Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp vận động học sinh có nguy cơ bỏ học trở lại lớp

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp vận động học sinh có nguy cơ bỏ học trở lại lớp

Nắm hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh:

 Sau ngày tập trung học sinh, tôi đã có danh sách trích ngang ghi rõ họ tên, nghề nghiệp cha mẹ; Hoàn cảnh sinh sống của gia đình: Nắm xem bao nhiêu em có hoàn cảnh đủ ăn? bao nhiêu em hộ khó khăn? bao nhiêu em có sổ hộ nghèo? Công việc thường ngày của học sinh ở nhà và là đứa con thứ mấy? Ngoài ra, tôi còn trao đổi với giáo viên chủ nhiệm của lớp để nắm rõ hơn về hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Sau đó tôi tập hợp thành một quyển sổ theo dõi, phân loại đối tượng học sinh, đặc biệt học sinh có hoàn cảnh khó khăn có nguy cơ bỏ học.

 Việc làm này giúp tôi nắm rõ hơn hoàn cảnh từng em để có biện pháp giáo dục thích hợp. Sau đó tôi theo dõi sĩ số học sinh hằng ngày, đặc biệt là những em hay vắng học rồi

tìm hiểu hoàn cảnh của những học sinh hay nghỉ học và những học sinh có nguy cơ bỏ học. Một trong những yếu tố quan trọng là tìm hiểu môi trường và hoàn cảnh sống của các em , bởi vì đó chính là cái nôi nuôi dưỡng và hình thành nhân cách của các em ngay từ thuở ban đầu. Để các em hình thành cho mình một hướng đi tốt nhất.

 

doc 8 trang Người đăng hieu90 Lượt xem 3459Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp vận động học sinh có nguy cơ bỏ học trở lại lớp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đề tài :
 	Việc duy trì sĩ số đảm bảo chuyên cần ở trường Tiểu học đóng một vai trò rất quan trọng trong việc học tập của học sinh. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách đầy đủ, mang lại kết quả tốt. Nhưng hiện nay, tình hình học sinh bỏ học ở Tỉnh Đăk Lăk ta đến mức báo động, nhất là học sinh ở vùng khó khăn, vùng biên giới. Theo thống kê của các năm gần đây cho thấy tỉ lệ học sinh bỏ học ngày càng cao, nhất là học sinh ở độ tuổi Cấp I, Cấp II.
 	Căn cứ vào nghị quyết Hội nghị công nhân viên chức năm học 2018 - 2019 của Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ về việc hạn chế tình trạng học sinh bỏ học. Nhà trường đã thành lập Ban phòng chống bỏ học gồm : Ban giám hiệu; giáo viên chủ nhiệm; Hội cha mẹ học sinh ; các đoàn thể ; chính quyền địa phương đã thống nhất quan điểm về công tác huy động học sinh đến trường và hạn chế tình trạng học sinh bỏ học là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội. Xác định lí do học sinh không muốn đi học và bỏ học giữa chừng có rất nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân do học lực yếu, kém dẫn đến chán nản, bỏ học là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp thuộc trách nhiệm của ngành Giáo dục và Đào tạo.
 	Để duy trì, nâng cao hiệu quả công tác phổ cập giáo dục Tiểu học và đạt chỉ tiêu phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, đòi hỏi một trong những điều kiện không thể thiếu được đó là : “ Duy trì sĩ số cho học sinh nói chung và học sinh dân tộc nói riêng ” . Đây là vấn đề mà các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương quan tâm , chỉ đạo bằng các Nghị quyết của Đảng bộ các cấp và chi bộ nhà trường.
 	Với trách nhiệm của một giáo viên Tiểu học, bất cứ người giáo viên chủ nhiệm nào cũng mong muốn lớp mình phụ trách suốt từ đầu năm đến cuối năm phải đảm bảo về mặt sĩ số cũng như phải đạt yêu cầu về mặt chất lượng học tập. Nhưng thực tế vô cùng phức tạp vì đối tượng học sinh rất đa dạng, vì mỗi em có hoàn cảnh và điều kiện sống khác nhau, nếu giáo viên không khéo léo thì khó mà duy trì sĩ số lớp mình đạt như mong muốn.
 	Địa bàn xã Dur Kmăl là xã vùng sâu , vùng xa , tỷ lệ học sinh dân tộc chiếm 87,9% Hằng năm số lượng học sinh dân tộc có nguy cơ bỏ học khá cao. Tỷ lệ học sinh có nguy cơ bỏ học nhiều như thế không những ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả đào tạo của nhà trường cũng như ngành giáo dục của huyện, nó còn ảnh hưởng rất nhiều đến công tác phổ cập giáo dục tiểu học. Qua nhiều năm trực tiếp phụ trách công tác phổ cập giáo dục tiểu học của nhà trường , trước những vấn đề nêu trên, tôi suy nghĩ rất nhiều: làm thế nào mà duy trì được sĩ số học sinh, để thực hiện tốt công tác phổ cập giáo dục Tiểu học và phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Nên tôi đã chọn đề tài: “ Một số biện pháp vận động học sinh có nguy cơ bỏ học trở lại lớp ”.
PHẦN 2: MỤC TIÊU CỦA GIẢI PHÁP
1. Mục tiêu nghiên cứu : 
 	Tìm ra các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến học sinh bỏ học. 
 	Đề xuất những biện pháp vận động học sinh có nguy cơ bỏ học ra lớp.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu : 
 	Để dạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên đề tài tự xác định cho mình những nhiệm vụ nghiên cứu sau : 
 2.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài .
 	2.2. Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh có nguy cơ bỏ học ở Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ.
 	2.3. Đề xuất biện pháp nhằm vận động học sinh có nguy cơ bỏ học trở lại lớp.
3. Phương pháp nghiên cứu :
3.1/ Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết : 
 	Đọc các tài liệu có liên quan đến công tác duy trì sĩ số, Các văn kiện, các chỉ, Nghị quyết của trung ương của bộ chính trị, Đảng bộ huyện Krông Ana, các Nghị quyết của Đảng ủy xã Dur Kmăl, Nghị quyết Hội nghị CNVC năm học 2018 – 2019 của Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ”.
3.2/ Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn : 
 	Tôi đã dùng phương pháp phỏng vấn Phụ huynh, học sinh. Điều tra hoàn cảnh gia đình học sinh, chế độ chính sách đối với học sinh dân tộc.
 	3.3/ Nhóm các phương pháp hỗ trợ : Bảng thống kê số liệu học sinh bỏ học của những năm học trước.
PHẦN 3 : NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
 	 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 
 	Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, là nơi tạo những cơ sở ban đầu cơ bản và bền vững cho trẻ em tiếp tục học lên bậc học cao hơn. Nhà trường Tiểu học có vị trí, chức năng, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong việc hình thành nhân cách cho trẻ em, là nơi tổ chức một cách tự giác quá trình phát triển đúng đắn, lâu dài về tình cảm, trí tuệ, thể chất và các kỹ năng học tập, rèn luyện của học sinh. Mục tiêu, nhiệm vụ của trường tiểu học là đem đến cho trẻ em hạnh phúc được học tập, là làm cho trẻ em được hưởng thụ một nền giáo dục tốt đẹp ở trường tiểu học.
 	Việc duy trì sĩ số trong các trường học, là một chủ trương lớn của ngành giáo dục nhằm cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng các cấp, đây là giải pháp có tính chiến lược nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và bồi dưỡng những tài năng của đất nước. 
 	Vì chỉ trên cơ sở của sự phát triển phong phú, hài hoà có tính toàn diện của nhân cách thì tài năng con người mới có điều kiện nảy nở và phát triển một cách cơ bản và bền vững. Ở những trường tiểu học việc duy trì tốt sĩ số học sinh, học sinh được giáo dục toàn diện, được học đủ các môn học theo quy định, được thực hiện các hoạt động khác; đặc biệt các em được học các thầy cô giáo có tâm huyết, có tay nghề và tinh thần trách nhiệm cao, các em có đầy đủ các điều kiện và phương tiện học tập, các em được phát triển trong môi trường giáo dục đầy đủ, lành mạnh. Trong điều kiện đó, mỗi học sinh sẽ được phát triển theo khả năng của mình để đạt chất lượng cao, để trở thành học sinh giỏi và là tiền đề cơ bản để trẻ em tiếp tục phát triển và xuất hiện những tài năng sau này, các em sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước. Với xã Dur Kmăl là xã vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc lại đông, kinh tế còn nghèo, tri thức còn rất hạn chế, các em thì chưa xác định được việc học là quan trọng, dẫn đến bỏ học nhiều, với bản thân là một giáo viên đứng trên bục giảng tôi luôn trăn trở về vấn đề này. 
Chính vì vậy nên tôi đã suy nghĩ làm thế nào để hạn chế việc bỏ học của các em và tôi đã quyết tâm tìm mọi biện pháp để vận động học sinh có nguy cơ bỏ học trở lại lớp.
II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA CÔNG TÁC DUY TRÌ SĨ SỐ Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀNG VĂN THỤ :
1. Thực trạng công tác duy trì sĩ số ở Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ.
 Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ là trường vùng sâu, vùng xa, có ba điểm trường cách xa nhau, địa bàn dân cư rộng, nên việc xây dựng nề nếp, quản lý học sinh còn gặp nhiều khó khăn. Học sinh dân tộc chiếm 42 %, đa số các em chưa xác định được việc học là quan trọng. Điều kiện kinh tế gia đình học sinh còn thiếu thốn. Phần đa cha mẹ học sinh lại không biết chữ nên không biết kèm con em khi ở nhà. Có một số học sinh lại chưa qua lớp mẫu giáo, nên các em nói tiếng Việt chưa được thành thạo. Vì vậy các em rất khó tiếp thu bài. 
	Từ những khó khăn trên dẫn đến nhiều năm liền tại Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ số học sinh có nguy cơ bỏ học tương đối cao.
2. Nguyên nhân học sinh ở Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ có nguy cơ bỏ học là : 
2.1. Nguyên nhân thứ nhất từ phía gia đình và học sinh : 
 	- Trẻ em thuộc gia đình nghèo, đông con, các em không có áo quần lành lặn để đến lớp như bao bạn khác. Những học sinh này thường mặc cảm, tự ti về hoàn cảnh, tự cho thân phận của mình không bằng bạn bè, tự tách biệt khỏi tập thể, các em luôn cảm thấy lòng tự trọng bị tổn thương và chán nản dẫn đến bỏ học .
 	 - Phần đa học sinh dân tộc, bố mẹ các em không biết chữ nên khi đi học về không có ai kèm, dẫn đến học yếu, các em phải ở lại lớp nhiều năm liền cảm thấy xấu hổ thế là bỏ học .
 	- Có một số em lại chưa qua lớp mẫu giáo, chưa làm quen với Tiếng Việt , các em phát âm rất khó, tiếp thu bài cũng chậm đâm ra chán nản , và không thích đi học
 	- Một số em thuộc gia đình thiếu bố ( mẹ) hoặc thiếu cả bố lẫn mẹ; bố mẹ ly hôn hoặc bố mẹ hay cãi nhau. Số trẻ em này thường có tính khí bất thường , hay quậy phá , hờn giận , đánh nhau , tự ti, ủ ê, lúc nào cũng mặc cảm, tự cho mình thua kém và tự xa lánh bạn bè dẫn đến bỏ học .
 	- Trẻ em mồ côi bố hoặc mẹ , thường hay nhút nhát, ít hòa đồng , thường hay sợ hãi đám đông , cảm thấy thua kém bạn bè, dẫn đến tự ti , mặc cảm và bỏ học.
 	- Trẻ em thuộc gia đình có mức kinh tế trung bình, không đông con, nhưng bố mẹ ít quam tâm đến con cái, lo kiếm sống , suốt ngày để các em lêu lổng , không quản lý giờ giấc. Số trẻ này rất tự do , bừa bãi , hay quậy phá , học ít chơi nhiều , hay trốn học, thường nói dối cha mẹ , thầy cô , hay cãi lại người lớn , không biết nghe lời, ít có lòng tự trọng và thích là bỏ học .
 	- Trẻ em thuộc gia đình khá giả, có của, được cha mẹ nuông chiều. Thường những em này như những ông trời con, tính khí đỏng đảnh, muốn gì được nấy, hay dỗi , thích thì học không thích thì thôi, đôi lúc còn tỏ ra khoe khoang coi thường bạn bè .
 2.2.Nguyên nhân thứ hai từ phía nhà trường và giáo viên : 
 	 - Về công tác tổ chức và quản lí : Trường có 3 điểm trường cách xa nhau nên rất khó trong công tác quản lý học sinh .
 	 - Cơ sở vật chất - thiết bị trường học: Số phòng học của nhà trường có 19 phòng học cấp 4, một số phòng được xây dựng đã lâu. Chưa có phòng chức năng, và nơi làm việc riêng cho các bộ phận như :Y tế, công tác đội. Thiết bị chưa đủ cho nhu cầu sử dụng giảng dạy trên lớp. 
 	- Về công tác xã hội hoá giáo dục:
Những năm trước đây công tác xã hội hoá chưa thực hiện tốt, một phần do dân trí địa phương thấp, cộng đồng chưa có sự quan tâm đúng mức. Do đó nhà trường hầu như là đơn thương, độc mã làm chủ trận địa giáo dục, có chăng chỉ là sự quan tâm của một bộ phận nhỏ phụ huynh. Tuy nhiên cũng có sự quan tâm chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương, Hội đồng Giáo dục xã ...nhưng chưa hiệu quả.
-Về hiệu quả chất lượng giáo dục:
Nhà trường đã thực hiện tốt chương trình, kế hoạch dạy học, nhưng do cơ sở vật chất thiếu thốn, phương pháp giảng dạy tích cực chưa được áp dụng sâu rộng. Một số giáo viên nhà ở xa nên rất khó khăn trong việc quan tâm đến học sinh. 
III. NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỂ VẬN ĐỘNG HỌC SINH CÓ NGUY CƠ BỎ HỌC RA LỚP:
 	Từ những nguyên nhân nêu trên , tôi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp để vận động học sinh có nguy cơ bỏ học ra lớp như sau : 
	1. Các biện pháp:
	1.1. Nắm hoàn cảnh và đặc điểm gia đình từng học sinh:
 	Sau ngày tập trung học sinh, tôi đã có danh sách trích ngang ghi rõ họ tên, nghề nghiệp cha mẹ; Hoàn cảnh sinh sống của gia đình: Nắm xem bao nhiêu em có hoàn cảnh đủ ăn? bao nhiêu em hộ khó khăn? bao nhiêu em có sổ hộ nghèo? Công việc thường ngày của học sinh ở nhà và là đứa con thứ mấy? Ngoài ra, tôi còn trao đổi với giáo viên chủ nhiệm của lớp để nắm rõ hơn về hoàn cảnh gia đình của từng học sinh. Sau đó tôi tập hợp thành một quyển sổ theo dõi, phân loại đối tượng học sinh, đặc biệt học sinh có hoàn cảnh khó khăn có nguy cơ bỏ học.
	Việc làm này giúp tôi nắm rõ hơn hoàn cảnh từng em để có biện pháp giáo dục thích hợp. Sau đó tôi theo dõi sĩ số học sinh hằng ngày, đặc biệt là những em hay vắng học rồi
tìm hiểu hoàn cảnh của những học sinh hay nghỉ học và những học sinh có nguy cơ bỏ học. Một trong những yếu tố quan trọng là tìm hiểu môi trường và hoàn cảnh sống của các em , bởi vì đó chính là cái nôi nuôi dưỡng và hình thành nhân cách của các em ngay từ thuở ban đầu. Để các em hình thành cho mình một hướng đi tốt nhất. 
 	Các bước tiến hành như sau :
	- Tìm hiểu qua phiếu thông tin ( điều tra sơ yếu lý lịch) : Phiếu thông tin này ngoài những thông tin cơ bản: Họ tên bố, mẹ; địa chỉ; thêm cả hoàn cảnh sống; gia đình em đó có mấy người ; em ấy là con thứ mấy; sở thích của em, thường chơi với bạn như thế nào.
	- Tìm hiểu hoàn cảnh học sinh trực tiếp bằng cách: đến tại gia đình các em , tiếp xúc với bố mẹ các em để biết cụ thể hoàn cảnh của những học sinh này và trao đổi tình hình học tập của những học sinh đó.
	- Tìm hiểu tính cách các em qua bạn bè trong lớp.
 	- Tìm hiểu qua thôn, buôn ( thông qua buôn trưởng) . 
 	-Tôi theo dõi , thấy những học sinh nào nghỉ học từ 2 buổi trở lên , tôi đến ngay gia đình để tìm hiểu hoàn cảnh của các em, rồi kết hợp với thôn buôn đến nhà vận động các em đi học lại. Lập danh sách những học sinh có nguy cơ bỏ học báo ngay với Ban giám hiệu và buôn trưởng. Để các buôn trưởng nắm về thôn buôn vận động bố mẹ nhắc nhở các em đi học.
 	Đồng thời tôi đưa ra biện pháp giáo dục trực tiếp, gần gũi, an ủi động viên và khích lệ kịp thời những kết quả đạt được, dù những ưu điểm nhỏ nhất. Cụ thể:
 	* Năm học 2017- 2018 toàn trường có 8 em có nguy cơ bỏ học, trong đó: 3 em có hoàn cảnh gần giống nhau. Bố mẹ làm nghề tự do, suốt ngày lo kiếm sống, ít quan tâm đến con mình, nên ngoài giờ đến trường, các em suốt ngày lang thang trên đường, học ít chơi nhiều, đến lớp thường muộn giờ, do không biết sắp xếp thời gian ở nhà, có hôm 2 em này thức khuya xem phim, sáng ngủ quên, tự ý bỏ học mà gia đình không hay biết. Với đối tượng này tôi đã gần gũi các em vừa bằng tình thương, vừa nghiêm khắc nhắc nhở phê bình và chỉ ra hậu quả để các em sửa chữa. Ngoài ra tôi đã đến nhà gặp phụ huynh của 2 em học sinh này. Tôi đã yêu cầu bố mẹ phối hợp với các thầy cô trong việc giáo dục cụ thể : Học sinh và cha mẹ cùng làm cam kết thực hiện những nội quy yêu cầu của nhà trường, của lớp đề ra. Lập thời gian biểu để học sinh thực hiện ở nhà, có sự giám sát của cha mẹ .
 	Phân công học sinh khá, giỏi kèm cặp. Những học sinh được phân công giúp bạn điều chỉnh giờ học cho phù hợp, giảng bài cho bạn, học cùng bạn và trong lớp nhắc nhở động viên và kiểm tra vở ghi chép của các bạn. 
 	Có 2 em hoàn cảnh bố mẹ ly hôn ở với ông bà, các em rất nhút nhát tự ti hay mặc cảm, xa lánh bạn bè, học khá, nhưng không thích phát biểu xây dựng bài. Có nhiều hôm 2 em đã rủ nhau nghỉ học. Tôi đã quan tâm gần gũi các em nhiều hơn, giúp các em lấy lại thăng bằng, giao cho 2 em, hai nhiệm vụ: 1 em làm lớp phó lao động, còn 1 em làm tổ trưởng, dần dần các em đã phát huy được vai trò của mình, trở thành những cán bộ lớp năng nổ, có trách nhiệm, khi các em có tiến bộ, tôi đã động viên các em kịp thời, bằng cách: thưởng cho các em những cuốn tập, những bộ áo quần quyên góp của trường. 
Có 1 em bố mất sớm ở với mẹ, em học khá , nhưng rất bướng bỉnh,em cũng thường xuyên nghỉ học, hiểu được hoàn cảnh của em , tôi đã trực tiếp gặp em thường xuyên, khuyên nhủ, đồng thời phát huy mặt tích cực của em là học khá , hướng em vào các hoạt động của tập chọn em làm tổ trưởng. Vừa để em làm vừa nghiêm khắc với những hành vi của em, một tháng sau em có chuyển biến rõ rệt, em đã đi học đều đặn trở lại.
Cũng có 1 em thường xuyên vi phạm về nề nếp học tập, hay đi học muộn, ăn mặc không theo nội quy của nhà trường, nhuộm tóc vàng, giờ học không ghi chép bài, hay nói chuyện trong lớp, quay ngang, quay ngửa, khuấy động trong lớp, người lớn nói không nghe lời, hay cãi lại, luôn nghĩ ra mọi trò tinh nghịch ,hễ la mắng là em nghỉ học. Qua tìm hiểu biết được em này con một gia đình khá giả, được bố mẹ nuông chiều. Tôi đã phải thực hiện nhiều biện pháp: chủ động gặp gỡ bố mẹ của em bàn bạc góp ý với họ về biện pháp giáo dục, không chiều theo sở thích của các em và nghiêm khắc với những sai phạm.
	 1.2. Giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó khăn:
 	Nắm được một số em có hoàn cảnh nghèo đặc biệt ( mồ côi cha hoặc mẹ) , tôi rà soát lại xem em nào còn thiếu quần áo trắng, đồ dùng học tập, tôi đăng kí cho các em được nhận dụng cụ do nhà trường hỗ trợ. Các em con nhà nghèo không có đủ áo quần , đồ dùng học tập để đi học. Tôi mua tặng các em đồ dùng học tập ngay vào đầu năm học. Ngoài ra tôi còn kêu gọi các em trong lớp dành tặng bạn một số quần áo cũ và tranh thủ sự hỗ trợ từ một số mạnh thường quân có khả năng để trang bị thêm những dụng cụ còn lại cho những em này để các em được yên tâm đến trường, không phải mặc cảm vì nhà nghèo. Qua đây tôi cũng thấy tình cảm giữa bạn nhà nghèo và bạn khá giả gần gũi nhau hơn.
	 1.3. Phổ biến nội quy. Gặp gỡ những gia đình học sinh tự ý bỏ học:
 	- Ở tuần đầu tiên, tôi sinh hoạt với học sinh trong lớp rất kĩ về nội quy nhà trường, trong đó có phần quy định: Học sinh phải đi học đều và đúng giờ, nghỉ học phải có lí do và được cha mẹ xin phép . Triển khai cho giáo viên chủ nhiệm nắm về nội quy nhà trường để giáo viên chủ nhiệm tổ chức họp cha mẹ học sinh đầu năm, qua đó thông báo cho phụ huynh biết về quy định này và nhờ phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở.
	- Đối với những trường hợp học sinh tự ý bỏ học ( vì cha mẹ đi làm không có ở nhà) sau giờ học, tôi lập tức đến ngay nhà những em này gặp phụ huynh tìm hiểu nguyên nhân và trao đổi cách khắc phục.
	 1.4. Chỉ đạo các đoàn thể trong nhà trường quan tâm đến đối tượng học sinh có nguy cơ bỏ học:
 	 - Chỉ đạo tổ phổ cập nhà trường thường xuyên quan tâm, theo dõi những em học sinh có nguy cơ bỏ học từ đó có biện pháp huy động các em trở lại lớp.
	- Chỉ đạo Đoàn thanh niên, liên đội tìm hiểu, giúp đỡ các em.
	1.5. Kết hợp với các tổ chức đoàn thể khác:
	- Thường xuyên phối hợp với các đoàn thể khác tại địa phương như: Đoàn thanh niên, hội phụ nữ, ban tự quản các thôn, buôn trong việc vận động học sinh có nguy cơ bỏ học trở lại lớp. 
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC.
	Sau một năm vận dụng các biện pháp trên vào thực tiễn công tác tại đơn vị bản thân tôi đã thu được kết quả rất đáng khích lệ: Tỷ lệ học sinh có nguy cơ bỏ học giảm xuống một cách rõ rệt. Không còn hiện tượng học sinh nghỉ học dài ngày không có lí do. Đã khích lệ được gia đình các em cùng tham gia giáo dục các em. 
PHẦN 4: KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT- KIẾN NGHỊ
	1. Kết luận 
 	Người giáo viên chủ nhiệm phải thấy việc thực hiện duy trì sĩ số học sinh là trách nhiệm của một nhà giáo. Đây là vấn đề để thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị công nhân viên chức hàng năm mà nhà trường đã đề ra để hạn chế tình trạng học sinh bỏ học. Công tác duy trì sĩ số là một nhiệm vụ thường xuyên, dù đứng ở vị trí nào ta phải quan tâm thực hiện nghiêm túc vấn đề này, phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt, năng động trong thực tế; Kết hợp nhiều giải pháp để thực hiện tốt công tác này.
	Ngoài ra, để công tác duy trì sĩ số học sinh đạt hiệu quả, người giáo viên chủ nhiệm cần phải có tâm đối với mọi học sinh, phải hiểu hoàn cảnh từng học sinh để có biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cho các em ham thích học tập, yêu mến thầy cô, thích bạn bè. Việc chống lưu ban, bỏ học là nhằm nâng cao hiệu quả công tác phổ cập giáo dục Tiểu học, góp phần nâng cao dân trí là nền tảng ban đầu để đào tạo con người mới phát triển về mọi mặt, tham gia vào việc thực hiện xây dựng nước nhà ngày càng giàu mạnh.
	Để thực hiện tốt công tác duy trì sĩ số ở trường Tiểu học, bên cạnh sự cố gắng của bản thân còn phải có sự hỗ trợ và kết hợp của nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội.
 	 2. Kiến nghị:
 	Để đảm bảo được công tác duy trì sĩ số, nâng cao chất lượng giáo dục và tiến tới mục tiêu phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi. Cần có sự quan tâm hỗ trợ đúng mức của toàn xã hội. Tôi xin có một số đề xuất như sau: 
 	 - Đối với nhà trường: 
 	+ Có hình thức khen thưởng kịp thời đối với lớp, đối với giáo viên chủ nhiệm không có học sinh bỏ học.
 	 - Đối với ngành : 
 	 + Sắp xếp bố trí đủ số lượng giáo viên đứng lớp ngay từ đầu mỗi năm học.
 	 + Tiếp tục tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, như vậy chất lượng, trình độ tay nghề của giáo viên mới nâng lên cả về chất và về lượng.
 	 - Đối với chính quyền các cấp: 
 	+ Đề nghị tập trung đầu tư cơ sở vật chất cho các đơn vị trường học, gắn kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
 	+ Luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ về vật chất cho những em học sinh nghèo và những em có hoàn cảnh khó khăn để các em được đến trường như các bạn khác và tham gia vận động học sinh bỏ học đi học lại cùng với giáo viên chủ nhiệm.
 Trên đây là những biện pháp nhằm vận động học sinh có nguy cơ bỏ học trở lại lớp mà tôi đã đúc kết được trong quá trình công tác. Xin nêu ra để cùng quý thầy cô và đồng nghiệp trao đổi nhằm giúp tôi hoàn thiện hơn trong những lần nghiên cứu sắp tới.
 Xin chân thành cảm ơn !
 Dur Kmăl, ngày 26 tháng 03 năm 2019
 Người viết
 Nguyễn Văn Vinh
XÁC 

Tài liệu đính kèm:

  • docNguyễn Văn Vinh BCGP.doc
  • docTờ trình báo cao gai phap.doc