Sáng kiến kinh nghiệm Nghiên cứu một số biện pháp dạy kĩ năng sống trong dạy học môn Đạo đức Lớp 1

Sáng kiến kinh nghiệm Nghiên cứu một số biện pháp dạy kĩ năng sống trong dạy học môn Đạo đức Lớp 1

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1 Cơ sở lý luận

 Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 9 của Đảng CSVN đã xác định con người là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và bền vững. Giáo dục là nhân tố tạo ra nguồn lực con người thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện lý tưởng XHCN “Dân giàu, nước mạnh- xã hội công bằng dân chủ, văn minh”. Đảng ta đã khẳng định: “Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực, nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo”

 Trước yêu cầu cấp bách của việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiên đại hóa đất nước theo định hướng XHCN, Luật giáo dục Việt Nam 2005 đã xác định mục tiêu giáo dục tiểu học là: “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở.” Giáo dục đạo đức là một trong những nhiệm vụ giáo dục hàng đầu của nhà trường nói chung và trường tiểu học nói riêng. Bởi lẽ, đó là một trong những mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện nay thì giáo dục đạo đức lại là một nội dung giáo dục cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết vì thông qua giáo dục đạo đức thì học sinh sẽ được trang bị những kiến thức, kinh nghiệm, thái độ đúng mức trong việc lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội.

 

docx 29 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 03/03/2022 Lượt xem 1512Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nghiên cứu một số biện pháp dạy kĩ năng sống trong dạy học môn Đạo đức Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái quát
Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học.
4.1.2 2. Tưởng tượng
Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:
Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi.
Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh,.... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em.
Qua đây, các nhà giáo dục phải phát triển tư duy và trí tưởng tượng của các em bằng cách biến các kiến thức "khô khan" thành những hình ảnh có cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ hội phát triển quá trình nhận thức lý tính của mình một cách toàn diện.
4.1.3. Ngôn ngữ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì ngôn ngữ viết đã thành thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng,....đồng thời cũng có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật kí,...Tất cả đều có thể giúp trẻ có được một vốn ngôn ngữ phong phú và đa dạng.
4.1.2.4. Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập.
Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức toán hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy định.
Biết được điều này các nhà giáo dục nên giao cho trẻ những công việc hay bài tập đòi hỏi sự chú ý của trẻ và nên giới hạn về mặt thời gian. Chú ý áp dụng linh động theo từng độ tuổi đầu hay cuối tuổi tiểu học và chú ý đến tính cá thể của trẻ, điều này là vô cùng quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả giáo dục trẻ.
4.1.2.5. Trí nhớ và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ từ ngữ - lôgic
Giai đoạn lớp 1,2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
Giai đoạn lớp 4,5 ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ được tăng cường. Ghi nhớ có chủ định đã phát triển. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em...
Nắm được điều này, các nhà giáo dục phải giúp các em biết cách khái quát hóa và đơn giản mọi vấn đề, giúp các em xác định đâu là nội dung quan trọng cần ghi nhớ, các từ ngữ dùng để diễn đạt nội dung cần ghi nhớ phải đơn giản dễ hiểu, dễ nắm bắt, dễ thuộc và đặc biệt phải hình thành ở các em tâm lý hứng thú và vui vẻ khi ghi nhớ kiến thức.
4.1.2.6. Ý chí và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của người lớn (học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen, quét nhà để được ông cho tiền,...) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực thi hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn.
Đến cuối tuổi tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành mục đích hành động của mình, tuy vậy năng lực ý chí còn thiếu bền vững, chưa thể trở thành nét tính cách của các em. Việc thực hiện hành vi vẫn chủ yếu phụ thuộc vào hứng thú nhất thời.
Để bồi dưỡng năng lực ý chí cho học sinh tiểu học đòi hỏi ở nhà giáo dục sự kiên trì bền bỉ trong công tác giáo dục, muốn vậy thì trước hết mỗi bậc cha mẹ, thầy cô phải trở thành tấm gương về nghị lực trong mắt trẻ.
4.2 Sự phát triển tình cảm của học sinh tiểu học
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vô tư...
Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với tuổi mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều.
Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của học sinh tiểu học luôn luôn kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng khiếu như thơ, ca, hội họa, kĩ thuật, khoa học,...khi đó cần phát hiện và bồi dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm thui chột năng khiếu của trẻ.
Chính vì thế, việc giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học cần ở nhà giáo dục sự khéo léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh trực quan sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm cho các em thông qua các hoạt động cụ thể như trò chơi nhập vai, đóng các tình huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trường lớp, khu dân cư,...
4.3 Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học
Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn...Sau 5 năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững ở trẻ.
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đang hình thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều, với học sinh tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà nhân cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình.
Hiểu được những điều này mà cha mẹ hay thầy cô giáo tuyệt đối không được "chụp mũ" nhân cách của trẻ, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính gợi mở và chờ đợi, phải hướng trẻ đến với những hình mẫu nhân cách tốt đẹp mà không đâu xa, chính cha mẹ và thầy cô là những hình mẫu nhân cách ấy.
Nói tóm lại, sáu tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường thay đổi: đòi hỏi trẻ phải tập trung chú ý thời gian liên tục từ 30 - 35 phút. Chuyển từ hiếu kỳ, tò mò sang tính ham hiểu biết, hứng thú khám phá. Bước đầu kiềm chế dần tính hiếu động, bột phát để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Phát triển độ tinh nhạy và sức bền vững của các thao tác tinh khéo của đôi bàn tay để tập viết,...Tất cả đều là thử thách đối với của trẻ, muốn trẻ vượt qua được tốt những điều này thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Thuận lợi:
- Cở sở vật chất của nhà trường khang trang: các lớp học đều có điều hòa, đèn chống lóa, máy tính, máy chiếu 
- Giáo viên có trình độ trên chuẩn, có nhiều năm kinh nghiệm, yêu nghề, mến trẻ.
- Học sinh phần đa ngoan ngoãn, biết vâng lời cô giáo.
2. Khó khăn
 Phần lớn các em chưa được gia đình chú ý quan tâm bồi dưỡng vốn kinh nghiệm trong giao tiếp nên đến lớp các em thường hay nhút nhát, nói nhỏ . Khi tôi nhận lớp, đã sau một học kì nhưng vẫn còn 1 em mẹ đưa đến lớp là khóc . Cô gọi lên bảng không dám lên, không dám giơ tay phát biểu đọc bài, bài cô gọi chỉ gật và lắc đầu, không biết cười; nhiều em còn chưa biết nói lời thưa gửi thể hiện lễ phép
    - Do đặc điểm nơi cư trú của học sinh, các em ở rải rác nhiều khu nên các em nhút nhát , không cởi mở ngại giao tiếp với các bạn và cô giáo .. Các em chưa biết cách ứng xử đơn giản nhất với cô giáo và các bạn .Nhiều em chưa nói được cụ thể họ tên  mình , họ tên bố mẹ , chưa phân biệt được anh em trong nhà với anh em họ. Có 4 học sinh theo gia đình báo cáo là “tăng động”, “tự kỉ”. Trong đó có 2 em thường xuyên ngồi im, chưa biết nói đủ một câu, cả ngày không cười; 2 em còn lại quá nghịch, chưa biết giao tiếp với bạn bè và cô giáo, chưa có ý thức gì về học tập nghe giảng, chưa biết lĩnh hội kiến thức .  
- Học sinh học bán trú cả ngày. Thời gian ở trường nhiều hơn ở gia đình. Mọi sinh hoạt của các em chỉ gói gọn trong trường, lớp. Bên cạnh đó, bố mẹ lại mải lo làm ăn nên viếc giáo dục hoàn toàn phó mặc cho nhà trường. Có những gia đình bố mẹ đi làm đến khuya mới về nên thời gian trò chuyện với con, hướng dẫn các con rất ít. Thời gian trống đó các em thường xem ti vi hoặc tiếp xúc với công nghệ cao như: máy vi tính, vào mạng INTERNET, chơi điện tử 
  Từ những thực trạng trên việc rèn kỹ năng sống trong dạy học môn Đạo đức cho học sinh lớp Một là rất cần thiết, tạo tiền đề cho các em phát triển khả năng giao tiếp và học tập tốt các môn học.
 3. Số liệu điều tra trước khi thực hiện
 Sau khi điều tra học sinh tôi tiến hành khảo sát phân các nhóm đối tượng như sau:
Nội dung khảo sát
Đầu năm
Số HS/Tổng số
Tỉ lệ %
1. Kĩ năng giao tiếp, chào hỏi
11/52
21%
2. Kĩ năng tự lập, tự phục vụ
13/52
25%
3. Kĩ năng nhận thức
20/52
38%
4. Kĩ năng hợp tác
10/52
19%
5. Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề
16/52
30%
6. Kĩ năng tư duy phê phán
10/52
19%
7. Mạnh dạn, tự tin
18/52
34%
  - Điểm qua một số hành vi đạo đức của các em tôi thấy tỷ lệ học sinh phát triển toàn diện  rất là ít, phần đa số các em chưa tự tin trong giao tiếp, chưa có kỹ năng tự phục vụ, hợp tác ... Đây cũng là ý kiến nhiều nhất của phụ huynh học sinh qua buổi họp đầu tiên.
Chương II: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY KĨ NĂNG SỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 1
I. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
1. Tương tác
 KNS không thể hình thành chỉ qua việc nghe giảng và tự đọc tài liệu mà phải thông qua các hoạt động tương tác với người khác. Việc nghe giảng và tự đọc tài liệu chỉ giúp HS thay đổi về nhận thức về một vấn đề nào đó. Nhiều KNS được hình thành trong qúa trình HS tương tác với bạn cùng học và những người xung quanh thông qua hoạt động học tập hoặc các hoạt động xã hội trong nhà trường. Trong khi tham gia các hoạt động có tính tương tác, HS có dịp thể hiện ý của mình, xem xét ý tưởng của người khác, được đánh giá và xem xét lại những kinh nghiệm sống của mình trước đây theo một cách nhìn nhận khác. Vì vậy, việc tổ chức các hoạt động có tính chất tương tác cao trong nhà trường tạo cơ hội quan trọng để giáo dục KNS có hiệu quả.
2. Trải nghiệm
 KNS chỉ được hình thành khi người học được trải nghiệm qua các tình huống thực tế. HS chỉ có kĩ năng khi các em tự làm việc đó, chứ không chỉ nói về việc đó. Kinh nghiệm có được khi HS được hành động trong các tình huống đa dạng giúp các em dễ dàng sử dụng và điều chỉnh các kĩ năng phù hợp với điều kiện thực tế.
 Giáo viên cần thiết kế và tổ chức thực hiện các hoạt động trong và ngoài giờ học sao cho HS có cơ hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân tích kinh nghiệm sống của chính mình và người khác.
3. Tiến trình
 Giáo dục KNS không thể hình thành ngày một ngày hai mà đòi hỏi phải có cả quá trình: nhận thức – hình thành thái độ - thay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà mỗi yếu tố có thể là khơi đầu của một chu trình mới. Do đó nhà giáo dục có thể tác động lên bất kì mắt xích nào trong chu trình trên: thay đổi thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận thức và hành vi hoặc hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ.
4. Thay đổi hành vi
 Mục đích cao nhất của giáo dục KNS là giúp người học thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Giáo dục KNS thúc đẩy người học thay đổi hay định hướng lại các giá trị, thái độ, hành động của mình. Thay đổi hành vi, thái độ và giá trị ở từng con người là một quá trình khó khăn, không đồng thời. Có thời điểm người học quay trở lại những thái độ, hành vi hoặc giá trị trước. Do đó các nhà giáo dục cần kiên nhẫn chờ đợi và tổ chức các hoạt động liên tục để HS duy trì hành vi mới và có thói quen mới; tạo động lực cho HS điều chỉnh hoặc thay đổi giá trị, thái độ và những hành vi trước đây, thích nghi hoặc chấp nhận các giá trị, thái độ và hành vi mới. GV không nhất thiết phải luôn luôn tóm tắt bài “hộ” HS mà cần tạo điều kiện cho HS tự tóm tắt những ghi nhận cho bản thân sau mỗi giờ học
 5. Thời gian – môi trường giáo dục
 Giáo dục KNS cần thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Môi trường giáo dục tổ chức nhằm tạo cơ hội cho HS được tổ chức nhằm tạo cơ hội cho HS áp dụng kiến thức và kĩ năng vào các tình huống “thực” trong cuộc sống.
 Giáo dục KNS được thực hiện trong gia đình, trong nhà trường và cộng đồng. Người tổ chức giáo dục KNS có thể là bố mẹ, thầy cô, bạn học hay các thành viên công đồng. Trong nhà trường, giáo dục KNS được thực hiện trên các giờ học, trong các hoạt động lao động, hoạt động đoàn thể - xã hội, hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và các hoạt động giáo dục khác.
II. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP
1.Biện pháp 1: Xây dựng ma trận kĩ năng sống, các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực nhằm giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 1 thông qua dạy học môn Đạo đức
Tên bài dạy
Các KNS cơ bản
PP/ KTDH tích cực thể sử dụng
Bài 1: Em là học sinh lớp 1
- Kĩ năng tự giới thiệu bản thân.
- Kĩ năng trình bày suy nghĩ: Kể về ngày đầu tiên đi học, về trường, lớp, thầy cô giáo, bạn bè 
- Kĩ năng lắng nghe
- Tổ chức trò chơi
- Thảo luận nhóm
- Động não
- Trình bày 1 phút
Bài 4: Gia đình em
- Kĩ năng giới thiệu về những người thân trong gia đình.
- Kĩ năng giao tiếp, ứng xử với những người thân trong gia đình.
- Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề để thể hiện long kính yêu đối với ông bà, cha mẹ.
- Trình bày 1 phút
- Đóng vai
- Xử lí tình huống.
Bài 5: Lễ phép với anh chị, nhường nhịn em nhỏ
- Kĩ năng giao tiếp, ứng xử với anh, chị em trong gia đình.
- Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề để thể hiện lễ phép với anh chị nhường nhịn em nhỏ
- Thảo luận nhóm
- Đóng vai
- Xử lí tình huống.
Bài 7: Đi học đều và đúng giờ
- Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề để đi học đúng giờ.
- Kĩ năng quản lí thời gian để đi học đều và đúng giờ.
- Thảo luận nhóm
- Động não
- Xử lí tình huống
Bài 9: Lễ phép với thầy giáo, cô giáo
- Kĩ năng giao tiếp, ứng xử lễ phép với thầy giáo cô giáo
- Thảo luận nhóm 
- Đóng vai
- Động não
Bài 10: Em và các bạn
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin, tự trọng trong quan hệ với bạn bè.
- Kĩ năng giao tiếp, ứng xử với bạn bè
- Kĩ năng thể hiện sự cảm thông với bạn bè.
- Kĩ năng phê phán, đánh giá những hành vi cư xử chưa tốt với bạn bè
- Thảo luận nhóm
- Đóng vai
- Tổ chức trò chơi
- Trình bày 1 phút
Bài 11: Đi bộ đúng quy định
- Kĩ năng an toàn khi đi bộ
- Kĩ năng phê phán, đánh giá những hành vi đi bộ không đúng quy định
- Trò chơi
- Thảo luận nhóm
- Động não
Bài 12: Cảm ơn và xin lỗi
- Kĩ năng giao tiếp, ứng xử với mọi người, biết cảm ơn và xin lỗi phù hợp trong từng tình huống cụ thể 
- Trò chơi
- Thảo luận nhóm
- Đóng vai, xử lí tình huống.
- Động não
Bài 13: Chào hỏi và tạm biệt
- Kĩ năng giao tiếp, ưng xử với mọi người: biết chào hỏi khi gặp gỡ và tạm biệt khi chia tay
- Trò chơi
- Thảo luận nhóm
- Đóng vai, xử lí tình huống
- Động não
Bài 14: Bảo vệ hoa và cây nơi công cộng
- Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề trong tình huống để bảo vệ cây và hoa nơi công cộng
- Kĩ năng tư duy phê phán những hành vi phá hoại cây và hoa nơi công cộng
- Thảo luận nhóm
- Động não
- Xử lí tình huống
Sau khi xây dựng được ma trận các KNS cơ bản, trong từng tiết dạy, tôi đã lựa chọn các phương pháp dạy học thích hợp với từng bài dạy nhằm gây hứng thú học tập cho HS. Hướng dẫn các em thực hành hành vi qua trò chơi sắm vai, đố vui, nêu ý kiến của mình để củng cố ghi nhớ hành vi đã học. Khuyến khích các em học sinh nhút nhát tham gia vào trò chơi. Bên cạnh đó, tôi luôn tạo không khí lớp học vui vẻ, sôi nổi, học sinh được phát biểu dân chủ, không gò ép và thường xuyên tặng cho các em lời động viên, khích lệ kịp thời.
VD: Khi dạy bài “Đi học đều và đúng giờ”
 Tôi cho HS quan sát tranh và chơi trò chơi sắm vai: “Buổi sáng, bố gọi bạn nhỏ dậy đi học. Nếu em là bạn em sẽ nói gì khi đó?”. Sau khi HS đóng vai xong, tập thể lớp sẽ phỏng vấn đội kịch.
 Qua trò chơi này này, sẽ hình thành ở HS kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề để đi học đúng giờ; kĩ năng quản lí thời gian để đi học đều và đúng giờ 
2.Biện pháp 2: Tổ chức ngoại khóa để thực hành hành vi đã học
 Trong chương trình học 2 buổi/ngày, ngày nào cũng có một tiết hướng dẫn học. Sau khi các em đã hoàn thành bài trong ngày, tôi thường tổ chức cho các em thực hành luyện tập kĩ năng hành vi đã học dưới hình thức tổ chức trò chơi vai, đố vui, hái hoa dân chủ  Song chủ yếu vẫn là trò chơi sắm vai các nhân vật trong các tình huống khác nhau và phải biết ứng xử sao cho hợp với từng hoàn cảnh.
 Dưới các hoạt động ngoại khóa này,học sinh được luyện tập thực hành kĩ năng hành vi vào tình huống cụ thể, gần gũi các em trong cuộc sống hàng ngày. Chính vì vậy, vốn kinh nghiệm sống của các em ngày một tốt lên. 
3.Biện pháp 3: Kết hợp với nhà trường để rèn kĩ năng sống cho học sinh qua các buổi sinh hoạt Sao
 Học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 1 rất hào hứng khi tham gia sinh hoạt Sao. Trong khi đó, nội dung sinh hoạt Sao thường trùng với tiết sinh hoạt theo chủ đề của tuần, tháng. Vì vậy, tôi đã mạnh dạn đề xuất với BGH nội dung thực hành trong các tiết sinh hoạt Sao theo từng tuần như sau:
Tuần 2
Thực hành kĩ năng tự giới thiệu họ và tên của mình
Tuần 4
Thực hành kĩ năng ăn mặc quần áo, đầu tóc gọn gang sạch sẽ
Tuần 6
Thực hành kĩ năng giữ gìn sách vở đồ dung học tập
Tuần 8
Thực hành kĩ năng lễ phép

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_nghien_cuu_mot_so_bien_phap_day_ki_nan.docx