Dạy học tập đọc ở Tiểu học là một việc làm hết sức có ý nghĩa trong việc
hình thành và phát triển kĩ năng đọc cho học sinh, nó khẳng định sự cần thiết cho
việc hình thành và phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho
học sinh.Thông qua phân môn Tập đọc mà trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn học văn và
phát triển tư duy, mở rộng vốn hiểu biết của học sinh về cuộc sống. Bồi dưỡng tư
tưởng tình cảm trong sáng, yêu cái đẹp, cái thiện, có thái độ ứng xử tốt trong cuộc
sống, yêu tiếng Việt. Bên cạnh đó theo quan điểm tích hợp các bài tập đọc còn có
nhiệm vụ cung cấp ngữ liệu để hình thành và phát triển các kỹ năng khác được quy
định trong chương trình. Các bài tập đọc đã trở thành nguyên liệu để các phân môn
khác như: Tập làm văn – Kể chuyện – Luyện từ và câu khai thác. Chính vì vậy việc
dạy phân môn Tập đọc chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Nó làm nòng cốt xuyên
suốt toàn bộ chương trình Tiểu học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng.
Từ nhiều năm nay Bộ giáo dục và đào tạo đã liên tục chỉ đạo đổi mới phương
pháp song sự chuyển biến trong phương pháp dạy học của giáo viên đang còn
chậm. Kiểu dạy học thuyết giảng đã trở thành nếp nghĩ, nếp làm của nhiều giáo
viên trong nhà trường. Thực hiện dạy Tập đọc theo phương pháp mới đòi hỏi giáo
viên phải từ bỏ một số thói quen không thích hợp như: Tham giảng bài, nói dài
dòng. Ngại sử dụng phương tiện dạy học, bệnh nói nhiều, dàn trải. Trong thực tế
giảng dạy việc tổ chức cho học sinh đọc từ, đọc câu, đọc đoạn là rất phù hợp với
lớp 2, 3. Tuy nhiên do giáo viên thiếu linh hoạt trong quá trình giảng dạy, kỹ năng
đọc của học sinh còn chậm. Việc luyện đọc từ khó – giảng từ của giáo viên còn
nhiều bất cập, nên giờ học đã kết thúc mà có khi học sinh chưa được tìm hiểu cái3/28
hay, cái đẹp, cái dí dỏm trong nội dung bài tập đọc hoặc giáo viên tham nói, tham
giảng từ dài dòng mà học sinh không được luyện đọc bài. Được trực tiếp giảng dạy
và qua dự giờ đồng nghiệp tôi nhận thấy tình trạng này diễn ra không phải là ít.
Người giáo viên cần làm gì? Làm như thế nào? để tiết học nhẹ nhàng, đem lại hiệu
quả cao trong giảng dạy Tập đọc là điều tôi còn băn khoăn, trăn trở. Thông qua
giảng dạy tôi đã tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp và một phần những việc
làm mà bản thân đã khám phá ra trong giảng dạy với một mong muốn tìm ra các
biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 để nâng cao hiệu quả giờ tập đọc. Đây chính
là lí do khiến tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm trong việc dạy Tập đọc cho học
sinh lớp 2” để nghiên cứu trong năm học này
việc sau: + Soạn bài cụ thể, chi tiết thể hiện rõ hoạt động của thầy, của trò. Xây dựng được các phương pháp dạy học truyền thống kết hợp với các phương pháp, phương tiện dạy học hiện đại một cách linh hoạt để giờ dạy nhẹ nhàng, đạt hiệu quả. + Nắm chắc yêu cầu rèn đọc ở từng bài. Đọc kĩ bài tập đọc sắp dạy, trao đổi học tập cách dạy của đồng nghiệp, dự kiến các tình huống học sinh sẽ mắc phải và cách sửa các tình huống đó. + Tìm hiểu kĩ nội dung bài để hiểu được các biện pháp nghệ thuật tác giả đã 8/28 dùng, từ đó xác định cách đọc đối với từng đoạn, từng bài để thể hiện đúng tình cảm của từng bài. + Nắm vững hệ thống câu hỏi trong bài tập đọc, đưa ra thêm những câu hỏi dẫn dắt để giúp học sinh phân tích, khai thác nội dung. 3. Biện pháp thứ ba: Giáo viên cần đọc mẫu diễn cảm: Việc đọc mẫu của giáo viên là cần thiết vì muốn học sinh đọc đúng, đọc hay giáo viên phải giới thiệu mẫu đúng. Lời đọc mẫu của giáo viên nhằm định hướng cho học sinh đọc đồng thời giúp học sinh nhận thức đúng nội dung bài học. Nếu là văn bản nghệ thuật còn có tác dụng khơi gợi hứng thú và sự tưởng tượng của học sinh – giúp các em dễ đi vào thế giới của tác giả, tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. Với văn bản nghệ thuật đọc mẫu của giáo viên là đọc diễn cảm. Còn văn bản thông thường đọc mẫu là đọc đúng. Yêu cầu đọc diễn cảm chưa đặt ra với học sinh lớp 2, nhưng nếu giáo viên biết khích lệ, động viên học sinh sẽ bắt chước thầy cô. Giáo viên đọc mẫu tốt, chuẩn mực thì không có gì đáng ngại nếu như học sinh bắt chước thầy cô. Đọc mẫu của GV bao gồm: - Đọc toàn bài: thường nhằm giới thiệu, gây xúc cảm, tạo hứng thú và tâm thế học đọc cho HS. - Đọc câu, đoạn: Nhằm hướng dẫn, gợi ý hoặc “tạo tình huống” để học sinh nhận xét, giải thích nội dung bài đọc. - Đọc từ, cụm từ: nhằm sửa phát âm sai và rèn cách đọc đúng cho học sinh Vấn đề đặt ra trước tiên, để đọc mẫu tốt, giáo viên cần tìm hiểu và cảm thụ bài văn, tìm hiểu bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh sáng tác, vị trí của tác phẩm, tác giả... tiếp đến là việc tìm hiểu nội dung, hình thức bài đọc: thể loại, bố cục, kết cấu, nghệ thuật. Hiểu được nội dung cảm thụ: cảm thụ sâu sắc, tính lôgic sẽ đọc diễn cảm tốt. Giọng đọc hay sẽ bắt đầu với cảm xúc của lòng mình, người đọc phải nhập vai lúc đó khả năng truyền cảm người nghe lớn hơn. Ví dụ: * Bài “Ông Mạnh thắng Thần Gió” - Đoạn 1: Giọng kể chậm rãi - Đoạn 2: Nhịp nhàng hơn, nhấn giọng những từ ngữ tự sự, ngạo nghễ của Thần Gió, sự tức giận của ông Mạnh – “Xô, ngã lăn quay, lồm cồm, quát, ngạo nghễ...” - Đoạn 3, 4: Đọc nhấn giọng các từ ngữ thể hiện quyết tâm chiến thắng Thần Gió của ông Mạnh; sự điềm tĩnh, kiên quyết của ông trước thái độ tức tối của Thần Gió, “quyết chống trả, quật đổ, thật vững chãi, lớn nhất, thật to, thét, không, giận dữ, lồng lộn...” 9/28 - Đoạn 5: Kể về sự thoả thuận giữa ông Mạnh và Thần Gió – Đọc với giọng kể chậm rãi, thanh bình. Đọc thơ phải nắm vững đặc trưng của thơ. Đó là tiếng nói tình cảm mãnh liệt, là sản phẩm của những rung động đột xuất, độc đáo, là kết tinh của trí tưởng tượng, phân tích. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu, tính hàm xúc trong trong thơ. Vì vậy, khi đọc thơ cần thể hiện được tình cảm tác giả gửi gắm trong từng từ, từng dòng thơ, nhịp thơ, vần thơ để truyền cảm xúc đến người nghe. Ví dụ: Nhịp điệu 2/2 trong đoạn thơ dưới đây sẽ góp phần tích cực thể hiện nét vui tươi hoạt bát của chú bé liên lạc. “Chú bé / loắt choắt Cái xắc / xinh xinh ..... Nhảy trên đường vàng. (Tố Hữu - Lượm) Ví dụ: Khi đọc bài “Cái trống trường em” (TV 2), giáo viên phải đọc những mẫu sao cho thể hiện chờ đợi, mong mỏi khi đọc các dòng thơ: “Suốt ba tháng liền” (kéo dài “Suốt”, đọc chậm “ba tháng”). Những câu sau tiếp đọc với giọng nhẹ nhàng tâm sự (khổ 3), giọng vui náo nức (khổ 4). Khi đọc mẫu, giáo viên cần giữ được tính tự nhiên của giọng đọc, tránh lên bổng xuống trầm một cách giả tạo, máy móc... Tuỳ đối tượng học sinh, giáo viên xác định các lối phát âm mà HS dễ mắc phải để định ra các tiếng, từ, cụm từ, câu khó để luyện đọc trước. Nói tóm lại, việc giáo viên đọc mẫu là rất cần thiết vì muốn học sinh đọc đúng phải giới thiệu cho các em mẫu đúng. Lời đọc mẫu đúng và hay của giáo viên có tác dụng định hướng cách đọc cho học sinh, đồng thời giúp các em nhận thức đúng hơn nội dung bài đọc. Nếu bài đọc là một văn bản nghệ thuật thì lời đọc của giáo viên còn có ý nghĩa khơi gợi hứng thú và tưởng tượng của học sinh, làm cho các em dễ đi vào thế giới của tác phẩm và thấy tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. Giáo viên cần hướng dẫn để học sinh đọc sao cho phù hợp với nội dung chính của bài văn, bài thơ. Ví dụ: biết nghỉ ngơi đúng sau các dấu câu, giữa các cụm từ đầu hay giữa các mục, các phần trong bài đọc, không đọc với nhịp nhanh, sôi nổi một bài cần đọc với giọng chậm rãi; không đọc với giọng vui vẻ một bài cần đọc với giọng trầm, buồn... Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích, mẫu hình kĩ năng đọc mà học sinh cần đạt được. Do đó yêu cầu đọc thành tiếng của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn: đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm. Giáo viên phải ổn định trật tự, tạo cho học sinh tâm thế ngồi đọc, hứng thú 10/28 nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc, giáo viên đứng ở vị trí bao quát được cả lớp, không nên đi lại trong khi đọc, cầm sách mở rộng, đọc đủ lớn để em học sinh xa nhất cũng nghe rõ và thỉnh thoảng mắt phải rời sách nhìn lên học sinh nhưng không làm cho bài đọc bị gián đoạn. Như vậy, người giáo viên khi đọc phải làm sao để “đánh thức những cảm xúc ngủ yên trong chữ nghĩa, làm cho con cá biết bơi, con chim biết bay, con người biết đi, đứng, chạy nhảy như cuộc sống ngoài đời, bởi dạy văn tức là dạy người”. Giáo viên phải làm sao để học sinh thể hiện được cảm xúc chân thành khi nghe thầy đọc thơ: “Thêm yêu tiếng hát nụ cười Nghe thơ em thấy đất trời đẹp hơn 4. Biện pháp thứ tư: Cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, ngữ: 4.1. Cho học sinh đọc từ chú giải lúc nào cho hợp lý? Nhiều ý kiến cho rằng, việc cho học sinh đọc từ chú giải trong sách giáo khoa là không cần thiết. Giáo viên chỉ cần nêu câu hỏi nếu học sinh giải thích được nghĩa của từ là xem như học sinh đã được đọc phần chú giải? Vậy nếu như những bài tập đọc như: “Voi nhà” Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 có 6 từ chú giải mà giáo viên cứ đặt câu hỏi lôi 6 từ ra để học sinh trả lời thì thời gian đâu để tổ chức hoạt động khác? Tạp chí thế giới trong ta nêu quan niệm: Chú giải là một bộ phận cần đọc. Đọc để ghi nhớ từ mới là tăng vốn từ cho học sinh. Đọc để nắm được cách giải nghĩa từ khi cần. Song nên tổ chức cho học sinh đọc từ chú giải lúc nào cho hợp lý? Theo tôi phần chú giải cần tổ chức cho học sinh đọc thầm, trong khi học sinh đọc thầm nối tiếp nhau từng đoạn trong nhóm là hợp lý nhất. Sau đó học sinh lại đọc thành tiếng theo nhóm trước lớp. Có thể HS đọc chú giải mà vẫn chưa hiểu nghĩa của từ GV vận dụng cơ hội này để giảng từ, nhằm mở rộng vốn từ cho học sinh. Đến bước tìm hiểu bài giáo viên vẫn còn thời cơ để kiểm tra, cũng cố nghĩa của từ (nếu cần), bằng cách đặt câu hỏi, tìm hiểu nội dung thông qua đó rút từ chìa khoá để giảng cho học sinh. Cách kiểm tra có thể yêu cầu học sinh nhắc lại nghĩa của từ, tìm từ gần nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa hoặc đặt câu với từ cần giải nghĩa. Chính ở bước này, những từ khó có thể ở địa phương các em chưa hiểu, hoặc từ chìa khoá giáo viên có thể kết hợp giảng để học sinh hiểu nội dung. 4.2. Xác định từ ngữ cần giảng trong bài như thế nào cho hợp lý: Đây là điều mà chúng tôi đưa ra bàn cãi rất nhiều. Nếu như giáo viên không biết xác định từ ngữ cần giảng thì tiết học sẽ dàn trải, thiếu trọng tâm, chiếm nhiều thời gian mà nhiệm vụ của tiết học vẫn không hoàn thành. Theo tôi các từ ngữ cần giảng trong bài tập đọc là: 11/28 + Từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa. + Từ ngữ phổ thông mà học sinh chưa quen. + Từ ngữ đóng vai trò quan trọng là “chìa khoá” để mở nội dung bài học. Trong một bài tập đọc cần xác định từ cần giảng và cách xác định từ là điều mà nhiều giáo viên còn lúng túng. Giảng ít từ khi thấy còn thiếu, giảng nhiều từ dẫn đến tham nói mất thời gian. Việc rút từ để tìm hiểu nội dung bài tập đọc là việc khó nhất trong giờ tập đọc. Theo tôi có 2 căn cứ giúp giáo viên rút từ chính xác, trọng tâm đó là: - Căn cứ vào nội dung cần truyền thụ chính là mục tiêu bài dạy. - Căn cứ tên bài (tiêu đề bài tập đọc). Giáo viên cần lưu ý việc giảng từ khó và rút từ chìa khoá hoàn toàn khác nhau. Từ khó hiểu chỉ yêu cầu học sinh đọc chú giải để hiểu nghĩa của từ. Còn từ chìa khoá là từ yêu cầu học sinh hiểu để nắm nội dung bài. Khi từ khó trùng với từ chìa khoá giáo viên ghi ở phần “tìm hiểu bài” (phần ghi bảng). Có 6 cách giải nghĩa từ: + Đặt câu với từ cần giải nghĩa. + Tìm từ đồng nghĩa. + Từ trái nghĩa. + Miêu tả sự vật, đặc điểm được biểu thị ở từ cần giải nghĩa. + Tách từ để miêu tả. + Sử dụng đồ dùng dạy hoc (vật thật, tranh ảnh) Cách tìm hiểu từ chủ yếu là phải đặt trong ngữ cảnh. Cần giới hạn việc giải nghĩa từ trong phạm vi nghĩa cụ thể bài đọc giải nghĩa, đơn giản với học sinh lớp 2 – tránh dài dòng, giải nghĩa cồng kềnh quá tải làm mất thời gian luyện đọc của HS. Ví dụ: Bài tập đọc: “Sơn Tinh, Thuỷ Tinh” Phần chú giải có 7 từ. Đó là: cầu hôn, lễ vật, ván, nộp, ngà, cựa, hồng mao. Các từ trên là từ khó hiểu nghĩa đối với các em song không phải là từ chìa khoá. Giáo viên cần căn cứ vào nội dung. Câu chuyện nhằm giải thích nạn lũ lụt ở nước ta là do Thuỷ Tinh ghen tức Sơn Tinh gây ra và nói lên tinh thần chống lũ của nhân dân nên từ chìa khoá ở đây là: đùng đùng nổi giận, cuồn cuộn, đuối sức. Việc rút từ chìa khoá của giáo viên không yêu cầu từ nào cũng phải giải nghĩa mà chủ yếu là để học sinh hiểu được nội dung bài từ đó giúp các em đọc, viết đúng; đọc hay. 5. Biện pháp thứ năm: Rèn kỹ năng đọc ngắt, nghỉ giọng đúng chỗ cho học sinh: Có 2 kiểu ngắt giọng: Ngắt giọng logic và ngắt giọng biểu cảm. Ngắt giọng logic là những chỗ dùng để tách nhóm trong câu. Ngắt giọng logic phụ thuộc vào ý nghĩa và quan hệ giữa các từ trong câu. 12/28 Ngắt giọng biểu cảm đối lập với ngắt giọng logic đó là những chỗ nghỉ lâu hơn bình thường hoặc chỗ nghỉ không do logic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm tạo ra ấn tượng về cảm xúc. 5.1. Kỹ năng ngắt giọng logic: Khi đọc một văn bản nếu gặp dấu câu ta cần phải ngắt, nghỉ giáo viên cần hướng dẫn học sinh sau dấu chấm, dấu hai chấm, chấm cảm ta cần phải nghỉ. Song sau dấu chấm xuống dòng cần nghỉ lâu hơn sau dấu chấm. Sau dấu phẩy ta phải ngắt giọng, sau dấu phẩy có lúc cũng phải ngắt giọng khác nhau. Dấu phẩy ngăn cách giữa vế và câu ngắt lâu hơn, dấu phẩy sau trạng ngữ. Khi đọc một số bài văn xuôi có những câu dài, cấu trúc ngữ pháp phức tạp học sinh thường ngắt tuỳ tiện như sau: Ví dụ 1: Trong bài: Sơn Tinh, Thủy Tinh (Sách Tiếng Việt 2) Học sinh đọc: Từ đó/ năm nào Thuỷ Tinh cũng dâng nước đánh/ Sơn Tinh gây lũ lụt khắp nơi/ nhưng lần nào Thuỷ Tinh cũng chịu thua.// Học sinh đã đọc tách Sơn Tinh ra khỏi động từ “đánh” làm người nghe hiểu sai ý nghĩa của câu văn. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh ngắt như sau: Từ đó/ năm nào Thuỷ Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh/ gây lũ lụt khắp nơi/ nhưng lần nào Thuỷ Tinh cũng chịu thua.// Ví dụ 2: Khi đọc một số câu thơ do không chú ý đến quan hệ ngữ pháp mà chỉ chú ý đến sự cân đối về âm thanh mà học sinh đã ngắt nhịp sai. Anh Lừa / lo chuyện / gạo tiền. Giấy tờ thỏ chạy/ giao liên tài tình. Nếu học sinh ngắt nhịp như trên đã tách cụm từ “thỏ chạy” ra khỏi cụm “giao liên tài tình” làm người nghe tưởng như chú giao liên tài tình chứ không phải “thỏ chạy giao liên tài tình” để khắc phục tình trạng đó với lớp 2 thì việc luyện đọc, đọc mẫu của giáo viên là cần thiết. Ngoài ra giáo viên cũng cần giảng để học sinh hiểu nội dung câu văn, câu thơ, quan hệ ngữ pháp để học sinh điều chỉnh nếu như học sinh đọc sai. 5.2. Ngắt giọng biểu cảm: Dạy cho học sinh biết cách ngắt giọng logic là yêu cầu quan trọng với học sinh lớp 2, ngoài ra giáo viên có thể dạy cho học sinh ngắt giọng biểu cảm ở một số bài thơ đây là phương tiện tác động người nghe. Ngắt giọng logic thiên về trí tuệ còn ngắt giọng biểu cảm thiên về cảm xúc. Ví dụ: Khi đọc 2 câu thơ cuối của bài tập đọc “Thư trung thu” (sách Tiếng Việt 2 13/28 tập 2 trang 10). Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc. Các cháu/ hãy xứng đáng Cháu Bác Hồ Chí Minh. Ngắt nhịp như thế người nghe sẽ thấy được tình cảm yêu thương sâu sắc của Bác và đó chính là lời động viên khuyến khích cũng là lời khuyên của Bác đối với thiếu nhi. Qua đó để thấy được tình yêu bao la của Người đối với các em. Tóm lại: Đọc đúng chỗ ngắt giọng và ngắt giọng hay là yêu cầu, mục đích của việc dạy tập đọc là phương tiện để phát triển ngôn ngữ cho học sinh. Thực tế giáo viên chúng ta chưa am hiểu sâu sắc về lý luận văn học tuy nhiên nếu giáo viên đầu tư, chuẩn bị bài kỹ lưỡng, đọc bài nhiều lần để tìm cách đọc đúng, chuẩn xác, cách đọc hay nhất để có mẫu tốt cho học sinh học tập. Muốn vậy theo tôi GV cần: + Nắm vững nội dung bài, tính cách nhân vật, giọng điệu của câu chuỵên, bài tập đọc, bài thơ. + Nắm được cốt truyện – nội dung các đoạn truyện. + Nắm thể loại thơ để chọn cách đọc, giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng, ngọt ngào hay chua ngoa. + Nắm được cấu trúc ngữ pháp của câu thơ, câu văn. 6. Biện pháp thứ sáu: Sử dụng linh hoạt trò chơi học tập: Đối với trẻ em trò chơi đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt, bước vào nhà trường, trẻ em làm quen với hoạt động học tập với những yêu cầu cao hơn. Chúng ta – những nhà sư phạm thấy rằng nếu biết sử dụng kết hợp hình thức trò chơi trong học tập sẽ đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy trò chơi được sử dụng trong các tiết dạy học có tác dụng tích cực nhằm làm thay đổi hình thức học tập. Thông qua trò chơi không khí lớp học trở nên thoải mái, dễ chịu .Việc tiếp thu kiến thức của học sinh trở nên tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên giáo viên cũng cần biết tổ chức trò chơi như thế nào cho hợp lý, không nên quá lạm dụng trò chơi, biến tiết học thành một hoạt động vui chơi vô bổ. Trò chơi học tập cần có yêu cầu khác với trò chơi thông thường. + Chơi để đạt mục đích học tập nào? Ngoài giải trí còn có mục đích củng cố tri thức, kỹ năng học tập. + Nội dung học tập phải gắn với các tri thức và kỹ năng của một nhóm học hoặc một lĩnh vực tri thức, kỹ năng nào đó. Nói cách khác khi sáng tạo ra trò chơi thì người giáo viên cần dựa vào các kiến thức và kỹ năng của môn học. + Trò chơi học tập cần có luật chơi rõ ràng đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện không đòi hỏi thời gian dài. Trò chơi học tập thường diễn ra thời gian ngắn, phù 14/28 hợp với trình độ học sinh. Sau đây là một số trò chơi mà bản thân tôi thường sử dụng trong tiết dạy tập đọc: * Trò chơi “Thi đọc truyện phân vai”: Mục đích: Tất cả học sinh đều được tham gia đọc và lựa chọn nhân vật mình yêu thích để đọc phân vai, từ đó khơi gợi hứng thú học tập cho các em. Cách chơi: Học sinh thảo luận theo nhóm sau đó cử ra mỗi bạn đọc lời một nhân vật rồi luyện đọc trong nhóm. Sau đó các nhóm thi đọc truyện phân vai. Các học sinh khác đóng vai trò giám khảo, nhận xét, đánh giá theo các tiêu chí đã xác định trước đó. Ví dụ: Khi dạy các bài tập đọc đầu tuần như bài “Tôm Càng và Cá Con” học sinh được thảo luận theo nhóm 4 – mỗi nhóm cử 3 em, một em được chọn đọc lời người dẫn truyện, một em đọc lời Tôm Càng, một em đọc lời của Cá Con. Sau khi học sinh đọc trong nhóm, giáo viên tổ chức cho từng nhóm tham gia thi đọc truyện phân vai. Giáo viên dành thời gian cho 2, 3 nhóm thi. Giáo viên cùng ban khảo nhận xét đánh giá chung và chọn nhóm đọc tốt để biểu dương. (Ban giám khảo do học sinh bầu ra). *Trò chơi “thả thơ”: Mục đích: Giúp học sinh ghi nhớ ngay tại lớp nội dung bài thơ thông qua trò chơi, tạo cho học sinh phong trào thi đua học tập sôi nổi. Cách chơi: Học sinh từng đội chuẩn bị mẩu giấy nhỏ ghi một câu thơ hay một cụm từ trong khổ thơ, sau đó mời đội bạn bốc thăm. Nếu đội bạn đọc đúng câu thơ hoặc khổ thơ đó sẽ ghi được điểm. Ví dụ: Khi dạy bài thơ cuối giờ, tôi cho học sinh chơi trò chơi Thả thơ bằng cách: - Giáo viên đưa ra luật chơi: +Học sinh đứng thành 2 đội, mỗi đội 3 học sinh + Một học sinh làm trọng tài + Thời gian chơi: 5 phút - Cách chơi: Học sinh trong từng đội chuẩn bị một mẩu giấy nhỏ trong có ghi một câu thơ hay một cụm từ có trong khổ thơ vừa học trong bài và trao mẩu giấy đó cho một người ở đội bạn. Nếu bạn nhận được mẩu giấy đó đọc được đúng khổ thơ có 15/28 câu (cụm từ) đã ghi trong mảnh giấy thì đội bạn sẽ được ghi điểm. Trò chơi cứ lặp lại như vậy cho đến hết. *Trò chơi “nghe đọc đoạn, đoán tên bài”: Mục đích: Giúp học sinh củng cố các bài đã học thông qua hình thức đố vui. Cách chơi: Học sinh từng đội chuẩn bị mẩu giấy ghi đoạn vă, đoạn thơ, sau đó mời đội bạn bốc thăm. Nếu đội bạn đoán đúng tên bài đọc và tác giả thì giàng chiến thắng. Ví dụ: Đối với những tiết ôn tập ở từng giai đoạn ôn giữa kỳ I, kỳ II, cuối kỳ I, kỳ II tôi thường tổ chức trò chơi “nghe đọc đoạn, đoán tên bài”. Cách chơi: Hai nhóm tham gia chơi ngồi đối diện nhau. Cử nhóm trưởng điều hành hoạt động chung cả nhóm. Bắt thăm hoặc “oẳn tù tì” để chọn nhóm đọc trước. Nhóm đọc trước (A) được mở sách giáo khoa để lựa chọn đoạn văn (trong số các câu chuyện kể do giáo viên nêu ra, nhóm A cử người đọc đoạn cho nhóm B đoán tên chuyện, đoán tên bài tập đọc sau đó nhóm B đọc nhóm A đoán tên câu chuyện). Khi đoán tên bài tập đọc hoặc tên chuyện cả nhóm không được mở sách giáo khoa. Hai nhóm tham gia chơi đều được tính điểm so sánh – nếu tổ chức cho cả 4 nhóm cùng chơi – khi kết thúc giáo viên chọn nhóm giỏi nhất để khen ngợi. Nếu điểm bằng nhau, nhóm nào đọc rõ ràng, rành mạch chính xác hơn là nhóm đó thắng cuộc. Ngoài ra với cách tổ chức trò chơi ở tập đọc giáo viên có thể tổ chức một số trò chơi như: Thi đọc đồng thanh; biết một câu, đọc cả đoạn; tìm nhanh - đọc đúng; nhớ nhanh, đọc đúng; ghép các dòng thơ thành bài; đọc thơ truyền điện,... Qua thực tế giảng dạy việc tổ chức trò chơi học tập đã tạo hứng thú và thu hút nhiều học sinh tham gia. Nếu biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, các trò chơi học tập có tác dụng tích cực tạo chất lượng cao cho bài học. Chúng ta cũng nên tránh tổ chức trò chơi lặp đi lặp lại trong tiết học gây sự nhàm chán cho học sinh. IV. KẾT QUẢ Sau một thời gian trực tiếp giảng dạy, với tất cả sự tâm huyết của mình bản thân tôi đã tìm tòi, tự học, tự đúc rút kinh nghiệm dần dần khắc phục các tồn tại của bản thân nên đã thu được một số kết quả như sau: 1.Về giáo viên: 16/28 Tôi đã sử dụng thành thạo, linh hoạt quy trình lên lớp một tiết tập đọc biết kết hợp nhuần nhuyễn việc đọc câu với luyện đọc từ khó, tiếng khó chữa lỗi cho học sinh triệt để. Việc giải nghĩa từ khó và rút từ chìa khoá trong giảng dạy đã thành thạo, biết kết hợp để ghi bảng cho hợp lý. Triệt để khai thác các câu hỏi trong sách giáo khoa, chỉ đặt câu hỏi phụ khi cần thiết để dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi chính. Lối tham giảng, nói nhiều đã được gạt bỏ dần. 2. Về học sinh: a) Kỹ năng đọc: Học sinh biết ngắt nghỉ sau các dấu câu, giữa các cụm từ dài, giữa các mục, các phần trong bài học. 92,7% học sinh đọc tốc độ 60tiếng/phút. Biết đọc thầm để hiểu nội dung và trả lời câu hỏi do giáo viên nêu ra. 30% học sinh biết rút ra nội dung sau mỗi bài tập đọc. b) Kỹ năng nghe: Sau khi nghe giáo viên đọc mẫu học sinh bắt chước, có nhiều em đọc giống giọng đọc của giáo viên. Thậm chí có 2 đến 3 học sinh còn đọc hay hơn. Biết nghe bạn đọc và nhận xét cách đọc của bạn. Không khí lớp học sôi nổi. Mỗi lần gi
Tài liệu đính kèm: