Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc Lớp 2 theo hướng đổi mới

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc Lớp 2 theo hướng đổi mới

PHẦN THỨ NHẤT. ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Lý do chọn đề tài:

 Như chúng ta đã thấy, việc đổi mới chương trình phổ thông tổng thể là một vấn đề nóng hổi đang được cả nước quan tâm. Trong đó giáo dục bậc tiểu học đóng vai trò rất quan trọng. Để đạt được mục đích đó, việc dạy đủ các môn học là yêu cầu không thể thiếu được nhằm góp phần giáo dục học sinh phát triển toàn diện. Đọc là một kỹ năng quan trọng hàng đầu của con người, không biết đọc con người không thể tiếp thu được nền văn minh của nhân loại, không thể sống một cuộc sống bình thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Nhờ biết đọc, con người có thể tự học, học nữa, học mãi, học suốt đời. Chính vì vậy, dạy đọc ở trường phổ thông, nhất là các lớp đầu cấp rất quan trọng.

Bộ Giáo dục và Đào tạo có quan điểm chỉ đạo đổi mới chương trình và phương pháp dạy Tập đọc theo hướng giao tiếp. Điều này phù hợp với xu thế chung của thời đại. Đổi mới cả về cấu trúc và cách lựa chọn nội dung, việc lựa chọn nội dung được mềm hoá, linh hoạt và đa dạng hơn trước. Cách thực hiện chương trình cũng được mềm hoá, không cứng nhắc như trước đây.

Nhìn dưới góc độ giao tiếp, có thể thấy Tiếng Việt 2 lựa chọn khá "đắt" các bài đọc. Những chủ đề, chủ điểm được đưa vào sách rất gần gũi với học sinh, từ những nghi thức lời nói đến các kỹ năng làm việc và giao tiếp cộng đồng như lập danh sách lớp, tra mục lục sách, đọc thời khoá biểu, lập thời gian biểu, viết thư, gọi điện làm đơn, khai lý lịch. Đặc biệt, dạy Tập đọc theo định hướng giáo tiếp là rèn cho học sinh các kỹ năng đọc (đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc hiểu, đọc diễn cảm), nghe và nói. Bên cạnh đó, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ bằng cách nêu ví dụ cho học sinh hiểu, đặt câu với từ cần giải nghĩa, tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa với từ cần giải nghĩa, miêu tả sự vật đặc điểm biểu thị ở từ ngữ cần giải nghĩa. Ngoài ra, học sinh cần hiểu nội dung, ý nghĩa của câu chuyện bài văn bài thơ.

Tự hào là người giáo viên tiểu học, người trực tiếp đưa chương trình sách mới tiểu học vào thực tiễn, đem những đổi mới, hiện đại đến với học sinh tiểu học nhằm đưa chất lượng giáo dục tiểu học lên một tầm cao mới, chúng tôi, những người đang giảng dạy chương trình sách mới thấy rõ những ưu điểm nổi trội của sách mới và cũng thấy được những đòi hỏi cao đối với người dạy về việc phát huy triệt để ưu thế cuả sách mới, phát triển khả năng của học sinh ở mức độ cao nhất.

Bởi vậy, để tránh những lúng túng và khó khăn trong dạy học, bởi sự mới lạ của sách mới, giúp người dạy, người học tiếp cận và nhanh chóng làm quen với toàn bộ chương trình tiểu học mới, dạy và học sáng tạo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học, tôi đã lựa chọn nghiên cứu môn Tập đọc - môn học tạo đà cho mọi môn học ở bậc tiểu học, với đề tài "Một số biện pháp dạy Tập đọc lớp 2 theo hướng đổi mới".

 

doc 39 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 05/03/2022 Lượt xem 1198Lượt tải 3 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy Tập đọc Lớp 2 theo hướng đổi mới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh trong lớp được luyện đọc và có sự kiểm soát lẫn nhau khi đọc. Sau khi đọc xong, các nhóm tự báo cáo, nhận xét phần đọc của nhóm mình.
Ở lần luyện đọc đoạn lần 1, giữ hình thức cũ là đọc nối tiếp đoạn cá nhân trước lớp, cả lớp đọc thầm theo, từ đó học sinh phát hiện câu dài. Khi luyện đọc câu dài, giáo viên không áp đặt cách ngắt hơi theo mẫu mà cho học sinh ngắt hơi theo cảm nhận của mình, học sinh nghe và tự chọn cách ngắt hơi hay và hợp lí. 
Đến lần đọc đoạn lần 2, giáo viên chọn 1 trong 2 hình thức tùy thời gian: Cách 1: cho học sinh đọc nối tiếp đoạn theo nhóm, học sinh đọc, nghe bạn đọc và sửa cho nhau. 
Cách 2: các nhóm đọc đồng thanh nối tiếp đoạn trước lớp. Thậm chí nếu có nhiều thời gian (với những bài Tập đọc dạy trong 2 tiết) giáo viên có thể thực hiện cả 2 hình thức trên.
Phần luyện đọc diễn cảm: sau khi cho học sinh nghe đọc mẫu, hướng dẫn giọng đọc, từ ngữ nhấn giọng, giáo viên tổ chức cho học sinh luyện diễn cảm trong 2 phút, có thể đọc thầm cá nhân, hoặc đọc theo nhóm đôi để học sinh tự sửa cho nhau cách đọc, rồi mới tổ chức thi đọc trước lớp.
Thay đổi nội dung, ngữ liệu bài Tập đọc:
Như đã phân tích thực trạng dạy Tập đọc ở trên, nhiều bài Tập đọc có câu hỏi chưa phù hợp, chưa tường minh, chưa phát triển năng lực cho học sinh. Nên việc thay đổi, chỉnh sửa nội dung câu hỏi cho phù hợp, thêm câu hỏi gợi mở là một biện pháp để giúp học sinh học tốt phần tìm hiểu bài và phát huy năng lực cho học sinh. Ví dụ:
Bài Tập đọc “Phần thưởng” (tr14-sgk)
Đổi câu hỏi 4: “Khi Na được phần thưởng, những ai vui mừng? Vui mừng như thế nào?” lên trước câu hỏi 3: “Em có nghĩ rằng Na xứng đáng được thưởng không? Vì sao?”
Sửa câu hỏi 4 thành 2 câu hỏi: “Khi Na được phần thưởng mọi người cảm thấy thế nào? Dựa vào đâu em biết điều đó?”
Bài Tập đọc “Trên chiếc bè” (tr 35-sgk)
Sửa câu hỏi 3 thành 2 câu hỏi: “Thái độ của các con vật đối với hai chú dế như thế nào? Những từ ngữ nào nói lên điều đó?”
Bài “Ngôi trường mới” (tr 51-sgk):
Câu hỏi 2: “Tìm những từ ngữ tả vẻ đẹp của ngôi trường?” Câu hỏi này không phát triển năng lực cho HS vì trong câu hỏi đã kết luận luôn ngôi trường đẹp. Nên thay đổi câu hỏi này thành 2 câu hỏi: “Tìm những từ ngữ tả ngôi trường mới. Qua đó em có cảm nhận gì về ngôi trường mới?”
Bài “Người thầy cũ” (tr 57-sgk)
Câu hỏi 2: “Khi gặp thầy giáo cũ, bố của Dũng thể hiện sự kính trọng như thế nào?” Câu hỏi này không phát triển năng lực cho HS vì trong câu hỏi đã kết luận luôn bố Dũng kính trọng thầy. Nên thay đổi câu hỏi này thành 2 câu hỏi: “Khi gặp thầy giáo cũ, bố Dũng làm gì? Hành động của bố Dũng thể hiện điều gì?”
Bài “Cây xoài của ông em” (tr 90-sgk)
Câu hỏi 4 sửa thành 2 câu: “Ăn quả xoài cát chín nhà mình, bạn nhỏ có suy nghĩ gì? Vì sao bạn nhỏ lại nghĩ như vậy?” Thay đổi câu hỏi như vậy sẽ tạo được sự liên kết giữa các ý hợp lí hơn. 
Bài “Quà của bố” (tr107-sgk)
Câu hỏi 3: “Những từ ngữ nào, câu nào cho thấy các con rất thích những món quà của bố?” thay thành 2 câu: “Khi nhận được những món quà của bố, các bạn nhỏ cảm thấy thế nào? Từ và câu nào cho con biết điều đó?”
Bài “Gà tỉ tê với gà “ (tr 142-sgk)
Câu hỏi 2 khó với học sinh do cách hỏi không tường minh. Giáo viên thay bằng 3 câu hỏi: “Gà mẹ báo cho con biết không có gì nguy hiểm bằng cách nào? Gà mẹ báo cho gà con biết có mồi ngon bằng cách nào? Gà mẹ báo cho gà con biết có tai họa bằng cách nào?”
Bài “Nội quy đảo Khỉ” (tr 44-sgk)
Câu hỏi 2: “Em hiểu những điều quy định nói trên như thế nào?” Câu hỏi này không tường mình, chưa rõ ý. Vậy cần thay câu hỏi này thành: Những điều trong nội quy yêu cầu du khách lên đảo phải thực hiện những việc gì?”
Bài “Bé nhìn biển” (tr 65-sgk)
Câu hỏi 1 và 2: “Tìm những câu thơ cho thấy biển rất rộng? Những hình ảnh nào cho thấy biển giống trẻ con?” không phát triển năng lực cho HS vì trong câu hỏi đã nêu luôn ý chính của bài. Cần sửa 2 câu hỏi này thành: “Tìm những câu thơ tả cảnh biển, bãi biển, sóng biển? Qua những câu thơ trên, em có cảm nhận gì về biển?”
Bài “Cháu nhớ Bác Hồ” (tr105-sgk)
Câu 2: “Vì sao bạn nhỏ phải cất thầm ảnh Bác?” và câu 3: “Hình ảnh của Bác hiện lên như thế nào qua 8 dòng thơ đầu?” nên đảo vị trí câu 3 hỏi trước, câu 2 hỏi sau. Câu 4: “Tìm những chi tiết nói lên tình cảm kính yêu Bác Hồ của bạn nhỏ?” nên thay bằng câu hỏi phát triển năng lực hơn: “Qua bài thơ con thấy tình cảm bạn nhỏ dành cho Bác Hồ như thế nào?”
Bài “Lượm” (tr131-sgk)
Câu hỏi 1: “Tìm những nét ngộ nghĩnh, đáng yêu của Lượm trong 2 khổ thơ đầu?” thay thành: “Trong 2 khổ thơ đầu chú bé Lượm được miêu tả như thế nào? Qua những hình ảnh đó em có nhận xét gì về Lượm?”
3. Sử dụng các kĩ thuật dạy học mới để hướng dẫn tìm hiểu bài:
	Trong dạy học hiện nay, việc sử dụng các kĩ thuật dạy học mới đã bắt đầu phổ biến ở các nhà trường, các lớp học. Việc áp dụng các kĩ thuật dạy học mới vừa có tác dụng phát triển năng lực cho học sinh, tạo điều kiện cho HS được hoạt động, đồng thời mang lại sự tươi mới, hấp dẫn cho tiết học. Những kĩ thuật dạy học thường được áp dụng nhiều nhất trong các tiết Tập đọc là: kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật mảnh ghép, kĩ thuật sử dụng sơ đồ tư duy. 
Kĩ thuật khăn trải bàn:
Là hình thức tổ chức hoạt động mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm:
Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực
Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS
Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS
Cách tiến hành kĩ thuật “Khăn trải bàn”
Hoạt động theo nhóm (4 học sinh / nhóm) (có thể nhiều học sinh hơn)
Mỗi học sinh ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa
Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...)
Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề...). Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút
Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống nhất các câu trả lời
Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (giấy A0)
Một vài ý kiến cá nhân với kĩ thuật “Khăn trải bàn”
Kĩ thuật này giúp cho hoạt động nhóm có hiệu quả hơn, mỗi học sinh đều phải đưa ra ý kiến của mình về chủ đề đang thảo luận, không ỷ lại vào các bạn học khá, giỏi.
Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với một chủ đề nhỏ trong tiết học, toàn thể học sinh cùng nghiên cứu một chủ đề.
Sau khi các nhóm hoàn tất công việc giáo viên có thể gắn các mẫu giấy “khăn trải bàn” lên bảng để cả lớp cùng nhận xét. Có thể dùng giấy nhỏ hơn, dùng máy chiếu phóng lớn
Có thể thay số bằng tên của học sinh để sau đó giáo viên có thể đánh giá được khả năng nhận thức của từng học sinh về chủ đề được nêu.
Trong dạy học Tập đọc, tôi thường sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn trong phần tìm hiểu bài, với những câu hỏi khó. Ví dụ:
Bài “ Làm việc thật là vui” (tr16-sgk):
Câu hỏi 1: “Các vật và con vật xung quanh ta làm những việc gì?”. Đây là câu hỏi bao quát gần như nội dung cả bài, để trả lời câu hỏi này, HS phải tìm nhiều ý trong bài nên rất có thể tìm thiếu, tìm sai. Vì vậy, với câu hỏi này giáo viên cho HS làm việc cá nhân trong 2 phút: đọc thầm, tìm ý và gạch vào sgk. Sau đó HS thảo luận nhóm 3 phút: nêu các ý mà mình tìm được. Nhóm sẽ tổng hợp các ý kiến cá nhân thành ý kiến chung để trình bày.
Bài “Cây dừa” (tr 89-sgk)
Câu hỏi 1: “Các bộ phận của cây dừa (lá, ngọn, thân, quả) được so sánh với những gì?” Đây là câu hỏi khó và có nhiều hình ảnh so sánh cần tìm, nếu học sinh trả lời cá nhân thì sẽ không trả lời đầy đủ. Vì vậy, giáo viên cho học sinh làm việc các nhân 2 phút, tìm các hình ảnh so sánh và gạch vào sách. Sau đó các em sẽ thảo luận nhóm trong 2 phút nữa để tổng hợp ý kiến chung.
Kĩ thuật mảnh ghép:
Là hình thức học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm:
Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp (có nhiều chủ đề)
Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh:
Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả vòng 1 và hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 2).
*Cách tiến hành kĩ thuật “Các mảnh ghép”
VÒNG 1: Nhóm chuyên gia
Hoạt động theo nhóm 3 đến 8 học sinh [số nhóm được chia = số chủ đề x n (n = 1,2,)]
Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ [Ví dụ : nhóm 1 : nhiệm vụ A; nhóm 2: nhiệm vụ B, nhóm 3: nhiệm vụ C,  (có thể có nhóm cùng nhiệm vụ)]
Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu hỏi, chủ đề và ghi lại những ý kiến của mình.
Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở thành “chuyên gia” của lĩnh vực đã tìm hiểu và có khả năng trình bày lại câu trả lời của nhóm ở vòng 2
VÒNG 2: Nhóm các mảnh ghép
Hình thành nhóm 3 đến 6 học sinh mới (1 – 2 học sinh từ nhóm 1, 1 – 2 học sinh từ nhóm 2, 1 – 2 học sinh từ nhóm 3)
Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên trong nhóm mới chia sẻ đầy đủ với nhau
Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu được tất cả nội dung ở vòng 1 thì nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết
Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ, trình bày và chia sẻ kết quả
*Một vài ý kiến cá nhân với kĩ thuật “Các mảnh ghép”
Kĩ thuật này áp dụng cho hoạt động nhóm với nhiều chủ đề nhỏ trong tiết học, học sinh được chia nhóm ở vòng 1 (chuyên gia) cùng nghiên cứu một chủ đề.
Phiếu học tập mỗi chủ đề nên sử dụng trên giấy cùng màu có đánh số 1,2,,n (nếu không có giấy màu có thể đánh thêm kí tự A, B, C, ... . Ví dụ A1, A2, ... An, B1, B2, ..., Bn, C1, C2, ..., Cn)
Sau khi các nhóm ở vòng 1 hoàn tất công việc giáo viên hình thành nhóm mới (mảnh ghép) theo số đã đánh, có thể có nhiều số trong 1 nhóm mới. Bước này phải tiến hành một cách cẩn thận tránh làm cho học sinh ghép nhầm nhóm
Trong điều kiện phòng học hiện nay việc ghép nhóm vòng 2 sẽ gây mất trật tự.
Trong dạy học Tập đọc, tôi thường sử dụng kĩ thuật mảnh ghép trong phần tìm hiểu bài, với những câu hỏi có nhiều ý. Ví dụ:
Bài “Tìm ngọc” (tr 139-sgk)
Câu hỏi 3: “Mèo và Chó đã làm thế nào để lấy lại viên ngọc?
Ở nhà người thợ kim hoàn.
Khi ngọc bị cá đớp mất.
Khi ngọc bị quạ cướp mất.
Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm: Nhóm 1,2 trả lời ý a. Nhóm 3,4 trả lời ý b. Nhóm 5,6 trả lời ý c - Đây chính là giai đoạn nhóm chuyên sâu. Sau đó đại diện nhóm trình bày câu trả lời của nhóm mình - Đây là giai đoạn nhóm mảnh ghép nhưng thay đổi ở chỗ: các nhóm chuyên sâu không tách nhóm để lập thành nhóm mảnh ghép mà trình bày luôn trước lớp để cả lớp theo dõi.
Bài “Vè chim” (tr 28-sgk)
Câu hỏi 2: “Tìm những từ ngữ được dùng:
Để gọi các loài chim.
Để tả đặc điểm của các loài chim.
Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận nhóm: Nhóm 1,2,3 thảo luận ý a. Nhóm 4,5,6 thảo luận ý b. Sau đó đại diện 2 nhóm báo cáo trước lớp. (như cách tổ chức ở bài “Tìm ngọc”)
Kĩ thuật sử dụng sơ đồ tư duy:
Lược đồ tư duy (còn được gọi là bản đồ khái niệm) là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của cá nhân hay nhóm về một chủ đề. Lược đồ tư duy có thể được viết trên giấy, trên bản trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính.
*Cách tiến hành
Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề.
Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề, viết bằng CHỮ IN HOA. Nhánh và chữ viết trên đó được vẽ và viết cùng một màu. Nhánh chính đó được nối với chủ đề trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên các nhánh.
Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường.
Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
*Một vài ý kiến cá nhân:
Lược đồ tư duy có thể ứng dụng trong nhiều tình huống khác nhau như:
Tóm tắt nội dung, ôn tập một chủ đề;
Trình bày tổng quan một chủ đề;
Chuẩn bị ý tưởng cho một báo cáo hay buổi nói chuyện, bài giảng;
Thu thập, sắp xếp các ý tưởng;
Ghi chép khi nghe bài giảng.
*Ưu điểm của kĩ thuật này là:
Các hướng tư duy được để mở ngay từ đầu;
Các mối quan hệ của các nội dung trong chủ đề trở nên rõ ràng;
Nội dung luôn có thể bổ sung, phát triển, sắp xếp lại;
Học sinh được luyện tập phát triển, sắp xếp các ý tưởng.
Trong dạy học Tập đọc, tôi thường sử dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy trong phần tìm hiểu bài để chốt ý từng đoạn và chốt ý toàn bài. Ví dụ:
Bài “ Chuyện bốn mùa” (tr5-sgk):
BỐN MÙA
MÙA THU
MÙA XUÂN
MÙA ĐÔNG
MÙA HẠ
Đâm chồi, nảy lộc
Đơm trái ngọt, hoa thơm
Cây lá tươi tốt
Được nghỉ hè
Bưởi chín vàng
Trăng rằm rước đèn phá cỗ
Trời xanh cao
Bếp lửa nhà sàn
Ngày tựu trường
Giấc ngủ ấm
Ấp ủ mầm sống
Bài “Cây xoài của ông em” (tr90-sgk)
Bài “Sông Hương” (tr73-sgk) 
SÔNG HƯƠNG
Đặc ân của
thiên nhiên
Đường trăng
lung linh dát vàng
Xanh non của bãi ngô
Dải lụa đào ửng hồng
Xanh biếc của cây lá
Xanh thẳm của da trời
Màu xanh có 
nhiều sắc độ
Hè tới
Đêm trăng sáng
Giải nghĩa từ bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động:
Trong một tiết dạy Tập đọc, phần giải nghĩa từ thường xuất hiện ở phần luyện đọc từ và phần tìm hiểu bài. Ở phần luyện đọc, giáo viên giải nghĩa những từ giữ nguyên nghĩa trong từ điển, không mang nghĩa văn cảnh và không phải là từ khóa của bài. Ở phần tìm hiểu bài, giáo viên giải nghĩa những từ khóa và mang nghĩa văn cảnh. Có các hình thức giải nghĩa từ như sau:
Giải nghĩa bằng cách mô tả bằng lời nói.
Giải nghĩa bằng cách mô tả bằng hành động. 
Giải nghĩa bằng từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa.
Giải nghĩa bằng cách đặt câu.
Giải nghĩa bằng cách nêu hoàn cảnh sử dụng từ.
Giải nghĩa bằng hình ảnh minh họa.
Giải nghĩa bằng video clip.
Giải nghĩa bằng vật thật.
Tùy thuộc vào nội dung và phân loại của từ, giáo viên lựa chọn hình thức giải nghĩa cho phù hợp. Nếu từ cần giải nghĩa là danh từ, chúng ta nên chọn cách giải nghĩa bằng hình ảnh, vật thật sẽ đem lại hiệu quả hơn. Nếu từ cần giải nghĩa là động từ, chúng ta có thể chọn hình thức mô tả bằng hành động hoặc xem video clip, hoặc nêu hoàn cảnh sử dụng để học sinh hình dung rõ hơn. Còn nếu từ cần giải nghĩa là tính từ, chúng ta có thể chọn hình thức mô tả bằng lời, sử dụng từ đồng nghĩa, trái nghĩa, sử dụng hình ảnhgiúp học sinh cảm nhận được các đặc điểm, tính chất đó. Tuy nhiên, trong một bài Tập đọc nên chọn nhiều hình thức giải nghĩa khác nhau để tiết học thêm sinh động và đem lại hiệu quả, giúp học sinh hiểu nghĩa từ một cách chính xác. Ví dụ như:
Bài “Cây xoài của ông em” (tr 89-sgk)
Các từ cần giải nghĩa là: lẫm chẫm, sai lúc lỉu, đu đưa, trảy,thơm dịu dàng, ngọt đậm đà, xoài thanh ca, xoài tượng, xoài cát:
Với các từ xoài thanh ca, xoài tượng, xoài cát, sai lúc lỉu, tôi chọn cách giải nghĩa bằng hình ảnh. 
Xoài tượng
Xoài thanh ca
Xoài cát
Sai lúc lỉu
Sai lúc lỉu
Với các từ lẫm chẫm, đu đưa, tôi giải nghĩa bằng video clip và mô tả bằng hành động.
 Với từ trảy tôi giải thích bằng lời: trảy nghĩa là hái quả. Còn với từ thơm dịu dàng, ngọt đậm đà, tôi sử dụng quả xoài cát chín cho học sinh ngửi và nếm thử mùi vị của nó. 
Tăng cường vận dụng thực tế, liên hệ vốn sống cho học sinh:
Biện pháp giúp giáo viên tăng cường vận dụng thực tế, liên hệ vốn sống của học sinh là đưa ra những câu hỏi liên hệ nội dung bài Tập đọc với hiểu biết, suy nghĩ, quan điểm của học sinh về những vấn đề có liên quan trong cuộc sống. Thường những câu hỏi này là những câu hỏi vận dụng nâng cao, hay còn gọi là câu hỏi mức độ 4. Hoặc sau bài Tập đọc, giáo viên có thể giao nhiệm vụ hoặc bài tập kết nối, liên hệ nội dung bài Tập đọc với những vấn đề trong cuộc sống của các em. Ví dụ như:
Bài “ Người mẹ hiền” (tr64-sgk) hoặc bài “Bà tay dịu dàng” (tr66-sgk)
Sau khi tìm hiểu nội dung bài Tập đọc, học sinh hiểu: Thầy cô giáo luôn yêu thương học sinh. Vậy sau khi học 2 bài này giáo viên cần liên hệ với bản thân học sinh bằng cách nêu câu hỏi: “Vậy để đền đáp lại tình yêu thương của thầy cô các con cần làm gì?”
Bài “Bưu thiếp” (tr80-sgk)
Sau khi học xong, học sinh hiểu được nội dung, tác dụng, cách viết bưu thiếp, cách gửi thư. Để giúp các em vận dụng bài học vào thực tế, giáo viên tổ chức cho học sinh tập viết bưu thiếp chúc mừng sinh nhật bạn trong lớp, chúc mừng thầy cô nhân ngày 20/11.
Một số giáo án dạy tập đọc theo định hướng năng lực:
KẾ HOẠCH DẠY HỌC
Môn: Tập đọc
Bài: Cây xoài của ông em
Tiết 30	Tuần 11
I/ MỤC TIÊU: Sau tiết học HS có khả năng
1.Kiến thức: 
- Hiểu nghĩa các từ khó trong bài: lẫm chẫm, trảy, sai lúc lỉu, đu đưa theo gió, thơm dịu dàng, ngọt đậm đà
- Hiểu nội dung bài: Tả vẻ đẹp và vị thơm ngon của cây xoài cát. Từ đó thể hiện tình cảm thương nhớ, biết ơn của hai mẹ con bạn nhỏ với người ông đã mất.
2. Kĩ năng:
- Đọc đúng các từ ngữ: lẫm chẫm, lúc lỉu, trảy (dự đoán).
- Ngắt, nghỉ hơi đúng sau các dấu câu, giữa các cụm từ trong câu: Ăn qủa xoài cát chín/ trảy từ cây của ông em trồng,/kèm với xôi nếp hương,/ thì đối với em/ không thứ quà gì ngon bằng.//
- Biết đọc bài văn với giọng nhẹ nhàng tình cảm, nhấn giọng ở những từ ngữ miêu tả cây xoài: trắng cành, sai lúc lỉu, đu đưa, chín vàng, to nhất.
3. Thái độ
- Có thái độ yêu quý, biết ơn ông bà của mình. 
II/ ĐỒ DÙNG DẠY HỌC
Chuẩn bị của thầy: Giáo án điện tử
Chuẩn bị của trò: Sách giáo khoa
III/ NỘI DUNG VÀ TIẾN TRÌNH TIẾT DẠY
TG
Nội dung kiến thức cơ bản
Phương pháp, hình thức
tổ chức dạy học
Hoạt động
của thầy
Hoạt động
của trò
Khởi động
Hát múa bài: Cháu yêu bà 
GV nêu yêu cầu
Cả lớp thực hiện
5p
I/ Kiểm tra bài cũ: bài “Bà cháu”
- Đọc đoạn con thích.
- Vì sao con thích đoạn này?
- Trong câu chuyện này, con thích nhân vật nào? Vì sao?
Tình cảm của hai anh em dành cho bà của mình rất sâu sắc. Hôm nay các con sẽ lại được học một bài tập đọc thể hiện tình cảm con cháu với ông bà cũng rất xúc động. Đó là bài “Cây xoài của ông em”
Nêu yêu cầu
Nhận xét
Chuyển ý, giới thiệu bài
Ghi bảng
2 HS
15p
II/ Bài mới
1. Luyện đọc
- Đọc mẫu, yêu cầu HS chú ý lắng nghe cách phát âm các từ, cách ngắt hơi các câu, giọng đọc của cô giáo.
a) Đọc nối tiếp câu:
- Đọc lần 1
- Luyện đọc từ khó: lẫm chẫm, lúc lỉu, trảy (dự kiến)
- Giải nghĩa từ: lẫm chẫm, trảy
- Đọc lần 2: Khi đọc lần 2 các con chú ý đọc đúng những từ chúng ta đã luyện.
b) Đọc nối tiếp đoạn 
- Chia bài tập đọc thành 3 đoạn
- Đọc lần 1
GV yêu cầu, đọc mẫu
GV yêu cầu
GV chiếu slide minh họa
GV yêu cầu
GV chiếu slide
Nhận xét
HS lắng nghe, đánh dấu S
HS đọc nối tiếp câu trong nhóm 5
Các nhóm nêu từ khó đọc.
2 HS đọc từ
Lớp đồng thanh
1 dãy HS đọc
HSNX (tiêu chí 1)
HS đánh dấu S
1 dãy HS đọc 
10p
- Hướng dẫn ngắt hơi câu: Ăn qủa xoài cát chín/ trảy từ cây của ông em trồng,/kèm với xôi nếp hương,/ thì đối với em/ không thứ quà gì ngon bằng.//
- Đọc lần 2: Khi đọc lần 2 các con chú ý ngắt hơi đúng các câu dài.
- Đọc lần 3
c) Đọc cả bài
Vừa rồi các con đã luyện đọc rất tốt. Bây giờ chúng mình cùng tìm hiểu nội dung của bài tập đọc nhé.
2. Tìm hiểu bài:
- Cây xoài ông trồng là loại xoài gì?
- Giới thiệu cây xoài cát. Cây xoài này có đặc điểm gì, chúng ta sẽ tìm hiểu qua câu hỏi 1.
- Tìm những hình ảnh đẹp của cây xoài cát.
GV chiếu slide
Chốt cách ngắt hơi hợp lý
GV yêu cầu
GV chuyển ý
GV hỏi
GV chiếu slide
2 HS đọc thể hiện cách ngắt hơi.
HSNX cách ngắt hơi
HS đánh dấu S
1 dãy HS đọc 
HSNX (tiêu chí 1,2)
Các nhóm đọc
HSNX
1 HS đọc
HS trả lờiHS đọc câu hỏi 1
7p
3p
- Giải thích từ: sai lúc lỉu, đu đưa theo gió
Cuối đông, hoa nở trắng cành. Đầu hè, quả sai lúc lỉu. Từng chùm quả to, đu đưa theo gió.
Cây xoài cát không những đẹp mà quả xoài cát chín ăn cũng rất ngon. Chúng mình có biết quả xoài cát chín có mùi vị và màu sắc như thế nào không? 
Mùi xoài thơm dịu dàng, vị ngọt đậm đà, màu sắc vàng đẹp.
- Giải thích từ ngữ: thơm dịu dàng, ngọt đậm đà
(Cho HS quan sát, màu sắc, ngửi mùi thơm và nếm thử vị quả xoài cát.)
- Cứ đến mùa xoài, mẹ bạn nhỏ thường thì làm gì?
- Tại sao mẹ bạn lại chọn những quả chín vàng và to nhất để bày lên bàn thờ ông? 
- Còn bạn nhỏ có suy nghĩ gì khi ăn quả xoài cát?
- Tại bạn nhỏ cho rằng quả xoài cát nhà mình là thứ quà ngon nhất?
Cây xoài này do ông vun trồng, chăm sóc nên nó gắn liền với kỉ niệm về người ông đã mất. Khi nhìn cây xoài 2 mẹ con bạ

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_day_tap_doc_lop_2_t.doc