tả. Đó là đặc trưng quan trọng về phương diện ngôn ngữ của chính tả Tiếng Việt, nó sẽ giúp học sinh giải quyết được những lỗi chính tả do ảnh hưởng cách phát âm theo phương ngữ. Vì vậy có thể nói rằng chính tả Tiếng Việt còn gọi là chính tả ngữ nghĩa.
 	Học sinh lớp tôi viết sai chính tả, một phần lớn là do các em không nắm được nghĩa của từ. Vì thế, khi dạy chính tả hoặc dạy các phân môn học khác của môn Tiếng Việt, tôi luôn chú ý giúp các em:
 - Hiểu nghĩa của từ, phân biệt từ này với từ khác để các em ghi nhớ cách viết của mỗi từ. 
 Ví dụ: Nếu tôi đọc một từ có hình thức ngữ âm là “ dành “ thì học sinh sẽ lúng túng trong việc xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu tôi đặt nó vào một ngữ cảnh hay gắn cho nó một nghĩa xác định như : Em để dành tiền mua sách truyện Thiếu nhi./ Trong trận đấu bóng đá ngày mai, các em phải giành lấy chiến thắng./ Các em đọc rõ ràng, rành mạch để cả lớp cùng nghe. Như vậy học sinh sẽ dễ dàng viết đúng chính tả.
 - Khi đọc chính tả cho học sinh viết, tôi đọc từng cụm từ ( diễn đạt một ý nhỏ); tôi luôn nhắc nhở các em chú ý lắng nghe , hiểu nghĩa từ để viết đúng chính tả
 - Khi học sinh sửa lỗi trong bài chính tả, tôi yêu cầu các em ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại cho đúng; không nên chỉ ghi một tiếng sai rồi sửa lại, sửa như vậy các em sẽ không ghi nhớ các từ đã viết sai.
 - Trong các tiết Tập đọc, tôi tập cho các em tìm cách ngắt giọng ở những câu dài, ngắt nghỉ đúng các dấu câu, giải nghĩa các từ khó.
 - Khi học sinh làm bài tập chính tả, tôi chọn các bài theo phương ngữ Nam Bộ, tập trung vào các “ trọng điểm chính tả” để khắc phục các lỗi chính tả do cách phát âm của địa phương. Ngoài việc hướng dẫn các học sinh làm các bài tập trong SGK, tôi còn thay đổi hình thức và nội dung bài tập bằng cách vận dụng nguyên tắc phối hợp giữa phương pháp tích cực với phương pháp tiêu cực. Nghĩa là tôi hướng dẫn học sinh làm các bài tập chính tả theo hướng loại bỏ cái sai, xác định cái đúng. Theo cách này, tôi đã điều chỉnh và thay đổi nội dung và hình thức một số bài tập trong SGK nhưng vẫn bám sát yêu cầu cần đạt của bài học.
 	Ví dụ: Bài tập chính tả tuần 16 ( SGK trang 115 ) yêu cầu tìm các từ ngữ chứa các tiếng vàng- dàng; vào-dào, vỗ- dỗ. Thay vì cho các em tìm từ chứa các tiếng đã cho, tôi cho sẵn các từ và yêu cầu các em tìm các từ viết sai chính tả, rồi sửa lại cho đúng.
 	Chẳng hạn: Tìm các từ viết sai chính tả trong bảng dưới đây
 vàng - dàng
 vào - dào
vỗ - dỗ
- màu vàng
- dàng bạc
- dội dàng
- dễ dàng
- dềnh dàng
- ra dào
- vào học
- dồi dào
- dạt dào
- dào lớp 
- dỗ tay
- vỗ về
- sóng dỗ
- dỗ dành
- dạy dỗ
Đối với những bài tập dạng này, tôi thường tổ chức cho các em thi đua ‘ Tìm đúng, tìm nhanh “ trong nhóm. Trong cùng một thời gian, nhóm nào tìm được nhiều và đúng là thắng cuộc.
 	- Ôn tập giúp học sinh nắm vững các qui tắc chính tả, cung cấp cho học sinh một số mẹo luật chính tả đơn giản, dễ nhớ
 	Ở những lớp dưới, các em đã được cung cấp một số qui tắc chính tả. Lên lớp 5, các em vẫn thường xuyên được ôn lại. Nhưng không phải em nào cũng nhớ và vận dụng để viết đúng chính tả. Việc ghi nhớ và vận đúng các qui tắc chính tả không phải là điều dễ dàng. Nếu cứ nói, cứ giảng mãi thì rồi các em cũng vẫn cứ quên. Để giúp các em nắm vững các qui tắc chính tả đã học một cách khái quát có hệ thống, tôi đã chọn lọc, tổng hợp các qui tắc và một số “mẹo” chính tả ở mức độ đơn giản để các em dễ nhớ, dễ thuộc, thậm chí khi nào quên các em có thể giở ra xem để viết đúng chính tả. Qui tắc và mẹo luật chính tả này chỉ nằm trong 3 mặt của một tờ giấy A4 nên học sinh rất dễ học, dễ nhớ và nhanh thuộc.
MỘT SỐ QUI TẮC CHÍNH TẢ
Số TT
Các qui tắc chính tả
Cách viết
Ví dụ
 1
 Qui tắc ghi phụ âm đầu
a) Qui tắc viết k/ c/ q
b) Qui tắc viết g / gh và ng / ngh
-Trước i, e, ê, được viết là k, Trước âm đệm u được viết là q.
- Trước i, e, ê được viết là gh hay ngh. Viết là g hay ng trong các trường hợp còn lại.
-kể chuyện, kiên cường, 
- quyển sách, quyên góp
- ghi nhớ, ghe xuồng, nghiên cứu, suy nghĩ
 2
 Qui tắc ghi âm i , y
- Viết i sau phụ âm đầu
- Viết y sau âm đệm
- Khi nguyên âm này đứng một mình thì viết là i đối với từ thuần Việt ; viết là y đối với từ gốc Hán. 
- niềm tin, tiên tiến 
- truyện, chuyển, tuyết
- âm ỉ, ầm ì, ì ạch, lợn ỉ, ỉ ôi, í ới,
 y tá, y hệt, y phục, y tế, lương y, y dược,
 3
 Qui tắc ghi dấu thanh các tiếng có nguyên âm đôi
- Có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái thứ hai của nguyên âm đôi.
- Không có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái đầu của nguyên âm đôi.
- mượn , trườn, cuồn cuộn, chuối, muỗi 
- múa, mía, lửa, cứa, đĩa, chĩa, 
 4
 Qui tắc viết tên riêng Việt Nam
 a) Tên người và tên địa danh Việt nam
 b) Tên các cơ quan , tổ chức, danh hiệu,
-Viết hoa tất cả các chữ cái đầu của mỗi tiếng tạo thành tên riêng đó.
- Viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên riêng đó.
- Võ Thị Sáu, Trần Quốc Toản, Nông Văn Dền,
- Trường Tiểu học Tân Quý, Nhà Xuất bản Giáo dục,..
 5
 Qui tắc viết tên riêng nước ngoài:
 a) Trường hợp phiên âm qua âm Hán Việt.
 b) Trường hợp không phiên âm qua âm Hán Việt.
- Viết hoa theo qui tắc viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam.
- Viết hoa chữ cái đầu mỗi bộ phận tạo thành tên riêng và có gạch nối giữa các tiếng.
- Mao Trạch Đông, Thái Lan, Hàn Quốc, 
- Lu-i Pa- xtơ, Pi- e Đơ -gây- tê,
MỘT SỐ MẸO CHÍNH TẢ DỄ NHỚ
 	Mẹo tương ứng thanh điệu trong từ láy:
 	- Trong các từ láy đôi, các dấu thanh bao giờ cũng cùng một nhóm huyền - ngã - nặng hoặc không - sắc - hỏi. Học sinh dễ dàng nhớ mẹo này qua câu lục bát sau: 
 Chị Huyền mang nặng, ngã đau
 Hỏi không sắc thuốc lấy đâu mà lành.	
 	Mẹo “ Mình nên nhớ viết là dấu ngã” :
- Với m (mình) : mẫn cảm, mãnh liệt, mạnh mẽ, mĩ thuật, mĩ mãn, mĩ lệ, con muỗi,
 	- Với n (nên) : nỗ lực, phụ nữ, noãn bào, nỗi niềm,
- Với nh (nhớ) : nhẫn nại, nhiễm bệnh, truyền nhiễm, tham nhũng, thổ nhưỡng,..
- Với v (viết) : vĩ đại, vĩ nhân, vĩ tuyến, viễn thị, viễn cảnh, vỗ tay, cổ vũ, vũ trụ,
	- Với d (dấu) : dưỡng sinh, nuôi dưỡng, dũng cảm, dã thú, dã man, diễm phúc,
	- Với ng (ngã) : té ngã, ngỡ ngàng, ngưỡng mộ, ngôn ngữ, ngữ nghĩa, đội ngũ,
 Mẹo nhóm nghĩa tr- ch:
	- Mẹo trường từ vựng: Những từ chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: cha, chú, chị, cháu, chắt, chồng,; Những từ chỉ đồ vật trong gia đình thì viết là ch chứ không viết là tr: chai, chum, chạn, chén, chổi, chão, chõng, chiếu,..( ngoại trừ cái tráp, đồ vật này giờ ít dùng).
- Mẹo kết hợp âm đệm: Tr không bao giờ đi với các vần -oa, -oă, -oe, -uê. Chỉ có Ch là có khả năng đi với các vần này.VD: choáng váng, loắt choắt, chạch chọe, chuệch choạng, .
- Mẹo láy âm: Ch láy âm với các phụ âm đững trước hoặc đứng sau, Tr không láy âm với các phụ âm khác, trừ 4 ngoại lệ, đều láy với L: Trọc lóc, trụi lủi, trót lọt, trẹt lét. VD: chơi bời, cheo leo, chàng ràng, chờn vờn, chềnh ềnh, .
- Mẹo thanh đệm trong từ Hán-Việt: Những từ Hán-Việt mang dấu nặng và dấu huyền đều chỉ đi với Tr chứ không đi với Ch. VD: trịnh trọng, trạm xá, trục lợi, từ trường, lập trường, trừng trị, .
- Mẹo đồng nghĩa “tranh-giành”: Trong tiếng Việt có nhiều cặp từ đồng nghĩa mà một được viết với Tr, một được viết với Gi, VD: tranh-giành, trai-giai, trở mặt-giở mặt, trồng-giồng, nhà tranh-nhà gianh, .
 Mẹo nhóm nghĩa s- x:
- Tên thức ăn và đồ dùng nấu ăn viết là x: xôi, xa lát, xúc xích, xì dầu, xoong,...
- Các động từ, tính từ thường viết là x: xem, xách, xẻ, xay, xát, xào, xoa, xúc, xanh,
- Hầu hết các danh từ còn lại đều viết là s:
+ Chỉ người: sứ giả, đại sứ, sư sãi, giáo sư, gia sư,
+ Chỉ cây cối: sen, sung, sấu, sắn, si, sim, ...
+ Chỉ đồ vật: sọt, sợi dây, sợi vải,
+ Chỉ sự vật, hiện tượng: sao, sương, sông, suối, sấm, sét,
	Có một số trường hợp ngoại lệ là danh từ nhưng lại viết là x: xe, xuồng, xoan, xoài, túi xách, xương, xô, xẻng, xưởng, xã, trạm xá, bà xơ, mùa xuân. Học sinh có thể ghi nhớ các trường hợp ngoại lệ trên bằng cách học thuộc câu văn sau:
Mùa xuân, bà xơ đi xuồng gỗ xoan, mang một xe xoài đến xã, đổi xẻng và xô ở xưởng đem về cho trạm xá chữa xương.
- Mẹo kết hợp âm đệm: S không kết hợp với a vần oa, oă, oe, uê (ngoa ngoăt kheo quê), do vậy chỉ có thể viết X với 4 vần này. VD xoa tay, xoắn lại, xèo tay, xuề xòa, . Ngoại lệ: soát trong rà soát, kiểm soát, soạn trong soạn bài, tòa soạn , soán trong soán đoạt và những trường hợp do điệp điệp âm đầu trong từ láy: suýt soát, sột soạt, sờ soạng.
- Mẹo láy âm: Chỉ có X mới láy âm với các phụ âm đầu khác, còn S hầu không có khả năng này. VD: bờm xờm, xô bồ, búa xua, lòa xòa, xấc lấc, xích míc, xo ro, Ngoài lệ: cục súc, sáng láng, loạt soạt. 
Mẹo viết d, r, gi:
- Mẹo đồng nghĩa: Ở một số trường hợp, R đồng nghĩa với L và S do quan hệ về nguồn gốc. Đây là cơ sở để viết đúng R trong những trường hợp như vậy.
+ R đồng nghĩa cùng gốc với L: lấp-rấp; lóc-róc; lỗ-rỗ; ngày mười lăm-ngày rằm; ;  
+ R đồng nghĩa cùng gốc với S: siết-riết; sắp-rắp; sáng-rạng; sẻo-rẻo;  
+ Tương ứng R/D: ríu mắt - díu mắt; rờn rợn - dờn dợn; rõi theo - dõi theo; 
+ Tương ứng R/GI: rập khuôn - giập khuôn; chế riễu - chế giễu; ràn rụa - giàn giụa; .
- Mẹo về âm đệm: R và GI không kết hợp với âm đệm tức là không đứng trước các bắt đầu bằng oa, oă, uâ, oe, uê, uy. VD: dọa nạt, hậu duệ, duy trì, vô duyên, . Ngoại lệ: roa trong cu-roa - một từ phiên âm tiếng Pháp. 
- Mẹo láy âm “co ro - bịn rịn”: chỉ có R láy âm với B và C (K), còn D và GI thì không. VD: bịn rịn, bứt rứt, bã rã, bêu rêu, cập rập, cọm rọm, cà rà, kèo rèo, .
- Mẹo “run rấy - rừng rực” : những từ láy điệp âm đầu với R có đặc điểm ngữ nghĩa khác hẳn với những từ láy điệp âm đầu với Gi hay D.
+ Những từ láy điệp âm đầu R mô phỏng tiếng động, gợi tả âm thanh: rào rào, răng rác, róc rách, réo rắt, reng rẻng, rì rầm, .
+ Những từ láy điệp âm đầu R chỉ sự rung động ở nhiều cung bậc khác nhau: run rẩy, rung rinh, rón rén, rập rình, .
+ Những từ láy điệp âm đầu R chỉ những sắc thái ánh sáng động, tươi, chói: rần rật, rực rỡ, rừng rực, roi rói, rạng rỡ, . 
- Trong những từ láy đôi, nếu tiếng đầu có phụ âm l thì tiếng thứ hai có phụ âm là d, chứ không thể là r hay gi: lò dò, lai dai, lắc dắc, 
- Đối với các trường hợp khác, muốn xác định cách viết đúng phải dựa vào sự đối lập về nghĩa: 
 	+ gia (tăng thêm): gia hạn, gia vị, gia tăng, tăng gia, tham gia,
+ gia ( nhà): gia đình, gia tài, gia sản, gia sư, gia trưởng, quản gia, gia phong,..
+ da (lớp vỏ bên ngoài): da thịt, da dẻ, da trời, da mặt, 
+ ra (sự di chuyển): ra vào, ra ngoài, ra sân, ra chơi,
Nhờ có bảng tổng hợp các qui tắc và mẹo luật chính tả này mà học sinh lớp tôi trở nên sôi nổi học tập, em nào cũng thuộc những câu thơ về mẹo luật chính tả, lỗi chính tả đã giảm đi đáng kể. Nhưng chỉ nắm các qui tắc và các“ mẹo” chính tả thì vẫn chưa khắc phục được triệt để các lỗi chính tả. Vì vậy, khi dạy chính tả , tôi phải phối hợp vận dụng cả qui tắc “ Kết hợp chính tả có ý thức với chính tả không ý thức”. Phương pháp có ý thức vẫn được coi là chủ yếu như ghi nhớ các qui tắc, các mẹo chính tả,Nhưng trong một số trường hợp ghi nhớ các hiện tượng chính tả có tính chất võ đoán, không gắn với một qui luật, qui tắc nào thì tôi dạy các em cách “nhớ từng từ một” (cách không óc ý thức), đây cũng là giải pháp hữu hiệu, hợp lí. Bởi vì, phần lớn những người viết đúng chính tả hiện nay đều dựa vào cách nhớ từng từ một. Theo cách này, tôi hướng dẫn học sinh chỉ cần tập trung nhớ mặt chữ của những từ dễ viết sai. Những từ dễ viết sai này chiếm tỉ lệ không nhiều, do đó học sinh có thể ghi nhớ được. 
Chẳng hạn như: rượu, hươu, khướu, ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, xoong, quần xoóc, xe goòng, hoặc từ những chỉ viết thanh ngã chứ không viết thanh hỏi, từ để chỉ viết thanh hỏi chứ không viết thanh ngã, từ kể chỉ viết thanh hỏi chứ không viết thanh ngã,  
* Hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi
Song song với việc ôn tập gúp học sinh nắm vững các qui tắc và mẹo chính tả, việc hướng dẫn học sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi trong bài viết cũng rất quan trọng. Đây là một thói quen mà giáo viên cần phải rèn cho học sinh, không chỉ ở chính tả mà ở tất cả các môn học khác. 
Đối với bài chính tả Đoạn bài, sau khi học sinh viết xong, tôi tổ chức cho học sinh đổi vở và soát lỗi lẫn nhau. Tôi qui định lỗi cụ thể, yêu cầu các em soát lỗi bài viết của bạn, dùng bút chì gạch dưới chữ viết sai, tổng hợp số lỗi rồi trả về cho bạn tự sửa (ghi từ chứa tiếng sai rồi sửa lại đúng chính tả).
Đối với những em viết sai nhiều, tôi phân công 1 học sinh giỏi đổi vở và soát lỗi với học sinh đó. Sau khi các em soát lỗi xong, tôi mới thu vở để chấm điểm. Trong giờ chính tả, tôi chỉ chấm nhanh khoảng 1/3 lớp. Nhưng giờ ra chơi, tôi cố gắng chấm hết, chấm thật kĩ và ghi nhận xét cụ thể, khen những em có tiến bộ. Khi trả vở cho học sinh, tôi khen ngợi những em đã soát lỗi bài viết của bạn chính xác, tuyên dương những em có tiến bộ, động viên những em còn viết sai nhiều về nhà sửa lỗi trong vở và trong bảng tổng hợp. 
Đối với các bài tập, tôi thường tổ chức cho các

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_viet_dung_chinh_ta_cho_hoc.doc