II- PHẦN MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài:
Mục tiêu của giáo dục tiểu học theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT
hiện nay là đào tạo những con người phát triển toàn diện gồm: Đức- Trí- Thể
Mỹ. Nghĩa là không chỉ giáo dục cho các em có đạo đức tốt, có trình độ hiểu
biết. mà còn phải giáo dục cho các em biết nhìn nhận, phân biệt, biết thưởng
thức cái đẹp và biết làm đẹp cho cuộc sống. Có thể nói rằng giáo dục thẩm mỹ
cho con người là con đường giáo dục nhanh và hiệu quả nhất thông qua các môn
học nghệ thuật. Âm nhạc là phương tiện hiệu quả nhất trong giáo dục thẩm mỹ.
Một yêu cầu không thể thiếu được là quan tâm đúng mực đến giáo dục
nghệ thuật cho các em mà môn âm nhạc là môn học mà các em thích nhất. Giúp
cho các em biết hát và có kỹ năng thể hiện tâm tư thông qua một bài hát. Song
trên thực tế không phải học sinh nào cũng thực sự có năng khiếu về âm nhạc.
Rất nhiều em chưa có năng khiếu trong vấn đề ca hát, còn rụt rè, hát chưa hay,
chưa đúng, chưa thể hiện được sắc thái của bài hát Từ những bất cập trên,
trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc, nhất là đối với phân môn Học hát ở lớp
5, bản thân tôi luôn nghiên cứu tìm ra những phương pháp giảng dạy cho các em
học tốt hơn. Tôi quyết định lựa chọn để đưa ra đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
“Một số phương pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Học hát”.
, trong quá trình giảng dạy môn âm nhạc, nhất là đối với phân môn Học hát ở lớp 5, bản thân tôi luôn nghiên cứu tìm ra những phương pháp giảng dạy cho các em học tốt hơn. Tôi quyết định lựa chọn để đưa ra đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Một số phương pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Học hát”. 2. Mục đích nghiên cứu: - Giúp học sinh hát đúng, thuộc và bước đầu thể hiện tốt sắc thái của bài hát. - Giáo viên có những phương pháp dạy hát hiệu quả nhất để phát huy tính sáng tạo của học sinh. - Xây dựng và phát triển năng lực âm nhạc của học sinh thông qua việc Học hát. Đồng thời phát hiện những học sinh có năng khiếu về âm nhạc, động viên và giúp các em phát triển năng khiếu của mình. - Giáo dục cho các em có tình cảm, đạo đức trong sáng, lành mạnh, hướng tới những điều thiện và cái đẹp trong cuộc sống. - Xây dựng khả năng tham gia hoạt động âm nhạc, giúp cho việc phát triển toàn diện cân bằng và hài hoà. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Một số phương pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Học hát 4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm: - Học sinh lớp 5 5. Phương pháp nghiên cứu: -Phương pháp điều tra, khảo sát. - Phương pháp thực hành, luyện tập. - Phương pháp trực quan, dùng lời. - Phương pháp tổng hợp và thống kê. 5 - Phương pháp kiểm tra, đánh giá. 6. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu: - Trường Tiểu học Nguyễn Trãi – Thị xã Quảng Trị. - Thời gian thực hiện: Từ tháng 9/2018 đến tháng 5/2019 III- PHẦN NỘI DUNG 1. Đặc điểm của phân môn học hát: 1.1 Cơ sở lý luận của đề tài: Một vài đặc điểm của phân môn Học hát: - Hát thuộc lời ca, đúng giai điệu. - Thể hiện được sắc thái của bài hát. - Hiểu được nội dung bài hát từ đó rút ra cho mình những bài học bổ ích - Hát kết hợp gõ đệm theo 3 cách: Nhịp, phách, tiết tấu lời ca - Hát kết hợp vận động phụ họa theo nhạc hoặc các trò chơi âm nhạc khác. - Tổ chức biểu diễn. 1.2 Cơ sở thưc tiễn: Vấn đề dạy học bộ môn âm nhạc nói chung và phân môn học hát nói riêng trong nhà trường là một nhiệm vụ hết sức cần thiết nhằm giáo dục hoàn thiện nhân cách cho các em. Giúp cho các em biết thưởng thức cái hay, cái đẹp trong cuộc sống. Tạo cho các em tính mạnh dạn, tự tin trước tập thể Song năng khiếu âm nhạc không phải em nào cũng có được. Để giúp đỡ những học sinh chưa thực sự mạnh dạn thể hiện bản thân mình, hát chưa hát, chưa chuẩnGiáo viên phải tìm cho mình những biện pháp, phương pháp thích hợp để điều chỉnh, uốn nắn và giúp đỡ các em hoàn thiện mình hơn. 2. Thực trạng: 2.1 Thuận lợi: a. Về phía nhà trường: - Được sự quan tâm thường xuyên của Ban giám hiệu nhà trường, phụ huynh và lãnh đạo địa phương nên cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy học nói chung và bộ môn âm nhạc nói riêng rất thuận lợi. - Nhà trường có kết nối mạng internet rất tiện cho việc tìm kiếm thông tin, có phòng học hát riêng tạo cho cô và trò có không gian học hát và biểu diễn thoải mái. - Các phương tiện hỗ trợ cho việc dạy và học âm nhạc của nhà trường đầy đủ như: Đàn or-gan, máy cat-set, máy chiếu, tranh ảnh, một số nhạc cụ gõ.... Sách đọc thêm và các tài liệu tham khảo khác khá đầy đủ. b. Về phía giáo viên: - Có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng. - Kiến thức sư phạm và kỹ năng nghề nghiệp tốt - Học hỏi những bài học và kinh nghiệm quý báu ở các bạn đồng nghiệp. - Tích cực tìm tòi những phương pháp mới vận dụng trong quá trình giảng dạy. - Cố gắng để đưa phong trào của nhà trường cũng như chất lượng dạy học bộ môn âm nhạc ngày một đi lên. - Được đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh tin yêu. c. Về phía học sinh: 6 - Học sinh ngoan, đa số các em rất yêu thích môn Âm nhạc. Học sinh cảm nhận giai điệu và thực hiện các bài hát với đàn hoặc đĩa khá tốt. - Hầu hết các gia đình có điều kiện quan tâm và rất nhiều em thực sự có năng khiếu âm nhạc. - Nhiều em tuy năng khiếu chưa thực sự nổi trội nhưng bù lại các em có lòng yêu thích và niềm đam mê đối với môn âm nhạc nên đã học hát và biễu diễn rất say sưa, nhiệt tình. Thông qua các hoạt động ngoại khóa và các hoạt động của câu lạc bộ “Tiếng hát họa mi” đã mang đến cho các em một sân chơi vô cùng bổ ích, lý thú. Các em có cơ hội được thể hiện mình trước đám đông qua lời ca, tiếng hát, điệu múa nhịp nhàng của mình. Đây là dịp để nhà trường lựa chọn những em thực sự có năng khiếu về âm nhạc làm nồng cốt để tham gia các hội thi: “Khăn quàng thắm mãi vai em”, “Tiếng hát học đường”, “Tiếng hát họa mi”... và nhiều năm liền đạt giải nhất. 2.2 Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi cũng còn gặp một số bất cập sau: - Học sinh tiếp thu còn thụ động, không tạo cho mình được tính mạnh dạn khi biểu diễn, vẫn còn sợ, còn rụt rè, chưa tự tin. - Một số học sinh điều kiện học tập chưa được đầy đủ, ít được quan tâm, hiểu biết về âm nhạc đang còn hạn chế, chưa sâu rộng, không kích thích các em học tập. - Một số em khả năng cảm nhận âm nhạc chưa cao, tầm cử giọng còn hẹp nên gặp khá nhiều khó khăn trong quá trình học hát. - Thời gian dành cho bộ môn chưa nhiều (1tiết/ tuần) - Một số phụ huynh, học sinh chỉ quan tâm đến các môn học chính như Tiếng Việt, Toán... mà chưa quan tâm đến bộ môn Âm nhạc cứ nghĩ rằng đây chỉ là môn học phụ. 3. Khảo sát kết quả về phân môn Học hát: Dựa vào cơ sở lý luận đã có cùng với thời gian giảng dạy, tôi đã tìm hiểu khả năng học tập phân môn Học hát của học sinh khối 5. Bằng việc quan sát thực tế các giờ học tôi nhận thấy việc tiếp thu các kiến thức phân môn Học hát và sự yêu thích học tập phân môn này chỉ rơi vào một số em có năng khiếu. Còn lại một số em khác năng khiếu Học hát chưa tốt nên ít có sự sáng tạo trong khi thể hiện. Trên cơ sở đặt câu hỏi qua phiếu điều tra trắc nghiệm: Em có thích học phân môn Học hát không? Em có thực sự mạnh dạn và tự tin khi biểu diễn bài hát? Phương pháp dạy của cô giáo như thế nào? Kết quả thu được như sau: NGUYÊN NHÂN KẾT QUẢ LỚP 5A LỚP 5B LỚP 5C Em thích học phân môn Học hát 25/33 = 75,8% 27/35 = 77,1% 28/34= 82,4% Do em thực sự mạnh dạn, tự tin khi biểu diễn bài hát. 15/33 = 45,5% 18/35 =51,4% 16/34=47,1% Do cô dạy dễ hiểu, hay 28/33 = 84,8% 29/35 = 82,9% 27/34=79,4% 7 Qua điều tra khảo sát về kết quả học tập dối với phân môn Học hát cho thấy đại đa số các em rất thích học phân môn này. Bên cạnh những em có phong cách trình bày tự nhiên và khá thoải mái vẫn còn một số em chưa thực sự mạnh dạn, tự tin, chỉ hát với tính chất thuộc lòng, gần đúng giai điệu, chưa thể hiện tốt tính chất của bài hát. 4. Giải pháp: 4.1 Tạo hứng thú cho học sinh: - Để có một tiết học Âm nhạc nói chung và giờ học hát nói riêng hiệu quả trước hết người giáo viên phải gây hứng thú cho học sinh ngay từ giây phút đầu tiên khi bước chân vào lớp học bằng cách trang trí không gian lớp học theo đúng đặc trưng của bộ môn. Gồm: Tranh, ảnh các nhạc cụ dân tộc và nhạc cụ nước ngoài, chân dung một vài nhạc sĩ nổi tiếng của Việt Nam và thế giới, bảng tổng hợp kiến thức âm nhạc, đàn Pi-a-no, một số nhạc cụ gõ khác - Khởi động tiết học bằng một bài hát, một trò chơi hay một câu truyện kể âm nhạc - Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học phải hấp dẫn, thu hút sự chú ý và gây hứng thú học nhạc của học sinh. - Chia lớp học thành nhiều nhóm với các tên gọi ngộ nghĩnh như: Nhóm Sơn Ca, nhóm Họa Mi, nhóm Vàng Anh để thuận tiện trong quá trình giáo viên gọi các nhóm biểu diễn cũng như các em nhận xét các nhóm lẫn nhau. Bên cạnh đó tạo cho các em có cơ hội giúp đỡ lẫn nhau. Những em có năng khiếu thực sự, mạnh dạn tự tin khi biểu diễn sẽ giúp các bạn còn rụt rè, ngại thể hiện mình trước tập thể được hoàn thiện mình hơn. Tạo nên không khí lớp học sôi động, nhịp nhàng và đồng đều hơn. - Khi lên lớp với mục đích nhằm truyền đạt kiến thức âm nhạc cơ bản cho học sinh. Để khai thác năng khiếu của học sinh, khơi dậy ở các em sự ham hiểu biết, trí tò mò về thế giới âm nhạc. Học sinh có thể đặt các câu hỏi liên quan trong bài học hoặc trong cuộc sống hằng ngày... 4.2 Phương pháp dạy của giáo viên: - Trước tiên giáo viên không chỉ biết hát hay, đàn giỏi mà còn phải có nghệ thuật sư phạm và kĩ năng nghề nghiệp tốt. - Thường xuyên đổi mới để áp dụng và lựa chọn các phương pháp dạỵ học trong giờ dạy sao cho hợp lý đối với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh để các em không cảm thấy bị nhàm chán trong tiết học. - Luôn trau dồi trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kĩ năng nghề nghiệp. Học hỏi những phương pháp hay ở các bạn đồng nghiệp. - Quán xuyến lớp tốt và phát hiện những em có năng khiếu để bồi dưỡng cũng như những em còn chậm để hướng dẫn và kèm cặp thêm. - Một số em còn mắc nhược điểm rất phổ biến là hát theo thói quen, hát tự do, tuỳ tiện không theo một giai điệu cụ thể. Vì vậy người giáo viên phải từng bước giúp các em có được sự tự tin, nắm được các kiến thức, các kỹ năng cơ bản 8 của việc học hát từ đó giúp các em phát triển tai nghe và khả năng thể hiện các tính chất Âm nhạc. - Phải xây dựng nề nếp, xác định thái độ, ý thức học tập ngay từ bài học đầu tiên. - Ở lớp 5, các kỹ năng ca hát như: Tư thế ngồi hát, phát âm, nhả chữ, nghe và cảm nhận âm nhạc, tầm cữ giọng... được duy trì và nâng cao hơn một bước. Vì vậy, giáo viên phải nắm vững các phương pháp và các bước trong giảng dạy để truyền thụ cho các em các kiến thức của bài học cũng như phát triển các kĩ năng đã có của các em một cách tốt nhất. 4.3 Phối hợp với phụ huynh: - Giáo viên cần phối hợp với phụ huynh để giúp các em có năng khiếu âm nhạc phát huy năng lực, sở trường của mình để không chỉ hoàn thành tốt bộ môn âm nhạc mà còn tham gia vào câu lạc bộ “Tiếng hát họa mi” cũng như các phong trào văn hóa văn nghệ trong và ngoài nhà trường. - Bên cạnh đó, nhằm giúp các em chưa thực sự có năng khiếu về âm nhạc, có ý thức học môn âm nhạc chưa cao, việc chuẩn bị đồ dùng học tập, sách vở theo yêu cầu của giáo viên chưa đầy đủ. Giáo viên sẽ báo với phụ huynh để họ đốc thúc, nhắc nhở, kèm cặp con em mình thêm. - Thông qua công tác này giáo viên sẽ giúp phụ huynh và học sinh thấy được tầm quan trọng của bộ môn âm nhạc trong quá trình hình thành và giáo dục nhân cách hoàn thiện cho học sinh. Không còn tư tưởng coi đây chỉ là môn phụ. Để tháo gỡ những vấn đề còn vướng mắc trên tôi xin mạnh dạn đưa ra một số phương pháp dạy học như sau: 4.4 Xây dựng phương pháp dạy hát: 4.4.1 Phương pháp luyện thanh: - Luyện thanh ở đầu tiết học hát có tác dụng khởi động, làm mềm mại cơ quan cảm âm và phát âm của các em. Học sinh sẽ nhạy cảm với việc nghe đúng, hát đúng cao độ, phát âm và nhả chữ. Luyện thanh đơn giản chỉ tiến hành 2 - 3 phút với một thang 5 âm hoặc một vài quãng giai điệu đặc trưng của bài hát, sử dụng vài nguyên âm. VD: 2 mẫu luyện thanh đơn giản dưới đây: Giáo viên đánh đàn cho học sinh luyện thanh, mẫu 1 giáo viên đánh ở giọng C- dur sau đó đàn lên giọng D- dur: R M F M R cứ thế khi thấy học sinh đọc cao độ vừa phải giáo viên lại đánh thấp giọng xuống. Mẫu 2 thực hiện tương tự. Các em chỉ nên hát với âm lượng từ nhỏ, tới mạnh vừa Hình thức luyện thanh khác có thể bắt nhịp cho học sinh hát một bài tập thể. 4.4.2 Phương pháp uốn nắn những sai sót cho học sinh: 9 Học sinh tập hát có sai sót là điều thường thấy, nhất là em ít tham gia ca hát, hát bài khó cũng làm các em bối rối. Bởi vậy giáo viên không nên nôn nóng, vội vàng. Sửa chữa có nhiều thủ pháp giáo viên không làm cho học sinh luống cuống và mặc cảm, cần giúp đỡ học sinh để các em cảm thấy thoải mái vượt qua khó khăn, nhất là đối với những học sinh yếu. Sau đó có thể kết hợp việc hát mẫu hoặc dùng đàn cho rõ ràng hơn với sự hỗ trợ của các hình dấu trên bảng hay thị phạm bằng tay gợi cho các em hiểu các âm như: “cao –thấp”, “trầm- bỗng”, “ngắn- dài”, “luyến”, “ngắt” Giáo viên tập cho học sinh cách lấy hơi và dùng hơi hợp lý. Bằng việc giáo viên phân câu, phân đoạn và kí hiệu lấy hơi sau mỗi câu hoặc ở các dấu lặng chính xác. Về phía phát âm thì với học sinh chúng ta hiện nay phát âm vẫn còn sai nhiều do tiếng địa phương ở các từ như: Xanh, anh. Do vậy đòi hỏi giáo viên phải sửa sai cho học sinh về cách phát âm trong khi hát. Muốn làm tốt điều đó giáo viên phải phát âm chuẩn, hát chuẩn. 4.4.3 Phương pháp dạy hát hoà hợp tập thể: - Trong giờ học hát chúng ta vẫn thấy học sinh hát còn chưa được đều, em hát to, em hát nhỏ, hát sớm, hát chậm. Hình thức hát tập thể như: Đồng ca, tốp ca, hợp xướng, hòa giọng Giáo viên cần phải phân tích và giáo dục học sinh biết biểu hiện tính thống nhất và sức mạnh của tập thể trong tiếng hát chung, đó là tiếng hát hoà hợp là hát đều về nhịp điệu, về âm lượng. Giáo viên cần thường xuyên khích lệ những em rụt rè, chưa quen hoạt động tập thể, đồng thời sự tập luyện thường xuyên chắc chắn sẽ tạo được những ý thức và kĩ năng hát hoà hợp trong tập thể. 4.4.4 Phương pháp dạy hát bài mới: Sau khi luyện thanh khởi động giọng, giáo viên giới thiệu và dẫn dắt bài hát bằng những từ ngữ dùng để mô tả các hình ảnh sinh động trong bài hát ra, phải cho các em nghe giai điệu bài hát thông qua đĩa nhạc. Giáo viên nên trực tiếp hát mẫu trên nền nhạc không lời cho các em nghe kết hợp thể hiện cả các động tác phụ hoạ nhằm giúp các em cảm nhận được giai điệu, tính chất của bài hát. Hơn nữa, việc giáo viên làm mẫu trực tiếp còn gây được sự hứng thú chú ý hơn cho học sinh. Các em còn nhỏ, khả năng nhận thức chủ yếu theo bản năng và cảm tính. Do đó, cho các em nghe hát mẫu và đọc đồng thanh lời ca của bài hát, việc giải nghĩa và luyện đọc những từ khó sẽ giúp các em hiểu được ý nghĩa của lời ca là việc làm không thể thiếu. Việc đọc lời ca theo tiết tấu sẽ giúp các em phần nào cảm nhận được tính chất nhịp điệu của bài, người giáo viên chỉ cần hướng dẫn rõ thêm một chút là các em có thể hình dung được những chỗ ngân hay nghỉ sau mỗi câu của bài hát. Việc lấy giọng một bài hát cụ thể, phù hợp đúng tầm cữ chung cho cả lớp là hết sức quan trọng, điều đó giúp các em dễ dàng điều khiển giọng hát của mình đúng cao độ của bài. Khi các em hát được lời ca và giai điệu của bài, để giúp cho việc luyện tập củng cố, khắc sâu bài học giáo viên phải giúp các em vừa hát, vừa gõ đệm 10 nhạc cụ để tạo sự sinh động của bài hát và giúp các em giữ được nhịp độ của bài mà không bị cuốn nhanh. Việc sử dụng các nhạc cụ để gõ đệm theo khi hát làm cho bài hát sinh động, gây hứng thú và tránh được sự nhàm chán đơn điệu của tiết học. Thông thường, có 3 cách gõ đệm để luyện tập củng cố bài hát đó là: Hát gõ đệm theo nhịp, hát gõ đệm theo phách và gõ đệm theo tiết tấu lời ca. Tuy nhiên tuỳ theo từng bài hát cụ thể mà vận dụng cho phù hợp. Sau khi nắm được cơ bản giai điệu của bài hát giáo viên phải tổ chức cho học sinh thể hiện theo các hình thức đơn ca, song ca hoặc tốp ca và động viên, khuyến khích các em là hết sức quan trọng cho dù các em có thể chưa thực hiện được bài hát một cách chính xác và tốt nhất. 4.4.5 Phương pháp luyện tập, củng cố bài cũ: Bắt đầu ở tiết thứ hai, việc chỉnh sửa cao độ, tiết tấu của từng câu hát phải được giáo viên hướng dẫn các em thực hiện đúng nguyên tắc cơ bản. Thông thường học tiết hai tiếp theo là sau khoảng thời gian một tuần. Việc nhớ lại hoàn toàn giai điệu của bài hát không phải học sinh nào cũng làm được. Giáo viên phải lấy giọng cho các em, lại phải thực hiện hát mẫu hoặc cho các em nghe bài hát qua băng để các em nhớ lại giai điệu của bài. Giáo viên dạo đàn, học sinh hát lại bài hát và phát hiện những câu, những từ trong bài hát chưa đúng để sửa chữa cho các em. Khi các em thực hiện đúng cao độ của các câu hát trong bài, việc tiếp theo là giúp các em luyện tập, củng cố. Giáo viên cần đưa ra những yêu cầu, phải nêu rõ những nhiệm vụ mà các em phải thực hiện khi luyện tập bắt đầu từ từng nhóm, từng cá nhân. Giáo viên lắng nghe, chữa từng lỗi sai sót nhỏ của các em, cũng có thể dùng đàn tấu các câu các em hát chưa đúng đó để các em nghe và tự sửa lỗi cho mình. Việc củng cố lại bài hát không chỉ ở việc hát lại lời hát mà còn thực hiện theo một số phương pháp khác, như gõ đệm nhạc cụ nhẩm theo tiết tấu, giáo viên đàn giai điệu, học sinh gõ, nhẩm theo tiết tấu. Nhắc lại tính chất nhạc điệu của bài. Hát, gõ đệm nhạc cụ theo 3 cách. Các hình thức luyện tập này vừa hiệu quả lại vừa thu hút học sinh tham gia. Yêu cầu là giáo viên phải nêu và giao rõ nhiệm vụ cho các em. Tóm lại, phương pháp luyện tập củng cố một bài hát là hết sức đa dạng, tuỳ theo từng thời điểm, từng bài mà giáo viên sử dụng, lựa chọn một phương pháp thích hợp. Dù có thực hiện phương pháp nào thì giáo viên vẫn phải luôn sử dụng nhạc cụ để giúp các em cảm nhận thực sự những âm thanh và đặc biệt là gây sự hứng thú cho các em. 4.4.6 Hướng dẫn học sinh biểu diễn bài hát: Sau khi các em đã thực hiện chuẩn xác giai điệu, tiết tấu của bài hát, để khắc sâu trong tâm trí các em và để thể hiện bài hát thêm sinh động, giáo viên phải hướng dẫn các em thực hiện phụ hoạ cho bài hát, chỉ cần đơn giản nhưng phù hợp thì hiệu quả đem lại mới cao. Một số bài giáo viên có thể dạy học sinh một vài động tác múa đơn giản, phù hợp để các em có thêm những lựa chọn khi biểu diễn bài hát. Thông qua những tiết học như vậy học sinh sẽ có những áp dụng sáng tạo trong những lần hội diễn văn nghệ trong nhà trường, các hoạt động ngoại khoá. 11 - Học sinh tự chọn động tác phụ hoạ cho bài hát: Học sinh có thể nghĩ ra động tác phù hợp với nội dung bài hát và tập trình bày cho đều, đẹp. - Tuy nhiên để sự sáng tạo đạt hiệu quả cao, giáo viên cần tạo điều kiện về thời gian cho học sinh chuẩn bị. Thông thường giáo viên thông báo trước một tuần để học sinh chọn nhóm và tập cách trình bày, biểu diễn bài hát. 4.4.7 Hát kết hợp với chơi trò chơi: Sau khi hát đúng giai điệu của bài hát giáo viên hướng dẫn học sinh chơi trò chơi. giáo viên làm kí hiệu tay theo các nguyên âm: A, U, I, O. Khi giáo viên đưa tay theo kí hiệu, học sinh hát giai điệu chỉ với các chữ cái theo đúng kí hiệu giáo viên hướng dẫn trước lớp. *Ví dụ 1: Bài hát: Reo vang bình minh Câu 1, giáo viên đưa tay kí hiệu chữ A, học sinh hát "A" theo giai điệu của câu 1. “A a a, a a a, á a a a à a” Câu 2, giáo viên đưa tay kí hiệu chữ U, học sinh hát "U" theo giai điệu của câu 2. “U ù, u u u ,u u u,u ú ù u u u” Giáo viên tiếp tục thay đổi các kí hiệu khác cho đến hết bài hát. Trò chơi này giúp các em thay đổi không khí học tập, đồng thời để kiểm tra việc ghi nhớ giai điệu bài hát của học sinh . - Trò chơi "Ai nhanh tai hơn” Sau khi học xong bài hát giáo viên sử dụng đàn đánh giai điệu một tiết nhạc bất kì cho học sinh nghe và hát lời ca câu nhạc đó. Trò chơi này giúp học sinh nhanh thuộc lời ca, phát triển tai nghe. - Trò chơi “Tìm bài hát theo chủ đề” Con vật, nhà trường, mẹ, mùa xuân Việc kết hợp tổ chức một trò chơi trong giờ học hát vừa giúp học sinh nắm kiến thức chắc hơn, sâu hơn, nhanh hơn, vừa tạo ra không khí sôi nổi cho giờ học hát, tạo hứng thú cho học sinh học môn Âm nhạc cũng như học các môn học khác. 4.4.8 Sáng tác lời mới: Đối với những bài hát có tiết tấu tương đối đơn giản, giai điệu dễ giáo viên có thể khuyến khích các em tìm lới ca mới dựa trên giai điệu nhạc của bài hát đó. Rất nhiều em học sinh có năng khiếu và làm tốt việc này. 5. Kết quả đạt được: Với sự áp dụng các giải pháp nói trên, tôi nhận thấy không khí lớp học sinh động, sôi nổi hẳn lên. Đa số học sinh đều rất hứng thú học tập, qua quá trình theo dõi đánh giá thường xuyên các em đã hoàn thành môn học hát với kết quả rất cao. Đặc biệt đã động viên và khuyến khích kịp thời những em chưa mạnh dạn, chưa tự tin ngày càng có niềm đam mê với âm nhạc hơn và tỏ ra có năng khiếu về phân môn. * Năm học 2017- 2018: LỚP SỐ HS HTT HT CHT 12 5A 33 18/ 33 = 54,5 % 15/ 33= 45,5 % 0/ 33 = 0 % 5
Tài liệu đính kèm: