Sáng kiến kinh nghiệm Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1 - Vũ Thị Khánh Linh

Sáng kiến kinh nghiệm Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1 - Vũ Thị Khánh Linh

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài

Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực được quan tâm hàng đầu

trong sự phát triển của mỗi quốc gia. Việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo được coi

là quốc sách hàng đầu của đất nước ta trong việc tạo nguồn nhân lực cho sự phát

triển mang tính bền vững của quốc gia.

Tại điều 2 chương I, Luật Giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 2005 cũng đã xác định: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo người Việt Nam

phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung

thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng

nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Giáo dục đạo đức là một trong những mặt giáo dục quan trọng trong mục

tiêu giáo dục của nhà trường ở nước ta hiện nay. Nó có vai trò quan trọng trong

việc hình thành nhân cách của con người - nguồn nhân lực phục vụ sự phát triển

của đất nước. Đối với dân tộc Việt Nam: Đạo đức là vốn quý của con người, cái

“đức” là nền tảng, là căn bản của con người.

Vì vậy, trong bất kì xã hội nào, nghề giáo cũng luôn được đề cao và quý

trọng. Đặc biệt là trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nghề giáo lại càng được tôn vinh

và được xem là một nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý. Cái nghề “truyền

chữ”, “trồng người” này lại không đơn giản, nhất là ở lứa tuổi của các em học sinh

mới chập chững làm quen với mái trường, thầy cô, bạn bè đó là học sinh bậc tiểu

học. Đây là lứa tuổi rất nhạy cảm và rất quan trọng để các em định hướng trưởng

thành sau này. Chính vì thế Bác Hồ đã nói “.Một năm bắt đầu từ mùa xuân, một

đời bắt đầu từ tuổi trẻ ”. Vì vậy nếu không giáo dục, không uốn nắn các em ngay

từ đầu thì rất khó để cho các em nắm vững kiến thức, không làm chủ được bản thân

và cũng sẽ khó trở thành người có tài, có đức phục vụ cho đất nước sau này.

Đối tượng học sinh cấp tiểu học ở những độ tuổi khác nhau cũng có nhiều

dạng khác nhau: Có nhiều em rất ngoan, hiền và biết vâng lời thầy cô giáo. Nhưng

bên cạnh đó cũng có một số em thì ngang bướng, ngỗ nghịch, nói tục chửi thề khá

phổ biến, tóc được nhuộm đủ màu Trong đối tượng học sinh này có một dạng

gọi là “học sinh cá biệt”. Đó là những học sinh luôn tạo ra nhiều sự phiền hà và

bận rộn hơn cho giáo viên cũng như gây nhiều phiền toái đến các bạn, ảnh hưởng

không tốt đến lớp. Để đưa các em học sinh cá biệt này vào khuôn khổ không phải

dễ và không phải giáo viên nào cũng thành công. Vì vậy, để góp phần vào công tác

giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt trong giai đoạn hiện nay, tôi nhận thấy việc

nắm rõ thực trạng và đề ra biện pháp về công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá

biệt là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của người giáo viên.2

Chính vì lẽ đó, tôi đã chọn đề tài “Mười hai biện pháp giáo dục học sinh

cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1” này để làm sáng kiến kinh nghiệm

cho bản thân cũng như làm tư liệu tham khảo cho các đồng nghiệp.

pdf 25 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 04/03/2022 Lượt xem 925Lượt tải 6 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Mười hai biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 1B trường Tiểu học Vạn Thọ 1 - Vũ Thị Khánh Linh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan tâm đến việc học hành cũng như sinh 
hoạt hàng ngày của con cái. 
 Các em đang ở trong giai đoạn hình thành nhân cách nên rất dễ bị ảnh hưởng 
từ những tác động xấu ở môi trường sống xung quanh. 
3. Các biện pháp đã tiến hành giải quyết vấn đề 
3.1. Xác định mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học 
Phải xem học sinh là trung tâm của vấn đề, trong hoạt động dạy và học, bao 
giờ cũng nên xem việc giảng dạy và giáo dục chỉ là tác nhân, còn học sinh xuất 
hiện với tư cách là chủ thể được giáo dục. Chúng hoàn toàn chủ động trong mọi 
công việc từ nhận thức tư duy, đến thái độ và hành vi ứng xử của chúng. Giáo viên 
chỉ là người cố vấn, định hướng, dẫn dắt, chỉ bảo, nhắc nhở, động viên cho các em 
có được những nhận tức, tư duy và hành vi ứng xử một cách đúng đắn, lễ phép. 
+ Về phía giáo viên: 
 Trước hết phải có cái “Tâm”. Xuất phát từ chữ tâm ấy sẽ dễ dàng tiếp cận 
được các em học sinh, sự bao dung và sự chịu khó sẽ giúp cho giáo viên dễ dàng 
thuyết phục, giáo dục được các học sinh cá biệt. Cũng từ chữ tâm ấy, sẽ thúc đẩy 
trách nhiệm, nghĩa vụ của giáo viên chủ nhiệm lên tầm cao hơn, từ đó trăn trở, suy 
nghĩ đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng. 
 Giáo viên phải tôn trọng học sinh dạng cá biệt này, dù các hành vi của các 
em có thể gây xúc phạm đến danh dự của mình. Đồng thời phải có lòng tin với các 
em, tin tưởng các em để giao một số công việc phù hợp của lớp cho các em phụ 
trách. 
 Giáo viên tuyệt đối không được xúc phạm đến danh dự các em học sinh 
trước tập thể lớp. 
 Giáo viên phải chịu khó lắng nghe tâm sự của các em, thường xuyên quan 
tâm và hỏi thăm, chăm sóc các em trong các điều kiện có thể. Từ đó mới tìm hiểu 
được nguyên nhân chính dẫn đến sự cá biệt của các em mà tìm giải pháp cho phù 
hợp, an ủi và động viên kịp thời các em khi phát hiện những bi kịch, chuyện buồn 
mà gia đình cũng như xã hội mang lại. 
 Giáo viên phải giữ được chữ tín đối với học sinh cả chuyên môn lẫn nhân 
cách sống. Đã hứa làm việc gì thì phải làm đến nơi đến chốn. 
7 
 Với những vấn đề trên, nếu giáo viên áp dụng được sẽ rất dễ dàng tiếp cận và 
tìm hiểu mọi vấn đề phát sinh khi cần thiết. Thực tế trong những năm qua, với những 
vấn đề ấy, bản thân tôi đã được các em học sinh cá biệt tôn trọng. Ban đầu các học 
sinh cá biệt sống rất tách rời tập thể, thấy thầy giáo, cô giáo thì khó chịu, tránh xa, 
ngại tiếp xúc. Song dần dần, tôi đã giúp cho các em hiểu được vấn đề và hiện nay đa 
số các em sống rất gần gũi với lớp. Đặc biệt khi có bất kỳ chuyện gì xảy ra, dù lớn 
hay nhỏ các em này cũng đều tâm sự và chia sẻ với tôi từ niềm vui đến nỗi buồn. 
Chính điều đó, dần dần tôi đã giúp các em tránh được sự tự ti và mặc cảm ban đầu. 
 + Về phía học sinh: 
 Giáo viên chủ nhiệm phải nắm được đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của từng gia 
đình học sinh cá biệt. Để từ đó cảm thông, tránh sự xúc phạm vô tình đến các em và 
đồng thời tạo nhiều điều kiện hơn để các em phát huy học tập và rèn luyện 
 Giáo viên phải tìm hiểu, khai thác những điểm tốt và điểm chưa tốt cơ bản 
nhất của học sinh để tác động làm thay đổi tính cách của học sinh cá biệt. 
 Giáo viên phải hiểu những suy nghĩ và những điều học sinh muốn làm. Có 
như vậy mới giúp các em tháo gỡ được những khó khăn để giúp các em đạt được 
những mong muốn chính đáng. 
 Giáo viên phải để ý quan tâm hằng ngày đến các em, động viên, khen thưởng 
kịp thời thông qua các hoạt động của lớp, hoặc qua các tiết học để các em thấy 
được những việc làm tốt của mình được công nhận và cần phải phát huy. 
3.2. Tìm hiểu sự tác động giữa gia đình và xã hội đối với lứa tuổi bậc tiểu học 
Tục ngữ có câu “Cha nào con nấy”, đó là dấu ấn của tuổi thơ với hành vi 
ứng xử của cha mẹ, nề nếp và gia phong của từng gia đình, đã tác động và ảnh 
hưởng đến nhân cách của học sinh ở lứa tuổi này. Vì vậy tác động của người xung 
quanh, nhất là những người thường xuyên gần gũi các em rất là quan trọng. Hầu hết 
những học sinh cá biệt đều có những hoàn cảnh gia đình khá phức tạp ví dụ như: 
gia đình lục đục, bố mẹ thường xuyên cãi nhau, không còn chung sống với nhau, 
hay đi làm xa phải gởi con cái cho ông bà hoặc những người thân khác trong gia 
đình. Hoặc cha mẹ ở gần con nhưng không quan tâm, chăm sóc con cái làm cho 
chúng có cảm giác bị bỏ rơi, không nhận được sự yêu thương từ phía gia đình, các 
em trở nên trầm cảm, có thái độ bất cần, không thích thú với việc học tập trên lớp 
cũng như ở nhà. 
Ngoài ra, nhân cách của học sinh bậc tiểu học cũng chịu sự tác động rất lớn 
của xã hội. Nếu như các em bị lôi kéo bởi nhóm thanh niên hư hỏng khác, hoặc các 
em có những sai lệch trong nhìn nhận sự việc, nhận thức chưa đủ để phân biệt được 
đúng sai thì nhất định nhân cách của các em cũng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu như các em 
có môi trường vui chơi, giải trí lành mạnh, được giáo dục, tiếp cận với những thông 
8 
tin hữu ích thì các em sẽ trở thành người có nhân cách, phẩm chất tốt, trở thành 
người có ích cho gia đình và xã hội. 
3.3. Xác định cụ thể từng đối tượng học sinh cá biệt và nguyên nhân dẫn đến 
tình trạng cá biệt của từng học sinh 
Qua thống kê và theo dõi trong lớp có 5 em học sinh thuộc dạng cá biệt như 
sau: 
Em Cao Thị Bích Ngọc: 
Em hay nói tục, thường xuyên đi lại tự do trong lớp, chọc phá, đánh các bạn 
trong và ngoài lớp nên nhiều lúc dẫn đến cãi nhau thậm chí dẫn đến đánh nhau với 
các bạn, ít nghe lời thầy cô giáo. Nguyên nhân chính là do gia đình, bố mẹ ly hôn 
để em sống với bà ngoại già cả, ít được sự quan tâm chăm sóc tận tình từ cha mẹ. 
Mẹ lo làm ăn xa nên không quan tâm đến việc học tập, sinh hoạt hằng ngày của 
con. Ngoài ra, em sống trong môi trường phức tạp, làng xóm có nhiều thanh niên 
hư hỏng, quậy phá, nói tục, chửi thề nên ảnh hưởng không ít đến việc học tập cũng 
như hành vi, thái độ của em. 
Em Trần Anh Thư: 
Viết chữ chưa thành thạo, chữ viết xấu, sai chính tả nhiều, đọc bài còn rất 
chậm; tính toán rất chậm, không biết trình bày các bài toán giải. Nguyên nhân 
khách quan là do bố mẹ hay cãi nhau nên ảnh hưởng đến việc học hành, cũng như 
tâm lí của em. Nguyên nhân chủ quan là do bản thân em lười học tập, khả năng tiếp 
thu bài rất hạn chế nhưng không có tinh thần tự học, em còn ham chơi, ít chú ý lắng 
nghe giáo viên giảng bài cũng như không muốn bạn giúp đỡ, lười học hỏi. 
Em Đinh Nguyễn Mai Phương: 
Gặp khó khăn trong giao tiếp, thường mặc cảm với người lạ, ít tiếp xúc trò 
chuyện với các bạn. Kĩ năng tính toán còn hạn chế, trí nhớ kém, hay quên. Nguyên 
nhân là do em có bản tính nhút nhát, không muốn nói chuyện với ai kể cả những 
người thân trong gia đình. Bố mẹ lo làm ăn ít quan tâm nên em càng mặc cảm hơn. 
Ngoài ra, do khả năng ghi nhớ còn hạn chế, em hay quên, lười học hỏi dẫn đến mất 
căn bản nên em việc học tập, tính toán với em là rất khó khăn. 
Em Võ Thị Kiều Ngoan: 
Gặp khó khăn trong giao tiếp, em phản ứng trước các câu hỏi của người khác 
rất chậm, ngại nói chuyện với mọi người, đọc bài chậm, làm bài rất chậm, viết bài 
sai nhiều lỗi. Nguyên nhân là do em lười học, mất căn bản từ nhỏ nên em rất ít khi 
nói chuyện với mọi người. Ở nhà, em ít được quan tâm nên việc học tập ngày càng 
sa sút. Ngoài ra, việc đọc, viết đối với em là rất khó khăn, lâu dần em sợ đọc và học 
bài. Bên cạnh đó, bố mẹ lo làm ăn nên không có thời gian chỉ dạy; bị ảnh hưởng 
tâm lí từ gia đình nên em tự ti, mặc cảm với xã hội. 
9 
Em Nguyễn Tuấn Kiệt: 
 Thường xuyên lơ là trong giờ học, ít làm bài tập, kĩ năng tính toán còn hạn 
chế, trí nhớ kém, hay quên; đầu tóc thì bù xù, quần áo thì xộc xệch. Nguyên nhân là 
do bố mẹ lo làm ăn, không có người nhắc nhở em học tập và em chưa hiểu hết tầm 
quan trọng của việc học nên dẫn đến lười học, không chú ý nghe giáo viên giảng 
bài. Ngoài ra, về phía gia đình với ý nghĩ việc dạy các em học tập là của nhà 
trường, về nhà thì lo làm việc nhà để phụ giúp gia đình nên làm cho em càng lơ là 
việc học hơn nữa. 
Từ những nguyên nhân dẫn đến tình trạng cá biệt của từng em, tôi rút ra một 
số nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng học sinh cá biệt ở trong lớp tôi chủ nhiệm 
như sau: 
 - Gia đình lo việc làm ăn, ít dành thời gian lo cho con cái, khoán trắng sự giáo 
dục cho nhà trường. 
 - Đa số các em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đông anh chị em, neo đơn. 
Nhiều em là con đầu lòng phải phụ giúp cho cha mẹ công việc gia đình, lo cho em 
còn nhỏ, 
 - Bản thân bố mẹ không làm gương cho con cái noi theo. 
 - Gia đình không hòa thuận, bố mẹ ly dị, đi làm ăn xa nên để con cái cho ông 
bà, người thân nuôi dưỡng nên ít chú ý đến các em, để các em tự học là chính. 
 - Các em không ý thức được tầm quan trọng của việc học, ham chơi, không 
nghe lời người khác khuyên răn, không lắng nghe giáo viên giảng bài nên dẫn đến 
mất căn bản, sợ việc học và sa sút dần trong học tập. 
3.4. Xây dựng biện pháp giáo dục phù hợp cho từng học sinh cá biệt 
 Em Cao Thị Bích Ngọc: 
Với tính cách hiếu động và sự ảnh hưởng không tốt từ môi trường xã hội nên 
việc sửa đổi giúp em tiến bộ là rất khó khăn. Em còn hay đánh bạn, chọc bạn trong 
và ngoài lớp. Với em phải kiên trì và khéo léo; tôi thường xuyên nhắc nhở, sửa sai 
cho em bằng cách phân tích cho em thấy những lỗi sai của mình, giải thích cho em 
hiểu những hành vi không tốt sẽ gây ảnh hưởng xấu cho bản thân em cũng như các 
bạn trong lớp, từ đó tôi yêu cầu em phải xin lỗi các bạn nếu như em làm sai. Đồng 
thời với những học sinh còn lại trong lớp, tôi yêu cầu các em phải bình tĩnh nếu 
như bạn trêu chọc thì phải báo cho hội đồng tự quản của lớp hoặc là giáo viên 
giảng dạy tại lớp giờ học đó chứ không được gây gổ lại dẫn đến mất đoàn kết trong 
lớp. Về việc học tập, tôi luôn cố gắng rèn chữ cho em mỗi khi có thời gian, và cho 
em tập chép những vần, tiếng đã học, làm những bài toán đơn giản dưới sự hướng 
dẫn của giáo viên hoặc bạn bè. Ngoài ra, tôi còn gặp riêng phụ huynh em để thông 
báo tình hình của em nhằm mục đích cùng nhau phối hợp để giáo dục em tốt hơn. 
10 
Khuyên gia đình nên dành nhiều thời gian quan tâm đến em để em có tiến bộ hơn. 
Bên cạnh đó, tôi còn giao cho em nhiệm vụ trong giờ học phải ngồi yên không 
được ra khỏi chỗ, không được chọc bạn đánh bạn, phải biết dọn vệ sinh khu vực 
mình ngồi. Nhằm giúp em phát huy sự nhanh nhẹn và nâng cao tinh thần trách 
nhiệm, từ đó hạn chế chọc phá bạn, dần đưa em vào nề nếp nghiêm túc hơn trong 
giờ học. 
Em Trần Anh Thư: 
Đối với em, tôi luôn quan tâm đến em mỗi khi đến lớp, bằng cách tôi thường 
xuyên kiểm tra vở của em, xem em trình bày bài như thế nào. Ngoài ra, vào giờ 
truy bài, tôi luôn rèn khả năng viết câu cho em; thường xuyên gọi em đọc đề bài 
tập, lắng nghe em tập đọc để ít nhiều rèn khả năng đọc cho em, sửa lỗi sai khi đọc 
nhằm khắc phục những lỗi sai khi viết chính tả do cách đọc tiếng địa phương. Bên 
cạnh đó, tôi còn ra những bài toán tính để em rèn khả năng tính toán cũng như trình 
bày bài làm của em cũng được cải thiện. Hằng ngày, phân công những bạn có năng 
lực kèm cặp, hỗ trợ em trong giờ truy bài mỗi khi em đến trường. Về phía gia đình, 
tôi cũng đã trao đổi với mẹ của em để giúp em có được sự quan tâm nhiều hơn từ 
gia đình cũng như nền tảng tâm lí tốt hơn khi ở nhà. 
Em Đinh Nguyễn Mai Phương: 
Đây là trường hợp rất đặc biệt, em vừa ngại giao tiếp, rất ít nói, tính toán 
chậm, trí nhớ kém kết hợp với sự tiếp thu chậm vì sức khỏe em không được tốt, thể 
trạng thì nhỏ bé. Với em, tôi đã phải cực kì kiên nhẫn.Trong mỗi giờ học, mỗi khi 
ra câu hỏi gợi mở vấn đáp cho một vấn đề nào đó tôi thường gọi em trả lời mặc dù 
em không thích thú nhằm rèn khả năng giao tiếp cho em. Động viên các bạn trong 
lớp chơi cùng em để em quen bạn, học hỏi ở bạn những điều hay nhằm mạnh dạn 
hơn; đồng thời tôi cũng giao cho em việc phát vở cho các bạn sau khi tôi chấm bài 
để giúp em cảm thấy được xem trọng và tự tin hơn, hòa đồng hơn. Sau đó, tôi tiếp 
tục rèn khả năng ghi nhớ cho em bằng cách hay gọi em nhắc lại một số kiến thức 
mới hay một nội dung bài mới để em chú ý bài hơn. Khi em đã bắt đầu cởi mở hơn, 
tôi bắt đầu củng cố một số kiến thức mà em bị mất căn bản rồi tôi cho em làm đi 
làm lại nhiều lần các dạng toán đã học trong các tiết rèn để giúp em nhớ cách làm. 
Đồng thời, tôi còn nhờ một học sinh có năng lực trong lớp gần nhà em giúp đỡ em 
ở lớp cũng như ở nhà. Về phía gia đình, tôi đã gặp và trao đổi với bố em trong cuộc 
họp phụ huynh đầu năm để tìm kiếm thêm sự quan tâm từ phía gia đình đối với em, 
nên trò chuyện với em nhiều hơn nhằm giúp em học tập tốt hơn và tự tin hơn. 
Em Võ Thị Kiều Ngoan: 
Đối với em này, tôi luôn kiên nhẫn theo sát em trong giờ học và thường 
xuyên thay đổi biện pháp giáo dục cho phù hợp với em, một phần vì em học rất 
kém và khó khăn trong việc nói chuyện, giao tiếp với mọi người. Tôi thường đặt ra 
những câu hỏi tương đối dễ và kiên trì gợi mở, động viên để giúp em tìm ra câu trả 
11 
lời nhằm củng cố kĩ năng trả lời câu hỏi cũng như tăng khả năng trao đổi thông qua 
giao tiếp cho em. Vì em đọc viết còn chậm nên mỗi khi viết chính tả hay làm bài 
tập tôi thường đứng bên cạnh em để nhắc nhở, kèm cặp em. Ngoài ra, tôi còn phân 
công một học sinh có năng lực trong lớp gần nhà em giúp đỡ em ở trường cũng như 
ở nhà để em mau tiến bộ hơn. Tôi còn tìm gặp những giáo viên bộ môn để trao đổi 
về tình hình của em, nhờ giáo viên bộ môn quan tâm đến em nhiều hơn để em tiến 
bộ hơn trong học tập cũng như trong giao tiếp. Bên cạnh đó tôi cũng phân công em 
phát vở cho các bạn sau khi tôi chấm bài. Về phía gia đình, tôi cũng đã trao đổi với 
mẹ em nên quan tâm trò chuyện với em nhiều hơn 
Em Nguyễn Tuấn Kiệt: 
Với em, biện pháp giáo dục của tôi là thường quan sát em trong mọi hoạt 
động. Trong giờ học, tôi thường xuyên nhắc nhở cả lớp tập trung vào bài học. Mỗi 
khi tôi thấy em không chú ý lắng nghe giảng bài tôi thường nhắc khéo hoặc là tôi 
đưa ra câu hỏi liên quan đến nội dung tôi vừa giảng và gọi em trả lời câu hỏi, trả lời 
không được tôi cho em đứng tại chỗ lắng nghe bạn khác trả lời sau đó nhắc lại, lâu 
dần rèn cho em khả năng tập trung nghe giảng bài để trả lời được những câu hỏi mà 
tôi nêu ra. Ngoài ra, tôi còn thường xuyên ra các dạng bài toán nhằm củng cố kĩ 
năng tính toán cho em làm vào các tiết rèn và giờ truy bài ví dụ như các bài toán về 
tính cộng, trừ, so sánh các số...Thỉnh thoảng, tôi gặp riêng hỏi han, khuyên răn em 
để em ý thức được tầm quan trọng của việc học, có khả năng tự học và học tập tốt 
hơn. Về phía gia đình, tôi đã gặp và trao đổi một cách tế nhị với bà ngoại em nên 
quan tâm nhiều hơn đến em đặc biệt là vấn đề ăn mặc và vệ sinh cá nhân. 
3.5. Dùng tình cảm để cảm hóa học sinh 
Tránh đối xử thô bạo, trách móc các em. Hãy tôn trọng nhân cách của các 
em. Hãy đem đến cho các em hơi ấm của tình người, để các em biết người tốt 
chung quanh ta, nhiều lắm! các em cần được đối xử tử tế, cần được yêu thương và 
tôn trọng. Không ai được ngược đãi các em vì các em học chậm. Các em có quyền 
được đặt câu hỏi và yêu cầu thầy cô giáo giải thích cho em hiểu. Chính vì vậy mới 
cần có trường học. Và đó là lý do tại sao cần có thầy cô giáo...” 
 Để hiểu học sinh “cá biệt”, trước hết phải biết chấp nhận các em vô điều 
kiện. Luôn đứng về phía các em, quan tâm điều các em nghĩ, bàn về những đề tài 
các em thích. Thỉnh thoảng, sử dụng “thuật ngữ” của các em. Đó là cách mang các 
em đến gần mình hơn. Khi mối quan hệ đủ thân thiện, khi niềm tin đủ lớn, người 
thầy sẽ thuận lợi trong việc uốn nắn hành vi, khai sáng tư duy, định hướng nhận 
thức... 
 Nên xử lý mềm mỏng, thậm chí dịu ngọt đối với học sinh cá biệt này, nếu 
không sẽ không có hiệu quả, có khi gặp phản ứng không tốt ngược trở lại về phía 
12 
học sinh. Tuy nhiên cũng có đôi lúc ta cũng phải cứng rắn: chẳng hạn trong vấn đề 
xử phạt “mềm nắn, rắn buông”. 
 Nếu học sinh có thói hư tật xấu phạm lỗi trầm trọng cũng có thể tùy trường 
hợp hay tùy đối tượng mà xử lí, tôi không xử lí một cách cứng nhắc. Dù lỗi lầm lớn 
nhưng nếu em đó biết nhận lỗi và sửa lỗi thì tôi luôn tạo cho học sinh đó cơ hội tự 
làm chủ bản thân, có niềm tin nghị lực để vươn lên. Thế nhưng đối với những học 
sinh lỗi vi phạm không đáng kể nhưng lại vi phạm thường xuyên thì tôi không thể 
bỏ qua mà xử lí một cách linh động tùy theo từng đối tượng. Dù các em vi phạm ở 
mức độ lỗi lớn hay nhỏ giáo viên cũng xử lí trên cơ sở giáo dục các em, cụ thể cho 
em đó biết chuộc lỗi, làm một việc tốt, giao cho em đó thời gian thử thách. 
3.6. Kiên trì tạo niềm tin cho học sinh 
 Chúng ta hãy thử hòa mình vào phong cách sống của các em xem sao? Để 
điều hành được học sinh “cá biệt”, người thầy phải sắm đủ các vai. Khi thì nhà mô 
phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu vào. Khi thì nhà tâm lý, 
lúc lại là bác sĩ trị liệu, khi thì ông trọng tài, lúc khác lại là người cố vấn... Cứ như 
thế, kiên trì cho đến khi các em tự nhận ra tại sao mình phải thay đổi. 
 Từ cảm giác cô đã không chối bỏ mình, không chê mình, luôn khen ngợi, 
động viên và tặng trái tim ghi điểm thưởng..., các em dần phát hiện ra giá trị của 
bản thân, cảm thấy mình hữu ích và được việc... Thế là tinh thần học tập được nhân 
lên, tạo ra sự tương tác và cộng hưởng. 
 Giáo viên nên thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc nhở, động 
viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh. Tạo cho học sinh nhìn 
mình là cảm thấy gần gũi, chứ không phải gặp mình là sợ la, sợ bị mắng. Như vậy 
học sinh sẽ có tâm lý bất cần “Thầy cô kệ thầy cô, ta là ta”. Ta phải làm sao tạo cho 
học sinh có cảm giác là giáo viên như là một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng 
lắng nghe ý kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cô, khích 
lệ mình khi mình khó khăn trong gia đình, bế tắc trong học tập. 
 Giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn phải thức 
sớm một chút để không phải đi trễ, mình học yếu thì nên chịu khó, siêng làm bài 
tập hơn các bạn, khi nào làm bài tập, học sinh mệt thì nên giải lao để tinh thần thoải 
mái rồi làm tiếp, không nên cố gắng quá sức. Giáo viên không nên giáo dục ào ạt 
chưa hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi phạm nhẹ, 
như vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục. Bởi vì đấy là những học sinh cá biệt, tính tình 
ương ngạnh, tâm lý bất cần, học hay không đối với bản thân học sinh không quan 
trọng mà học sinh vào lớp là chỉ được "lãnh lương" hàng ngày, không phải làm 
những việc nặng nhọc bằng tay chân ở nhà. 
13 
3.7. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình 
 Giáo dục học sinh cá biệt còn một yêu cầu quan trọng là thầy, cô phải giỏi 
nghề. Thầy, cô phải luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tiết sau “mới” 
hơn tiết trước. Sau một tiết học, trò học được nhiều tri thức bổ ích tạo nên sự đam 
mê học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình. 
 Thầy, cô biết “cuốn” học sinh vào trò chơi học tập, sẽ “lấp” thời gian “chết”, 
trò không “nhàn cư” nghịch, vẽ tranh, chơi đồ chơi ngay trong tiết học. 
 Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể những việc mà học sinh hỏi, tránh để học 
sinh cảm thấy mình lạc lõng, cảm giác vì mình học dở nên không ai quan tâm, ai 
cũng khi dễ mình, không ai thèm chơi, để ý đến mình. 
 Giáo dục học sinh cá biệt là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ. Thầy, cô 
đứng trên bục giảng phải đóng nhiều vai: Tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên, cả 
khán giả - tức học sinh ngồi nghe giảng trên lớp. Làm thầy, nhưng phải hiểu trò 
đang nghĩ gì, làm gì trong giờ học. Bài giảng là một “món ăn”, nếu nhàm chán, học 
trò sẽ bỏ ăn - bỏ học. 
3.8. Phải biết động viên kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng 
 Giáo viên phải biết trân trọng những gì là tốt dù rất nhỏ của học sinh. Một lời 
động viên khích lệ kịp thời khi các em chỉ có một việc làm tốt rất nhỏ cũng đủ làm 
cho các em thấy tự tin hơn, thấy mình thực sự có ích. 
 Hãy mạnh dạn giao việc cho chúng, hướng dẫn các em để chúng làm theo 
định hướng của mình nhưng vẫn phải để “Đất” cho cá

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_muoi_hai_bien_phap_giao_duc_hoc_sinh_c.pdf