Biện pháp thứ năm: Tổ chức thi viết chữ đẹp:
-Cứ mỗi tháng tôi tổ chức viết chữ đẹp ở lớp 1 lần và kết hợp kiểm tra vở viết của các em nhằm uốn nắn, động viên khuyến khích các em . Đây là cơ hội các em học hỏi trao đổi kinh nghiệm, khám phá những bài viết đẹp. Bài viết đẹp ấy được công khai kết quả và gắn ở góc học tập và là một trong những tiêu chí thi đua trong tháng. Học sinh đạt kết quả cao trong các cuộc thi tôi đã khuyến khích các em bằng những món quà nhỏ “ Một số đồ dùng học tập”.
-Với hình thức đó, phong trào giữ vở sạch, viết chữ đẹp đã dấy lên và mang lại hiệu quả cao trong phong trào thi viết chữ đẹp của lớp.
* Biện pháp thứ sáu: Vai trò của giáo viên
- Người ta thường bảo “Nét chữ nết người, cô (thầy) nào trò nấy”. Không có đồ dùng trực quan nào thay thế được và có hiệu quả hơn chữ viết của giáo viên. Nên khi viết bất cứ ở đâu: viết vở, chấm bài, lời nhận xét hay bảng lớp tôi luôn tuân thủ nguyên tắc “phải cẩn thận - phải đẹp”. Giáo viên rèn chữ viết đẹp không chỉ là tấm gương sáng cho học sinh noi theo mà còn tạo niềm tin cho phụ huynh và đồng nghiệp của mình.
- Rèn viết chữ cho học sinh nhỏ tuổi là một việc làm không đơn giản. Bởi tri giác của các em thiên về nhận biết tổng quát, tính hiếu động, thiếu kiên trì mà viết được chữ thì người viết phải cụ thể, chi tiết, tỉ mỉ và đòi hỏi sự khéo léo cẩn thận nên tôi luôn rèn mình tính kiên trì, chu đáo và đưa cái tâm vào trong từng con chữ. Mặc dầu mẫu chữ viết đã có sẵn nhưng tôi luôn học hỏi đồng nghiệp, nghiên cứu, khám phá những bài viết đã từng đạt giải.
hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy và bạn đọc bài vở của mình”.Đó là lý do tôi chọn đề tài “Rèn chữ đẹp cho học sinh lớp 2A4”.Trường Tiểu học Lê Quý Đôn. I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ: Rèn kĩ năng viết đúng mẫu, đúng chính tả, biết nối các chữ hoa và chữ thường, đều nét, có khoảng cách hợp lí giữa các chữ ghi tiếng, đẹp, phát huy tính sáng tạo, đạt tốc độ viết từ 4 đến 5 chữ/ 1phút. Rèn luyện và phát triển một số thao tác khi viết (biết nhận xét, so sánh, ghi nhớ), tính cẩn thận, chính xác, có óc thẩm mĩ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm I.3. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài này tập trung nghiên cứu, áp dụng những biện pháp có hiệu quả nhất để luyện chữ viết cho học sinh lớp 2, từ đó nhằm tạo cơ sở ban đầu để học sinh rèn luyện tốt hơn khi học lên các lớp trên. Cụ thể là học sinh lớp 2A4Trường Tiểu học Lê Quý Đôn năm học 2019 - 2020. I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. + Thời gian: Từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 2 năm 2020( Năm học 2019 – 2020) + Nội dung:Một số biện pháp: “Rèn chữ đẹp cho học sinh lớp 2A4”Trường Tiểu học Lê Quý Đôn. + Con người: Học sinh lớp 2A4, trường Tiểu học Lê Quý Đôn – phường Bình Tân – thị xã Buôn Hồ - tỉnh Đắk Lắk. I.5. Phương pháp nghiên cứu: -Trong quá trình làm đề tài tôi đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu sau: - Điều tra về chữ viết của học sinh, thu thập chứng cứ, phân loại đối tượng học sinh. -Tìm hiểu để phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả học tập của học sinh. - Đối chứng, so sánh kết quả hàng tháng, đầu kì, cuối kì và kết quả đã sử dụng giải pháp ở những năm học trước. - Tìm hiểu về chữ viết và thể trạng học sinh để giúp các em lựa chọn loại bút thích hợp. - Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, nắm đặc điểm tâm sinh lí để động viên khuyến khích các em kịp thời. II - PHẦN NỘI DUNG II.1. Cơ sở lý luận - Căn cứ vào nhiệm vụ năm học. - Căn cứ vào yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Việt ở lớp 2 nói riêng, bậc Tiểu học nói chung. - Căn cứ theo Quyết định số 31/2002/QĐ-BGD & ĐT ngày 14/6/2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Dựa trên đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, sự phát triển thể lực, tố chất của các em thì việc rèn chữ viết cho học sinh lớp 2 là việc làm tất yếu, cần thiết và thực hiện được vì: Mặc dầu chữ các em viết chưa đẹp, chưa đúng mẫu, sai chính tả, ngồi viết chưa đúng tư thế... nhưng những cái sai, cái chưa đúng đó chưa đi vào chiều sâu của sự nhận thức của các em, các giác quan trên cơ thể của các em “đang thì” phát triển nên có thể uốn nắn sửa sai dần dần, không nóng vội. Để đạt được mục tiêu “Rèn chữ viết” giáo viên cần có giải pháp và biết phối kết hợp: Phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận trên cơ thể (tai, mắt, tay,...), biết phối hợp các lực lượng giáo dục (phụ huynh, đồng nghiệp,...), phối kết hợp với các môn học khác, sử dụng các phương pháp dạy học phù hợp với môn học với đối tượng học sinh (phương pháp thảo luận, đàm thoại, gợi mở, trực quan,...) thì tất yếu sẽ thành công. Những cơ sở trên, tôi đã áp dụng: Một số biện pháp “Rèn chữ đẹp cho học sinh lớp 2 A4” Trường Tiểu học Lê Quý Đôn II.2 - Thực trạng của vấn đề Qua việc giảng dạy lớp 2 nhiều năm, tôi đều nhận thấy: học sinh lớp 2 đa số biết vâng lời, ham thích học tập. Tuy nhiên, các em thường thiếu tính kiên trì, tính cẩn thận và tính chính xác trong việc rèn luyện chữ viết. Sau năm học lớp 1chất lượng chữ viết của các em vẫn còn hạn chế nhiều mặt,vấn đề này nếu không được sự quan tâm đúng mức sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập ở các lớp trên. Cụ thể qua kết quả khảo sát tại lớp 2A4, với tổng số 24 học sinh như sau: Nội dung khảo sát Kết quả khảo sát Đạt Chưa đạt SL TL% SL TL% Nề nếp viết chữ 13 54 11 46 Viết đúng kích thước, hình dáng 7 29 17 71 Đặt dấu thanh, dấu câu đúng vị trí 9 37,5 15 62.5 Viết liền mạch, đúng khoảng cách, đều nét 7 29 17 71 Viết đúng chính tả 5 21 19 79 + Nề nếp viết chữ chưa đạt là do: - Nhiều gia đình chưa có góc học tập cho các em, một số em ngồi học ở bàn quá cao (nơi cả gia đình thường xuyên sinh hoạt), ngồi ở giường ngủ để học, một số gia đình có quan tâm nhắc nhở nhưng chưa thường xuyên và triệt để nên nhiều em ngồi chưa ngay ngắn, đặt vở tùy tiện, cúi đầu nghiêng sát vở, khoảng cách gần sát vở, tóc che mắt khi cúi viết. . . -Ngoài ra nhiều gia đình còn gặp khó khăn về kinh tế, trình độ văn hóa thấp nên chưa quan tâm kịp thời về đồ dùng học tập: Nhiều em thiếu bút viết, một số em dùng bút tùy tiện, chưa có khăn kê tay, giấy lau mực, thước kẻ, chì. . . - Nhiều em chưa có nề nếp viết chữ trên lớp học là do tính hiếu động, hay quay cóp trong giờ học, chưa ý thức được tác hại của các thói quen không tốt. Một vài em nói ngọng hoặc phát âm theo giọng địa phương dẫn đến nói sao viết vậy. Mặt khác các em cũng chưa chú ý đến nghĩa của từ đang viết, đặc biệt là các vần khó, âm khó vì thế tỉ lệ viết sai càng nhiều hơn. + Viết chưa đúng hình dáng, kích thước các chữ cái là do: * Mặc dầu hình dáng kích thước các chữ cái viết thường, viết hoa, chữ số, dấu thanhcác em đã được học nhưng các em không được rèn dũa thường xuyên, sự quản lí lỏng lẻo của gia đình và thầy cô nên các em đã lãng quên dần theo thời gian. + Đặt dấu thanh, dấu câu sai vị trí là do: * Nhóm học sinh thường đặt trên đầu ở giữa chữ, khoảng cách hơi cao (thanh sắc, huyền, hỏi, ngã) hơi xa (thanh nặng) thường do tính hiếu động, viết ẩu. * Nhóm học sinh thường đặt dấu câu quá gần: Các dấu thanh chạm vào chữ cái là do các em chưa nắm vững vị trí đặt nó. * Nhóm học sinh viết dấu câu chưa đúng hình dạng, vị trí chưa chuẩn là do các em viết ẩu, một số em hạn chế về năng lực + Viết chưa liền mạch, khoảng cách chưa hợp lý, chưa đều nét là do: - Các em chưa nắm vững kỹ thuật rê bút, lia bút, nối nét,điểm đặt bút để tạo độ “doãng” hợp lý. - Các em chưa cẩn thận, chưa ước lượng được khoảng cách giữa các con chữ trong từng chữ ghi tiếng, chữ ghi tiếng này với chữ ghi tiếng kia. - Đưa bút chưa đều, nhấc bút tùy tiện nên dẫn tới có nhiều nét nghiêng, nét thẳng trong một bài viết. + Viết sai chính tả là do: - Đa số các em là học sinh người Quảng Bình nên khi phát âm các em còn ảnh hưởng giọng địa phương, vùng miền; một số em nói ngọng, phát âm không chuẩn do bẩm sinh, kĩ năng đọc trơn còn yếu. - Các em chưa nắm vững luật viết chính tả. Từ các thực trạng trên nên tôi đã nghiên cứu và đưa ra một số biện pháp nhằm cải thiện về chữ viết cho học sinh lớp mình. II.3. Giải pháp, biện pháp a. Mục tiêu: -Cải tiến chất lượng chữ viết, rèn luyện kĩ năng viết chữ: Có thói quen nền nếp viết chữ, viết đúng mẫu chữ, đúng chính tả, đều nét, có khoảng cách hợp lí, thành thạo, đẹp, biết sáng tạo chữ viết. b. Nội dung và cách thực hiện -Chữ viết không dành riêng cho bất cứ một môn học nào mà chữ viết là tổng hòa của tất cả các môn học. Tuy vậy do đặc trưng bộ môn, nội dung, thời gian, thời lượng nên tôi đã chọn 2 môn học Tập viết và Chính tả làm nòng cốt cho việc rèn chữ. Ngoài rèn chữ ở lớp tôi luôn khuyến kích các em rèn chữ viết ở nhà, tổ chức rèn chữ ngoại khoá. Dù là rèn trong giờ học chính khóa hay ngoại khóa thì tôi luôn hướng học sinh: Viết từ dễ đến khó, chậm đến nhanh; từ viết đúng, viết thành thạo đến viết đẹp, đến viết chữ nét thanh, nét đậm, sáng tạo chữ viết. Để sát sao từng đối tượng học sinh, qua theo dõi hằng ngày và kết quả khảo sát đầu năm tôi đã sử dụng các biện pháp “rèn chữ” cụ thể như sau: * Biện pháp thứ nhất: Rèn thói quen, nền nếp viết chữ. - Đầu giờ mỗi tiết học tôi luôn cho học sinh các nhóm tự kiểm tra, chuẩn bị đồ dùng phục vụ cho mỗi môn học để sẵn dưới hộc bàn. - Trước khi viết phải kiểm tra phấn, bút lau khô ( khuyến khích HS viết bút máy ,bơm ½ sức chứa), thử bút vào giấy nháp, khi dừng viết nhớ vặn nắp vào (chưa nên dùng bút bi). Khăn kê tay không để sát dòng chữ đang viết dễ gây nhòe mực. Dùng bút chì gạch chân lỗi chính tả, đọc lại chữ đã viết. . . -Tôi “rèn” cho các em thói quen thực hiện những động tác thể dục nhẹ nhàng trước khi viết hoặc sau khi bàn tay mỏi bằng cách: Hai bàn tay đan vào nhau, xoay tròn 4-5 lượt để khi viết dễ di chuyển bút. * Biện pháp thứ hai: Rèn viết đúng, viết thành thạo, viết đẹp. 1. Viết đúng kích thước, hình dáng - Để giúp học sinh tái hiện lại kích thước, hình dáng các chữ cái viết thường, chữ số, dấu thanh và đặc biệt là chữ cái viết hoa. Các em được củng cố lại kiến thức qua giờ học Tập viết: Nêu cấu tạo và cách viết chữ trước khi viết; điểm đặt bút, dừng bút ở vị trí nào trong dòng kẻ? Ví dụ: Khi viết chữ cái hoa A ở tuần 1 (Tập viết 2, tập 1A, trang 9). Qua gợi ý học sinh nắm được: Chữ A gồm 3 nét (nét 1 gần giống nét móc ngược nhưng hơi lượn ở phía trên và nghiêng về phải; nét 2 là nét móc ngược phải, nét 3 là nét lượn ngang). Kích thước cao 5 li (cỡ chữ vừa) 2,5 li (cỡ chữ nhỏ). Cách viết thể hiện các thao tác như hình bên dưới : : +Không chỉ là lý thuyết suông mà phải kết hợp chữ viết mẫu của giáo viên trên bảng lớp:Viết chậm, đúng theo quy tắc viết chữ và đẹp để đủ sức thuyết phục. +Viết kết hợp phân tích các chữ cái trong các từ,câu ứng dụng. Để giảm dần tính tự ti, rụt rè mọi hoạt động tôi luôn ưu tiên học sinh yếu, đối tượng hay mắc lỗi, phát huy năng khiếu chữ viết cho những học sinh viết đẹp để những học sinh khác noi theo. - Nhiều học sinh viết đúng kích thước mà tại sao chữ vẫn chưa đẹp bởi hình dáng các con chữ chưa đạt. Tôi hướng dẫn các em khi viết phải tuân thủ quy trình, kỹ thuật viết chữ, không nhấc bút tùy tiện để các con chữ có nét cong kín không tròn, nét hất có góc nhọn, trên nét chữ nổi vân. 2. Viết đúng vị trí dấu thanh, dấu câu. -Dấu thanh, dấu câu viết không đúng hình dạng, đặt tùy tiện làm giảm đi tính thẩm mĩ của bài viết. Bởi vậy trong quá trình viết bài cho các em nắm và thực hành viết như sau: * Kĩ thuật viết dấu thanh và vị trị đặt dấu - Các dấu thanh sắc (/), huyền (\), hỏi (?), ngã (~) viết trong phạm vi 1 ô vuông có cạnh là 0,5 đơn vị, dấu nặng (.) là một dấu chấm. - Vị trị đặt dấu: + Dấu thanh thường đặt ở âm chính của vần trong chữ ghi tiếng, đặt cân đối (hà, có...) + Dấu thanh đặt ở chữ thứ hai ghi tiếng có nguyên âm đôi(rượu, miến, luồn...),đặt ở con chữ thứ nhất nếu không có âm cuối của nguyên âm đôi( mía, múa). +Trường hợp dấu thanh xuất hiện trong các chữ ghi tiếng mà phần vần có dấu phụ(â, ă) thì viết hơi cao và hơi lệch phía phải của dấu mũ (tầng, tắm) * Dấu câu không đơn thuần đánh dấu về mặt ngữ pháp của câu mà là sự quy định chuẩn mực nói, viết và biểu hiện kỹ năng nắm vững ngôn ngữ. Khi viết các em phải thể hiện đúng hình dạng, vị trí đặt dấu (đặt cuối câu, sau chữ vừa viết có độ “doãng” bằng 1 3 đơn vị) + Kĩ thuật viết các dấu câu: dấu phẩy (,) viết phẩy nhẹ xuống bên trái khoảng 14 đơn vị; dấu chấm (.) viết đúng đường kẻ ngang dưới, cách viết giống như dấu nặng nhưng hơi đậm; dấu chấm phẩy (;) viết dấu chấm cao hơn đường kẻ ngang dưới sau đó viết dấu phẩy; dấu chấm hỏi (?) viết một nét cong phải ở trên và một chấm ở dưới; dấu chấm than (!) có vị trí cao gần giống dấu chấm hỏi gồm một nét thẳng đứng và dấu chấm ở trên đường kẻ ngang; dấu hai chấm (:) gồm hai dấu chấm thẳng hàng cùng nằm trên đường kẻ dọc, khoảng cách hai dấu chấm cao bằng 1 đơn vị; ngoài ra cách viết các dấu câu khác như dấu ngoặc đơn ( ), dấu gạch ngang – là một nét thẳng ngang, dấu ngoặc kép viết khoảng trên đường kẻ ngang giữa gồm bốn nét cong hở biến dạng. *Để sớm khắc phục nhanh lỗi về dấu thanh, dấu câu tôi luôn căn dặn các em: Nắm vững kỹ thuật viết và cẩn thận khi đặt bút viết. 3. Viết liền mạch, đều nét, đúng khoảng cách. * Rèn chữ viết cho các em không chỉ phải biết cấu tạo của từng chữ cái mà còn phải biết tạo ra chữ viết và sử dụng chữ viết. Khi viết chữ phải đảm bảo mối liên hệ giữa âm và chữ, tổ hợp các chữ cái để ghi âm tiết, các chữ cái phải viết nối với nhau tạo thành chữ ghi tiếng. Để làm được điều đó, tôi đã tiến hành khâu “ Lý thuyết đi đôi với thực hành”. Cho các em nắm vững kỹ thuật viết chữ: kỹ thuật nối nét, lia bút, rê bút gồm những nhóm chữ. - Liên kết hai đầu: Chữ cái đứng sau có nét nhọn đầu( u, y, i, t. . . ), nét tròn đầu (n, m). Ví dụ: Chữ “Anh, Kim. . . ” - Liên kết một đầu + Chữ cái đứng trước có liên kết, chữ cái đứng sau không có liên kết. Bởi vậy khi viết đến điểm dừng bút của của chữ cái đứng trước cần “ lia bút” đến điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau rồi viết. Ví dụ: Chữ “Hải. . .” + Chữ cái đứng trước không có nét liên kết, chữ cái đứng sau có nét liên kết. Khi viết đến điểm dừng bút của chữ cái đứng trước thì lia bút đến điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau, hoặc rê bút tạo nét phụ và viết tiếp theo quy trình viết liền mạch. Ví dụ: Chữ “Ông,ong. . . ” - Không có liên kết: Cả hai chữ đứng cạnh nhau không có nét liên kết nên khi viết cần có độ doãng bằng 13 đơn vị giữa hai con chữ *Ví dụ: Chữ “Dân, Bố, . .” * Thông thường các em chưa nắm vững và chưa ước lượng được khoảng cách khi viết. Nên khi thực hành viết các em cần tập thói quen cẩn thận, ước lượng từ chữ ghi tiếng này với chữ ghi tiếng kia bằng “1 đơn vị” rồi mới đặt bút. *Ví dụ: Khi hướng dẫn viết câu “Lá lành đùm lá rách”, (ở tuần 13 Tập viết 2 Tập 1B) học sinh biết được các vị trí liên kết chữ tạo bởi các chỗ nối: - Chữ “ Lá ”:Từ chữ “L” viết tiếp chữ “a” thực hiện bằng nét nối một đầu. Từ chữ “a” .Dấu thanh trên chữ cái “a” của hai chữ lá và chữ rách,dấu huyền đặt trên a ở chữ lành. - Chữ “lành”: Chữ “ l” có nét liên kết nên khi vừa viết xong chữ cái trước thì điểm đặt bút của chữ “a” chạm vào chữ “l”, thực hiện liên kết một đầu .Hai chữ cái “ n” và “h”thực hiện liên kết hai đầu.- Khoảng cách chữ “Lá” và chữ “lành” bằng 1 đơn vị: Lá lành... 4.Viết đúng chính tả: -Xuất phát từ nguyên nhân thường viết sai lỗi chính tả trên, tôi đã cho các em: * Nắm nguyên tắc, luật viết chính tả. *Luyện viết những từ ngữ khó (từ thường mắc lỗi ở các bài trước, từ các phát âm không chuẩn) vào giấy nháp, bảng con, phát âm lại từ vừa viết thành thạo trong nhóm trước khi viết vào vở. * Thực hành viết vào vở: Mỗi cụm từ, câu giáo viên đọc 3 lần ( lần 1- các em lắng nghe, lần 2- các em viết, lần 3- các em soát lỗi), đặc biệt khi đọc tôi luôn nhấn mạnh, đọc chậm các từ khó. -Dù cùng một lúc phối kết hợp rèn các kĩ năng viết đúng, đẹp, thành thạo thì tôi luôn chỉ cho học sinh thấy được những lỗi các em thường mắc và có hướng khắc phục. Ví dụ: Khi viết một đoạn trích trong bài Chính tả :“Con chó nhà hàng xóm”(Tiếng Việt 2, Tập 1B), tôi đã dùng hai hình ảnh dễ mắc lỗi để các em so sánh và nhận thấy: -Kết hợp các thao tác trên, sau một thời gian ngắn học sinh đã tiến bộ rõ rệt. Các em không ngần ngại trong mỗi giờ học chính tả hay giờ học Tập viết như trước đây nữa. *Biện pháp thứ ba: Rèn viết chữ nét thanh, nét đậm; sáng tạo chữ viết. -Việc khảo sát chữ viết, theo dõi hằng ngày và biện pháp rèn viết đúng là cơ sở để tuyển chọn nhóm đối tượng học sinh có năng lực. Với những học sinh này tôi không cần hướng dẫn tỉ mỉ như các em khác vì các em đã viết đúng theo mẫu chữ. Chính vì thế tôi cho các em thổi hồn vào trong từng nét của chữ bằng hình thức luyện viết: -Viết chữ nét thanh, nét đậm: Khi viết nét bút đưa lên rê nhẹ tay. - Viết chữ sáng tạo:Là những chữ cái đã viết đúng mẫu chữ, tạo thêm những nét phụ khác.Ví dụ:Viết sáng tạo chữ cái viết hoa:Nam, Quân. * Biện pháp thứ tư: Lựa chọn bút viết phù hợp với đối tượng học sinh. -Ngay từ đầu năm học, tôi đã tổ chức cho học sinh thi viết chữ đẹp của lớp thông qua bản tự thuật giới thiệu bản thân. Qua việc nắm bắt chữ viết và thể trạng học sinh là cơ sở để lựa chọn bút viết. Những học sinh chữ viết còn gãy nét, nguệch ngoạc chứng tỏ tay cầm bút còn yếu, hiếu động, chưa cẩn thận dễ thay đổi ngòi bút khi dịch chuyển nên tôi hướng dẫn các em nên dùng loại bút có kích thước vừa phải, nhẹ, ngòi bút tròn hoặc bút nước (bút chữ A). Còn đối tượng có chữ viết rắn rỏi, trơn nét, thể trạng khỏe mạnh nên dùng loại bút có ngòi mài để khi viết dễ tạo chữ có nét thanh, nét đậm. Kết hợp khen ngợi trong giờ sinh hoạt lớp tôi đã phân tích để học sinh thấy rõ nên sử dụng bút bơm mực để sử dụng lâu dài, tiết kiệm về kinh tế, tiện lợi khi mong muốn rèn luyện chữ viết. * Biện pháp thứ năm: Tổ chức thi viết chữ đẹp: -Cứ mỗi tháng tôi tổ chức viết chữ đẹp ở lớp 1 lần và kết hợp kiểm tra vở viết của các em nhằm uốn nắn, động viên khuyến khích các em . Đây là cơ hội các em học hỏi trao đổi kinh nghiệm, khám phá những bài viết đẹp. Bài viết đẹp ấy được công khai kết quả và gắn ở góc học tập và là một trong những tiêu chí thi đua trong tháng. Học sinh đạt kết quả cao trong các cuộc thi tôi đã khuyến khích các em bằng những món quà nhỏ “ Một số đồ dùng học tập”. -Với hình thức đó, phong trào giữ vở sạch, viết chữ đẹp đã dấy lên và mang lại hiệu quả cao trong phong trào thi viết chữ đẹp của lớp. * Biện pháp thứ sáu: Vai trò của giáo viên - Người ta thường bảo “Nét chữ nết người, cô (thầy) nào trò nấy”. Không có đồ dùng trực quan nào thay thế được và có hiệu quả hơn chữ viết của giáo viên. Nên khi viết bất cứ ở đâu: viết vở, chấm bài, lời nhận xét hay bảng lớp tôi luôn tuân thủ nguyên tắc “phải cẩn thận - phải đẹp”. Giáo viên rèn chữ viết đẹp không chỉ là tấm gương sáng cho học sinh noi theo mà còn tạo niềm tin cho phụ huynh và đồng nghiệp của mình. - Rèn viết chữ cho học sinh nhỏ tuổi là một việc làm không đơn giản. Bởi tri giác của các em thiên về nhận biết tổng quát, tính hiếu động, thiếu kiên trì mà viết được chữ thì người viết phải cụ thể, chi tiết, tỉ mỉ và đòi hỏi sự khéo léo cẩn thận nên tôi luôn rèn mình tính kiên trì, chu đáo và đưa cái tâm vào trong từng con chữ. Mặc dầu mẫu chữ viết đã có sẵn nhưng tôi luôn học hỏi đồng nghiệp, nghiên cứu, khám phá những bài viết đã từng đạt giải. c. Mối quan hệ giữa các giải pháp -Rèn thói quen, nề nếp viết chữ là tiền đề cho các giải pháp khác. Bên cạnh đó vai trò của giáo viên đóng vai trò quyết định bởi giáo viên là người lập kế hoạch, biết vận dụng phối hợp làm như thế nào để kế hoạch đề ra đạt hiệu quả cao nhất. Vì thế các giải pháp thực hiện ở trên có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng. Ví dụ: Để rèn kĩ năng viết đúng, thành thạo, đẹp thì yếu tố cần thiết phải rèn nề nếp viết chữ: học sinh phải ngồi viết đúng tư thế, phải chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trước khi thực hành viết ( bút, vở, bút...) d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Kết quả chấm chữ viết tại lớp 2A4 Trường Tiểu học Lê Quý Đôn trong năm học 2019 - 2020 với tổng số 24 học sinh như sau: Học kì I Xếp loại Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % A 5 21 7 29 12 50 22 92 B 10 42 11 46 10 42 2 0.8 C 9 37 6 25 2 0.8 0 0 Học kì II (Khảo sát ngày 03/2/2020).Diễn biến chữ viết :Sang học kì II như sau: Nội dung khảo sát Kết quả khảo sát Đạt Chưa đạt SL TL% SL TL% Nề nếp viết chữ 23 96 1 0.4 Viết đúng kích thước, hình dáng 23 96 1 0.4 Đặt dấu thanh, dấu câu đúng vị trí 23 96 1 0.4 Viết liền mạch, đúng khoảng cách, đều nét 23 96 1 0.4 Viết đúng chính tả 22 92 2 0.8 Xếp loại Tháng 1+2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 SL TL % SL TL % SL TL % SL TL % A 21 87,5 B 3 2,5 Qua quá trình áp dụng đề tài cho lớp tôi đang dạy cho thấy chất lượng chữ viết của học sinh đã tiến bộ rõ rệt. Không có hiện tượng học sinh ngồi viết sai tư thế, đồ dùng học tập tương đối đầy đủ, tốc độ ghi chép bài nhanh hơn trước góp phần đảm bảo thời gian của các tiết học. Nhiều em tự nguyện rèn chữ viết ở nhà . Các em hứng thú, tự tin khi đến lớp. Rèn luyện chữ viết là cả một quá trình lâu dài.Vì vậy, đối với học sinh lớp 2 vấn đề viết đúng, viết đẹp không dễ gì đạt được mức độ hoàn thiện.Với những biện pháp tôi đã nêu ra trong đề tài này chỉ là một phần nhỏ trong rất nhiều biện pháp khác.Tuy nhiên, nó đã đem lại cho học sinh lớp 2 tôi đang dạy nhiều kết quả khả quan.Tôi nghĩ rằng nếu vận dụng và phối hợp được nhiều biện pháp sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Mặc dầu rèn chữ viết là một phạm trù nhỏ nhưng đã góp phần nâng cao ch
Tài liệu đính kèm: