Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 2

I. Lý do chọn đề tài

Môn Toán là một trong những môn học giữ vị trí quan trọng trong chương

trình giáo dục tiểu học. Môn học góp phần to lớn trong việc thực hiện mục tiêu

giáo dục toàn diện. Với đặc trưng của môn học, môn toán chuẩn bị cho học sinh

những tri thức, kĩ năng toán học cơ bản cho việc học tập hoặc bước vào cuộc

sống lao động. Đây cũng là môn học giúp học sinh rèn luyện phương pháp suy

nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn

đề; đồng thời rèn luyện trí thông minh sáng tạo và các đức tính quý báu như: cần

cù, nhẫn nại, tự lực, ý chí vượt khó, thích chính xác. Trong chương trình tiểu

học, môn toán chiếm thời lượng tương đối lớn. Tuy nhiên, môn toán không được

phân chia thành các phân môn chuyên biệt mà là sự kết hợp của 5 tuyến kiến

thức được sắp xếp xen kẽ nhau (số học, hình học, đại lượng, thống kê mô tả và

giải toán) . Trong đó, giải toán có lời văn là một trong những mạch kiến thức cơ

bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Đây là mạch kiến thức tổng hợp

của các mạch kiến thức toán học. Khi giải toán có lời văn các em sẽ vận dụng

các kiến thức đã học để giải các loại toán về số học, yếu tố đại số, yếu tố hình

học và đo đại lượng. Ngược lại, thông qua học giải toán, học sinh được củng cố

khắc sâu các kiến thức về số học, về đại lượng, đo đại lượng, về hình học.

Mặt khác, dạy học giải toán toán còn giúp rèn luyện cho học sinh các kỹ

năng tính toán với các phép tính về số học, quan trọng hơn cả là giúp học sinh

hình thành phương pháp giải toán, rèn luyện khả năng diễn đạt khi giải toán. Vì

vậy, khả năng giải toán sẽ phản ánh lại năng lực vận dụng kiến thức toán học của

học sinh. Giải toán có lời văn là học cách giải quyết vấn đề của môn toán. Đồng

thời, giải toán có lời văn còn là cầu nối giữa toán học và các môn học khác, giữa

toán học và thực tế cuộc sống. Trong khi đó, giải toán có lời văn là dạng toán

khó đối với học sinh, các em thường gặp khó khăn trong việc hiểu nội dung bài

toán, xác định yêu cầu của bài toán. Vì vậy cần phải đổi mới phương pháp dạy

học nhằm phù hợp với nội dung dạy học mới đồng thời có thể khắc phục dần

những hạn chế của học sinh. Đây chính là những điều tôi băn khoăn, trăn trở và

đi đến quyết định nghiên cứu Một số biện pháp trong việc rèn kỹ năng giải

Toán có lời văn cho học sinh lớp 2.

pdf 17 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 05/03/2022 Lượt xem 1356Lượt tải 5 Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp trong việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mấy lần số bé, so sánh số bé bằng một phần mấy số lớn, tìm tỉ số phần trăm của 
hai số, tìm phần trăm của một số, tìm một số biết một số phần trăm của nó, tìm 
vận tốc, tìm thời gian, tìm quãng đường,... 
- Những dạng toán thuộc loại toán hợp: loại giải bằng 2 phép tính chia, 
nhân có liên quan đến việc rút về đơn vị, dạng a : b  c ; loại giải bằng 2 phép 
tính chia có liên quan đến việc rút về đơn vị, dạng a : (b : c). 
- Những dạng thuộc loại toán điển hình: tìm trung bình cộng của nhiều số, 
tìm hai số khi biết tổng và hiệu của chúng, tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và 
tỉ của chúng, bài toán liên quan đến quan hệ tỉ lệ,... 
 - Tuyến kiến thức về giải toán ở tiểu học: 
 + Lớp 1: Giới thiệu bài toán có lời văn ; giải các bài toán bằng một phép tính 
(một phép cộng hoặc một phép trừ) ; chủ yếu là các bài toán thêm, bớt một số đơn 
vị. 
+ Lớp 2: Giải các bài toán đơn về phép cộng và phép trừ ; các bài toán về 
nhiều hơn, ít hơn một số đơn vị ; phép nhân và phép chia; bước đầu làm quen 
5/16 
giải bài toán có nội dung hình học (tính chu vi các hình đã học), các bài toán liên 
quan đến các phép tính với các đơn vị đo đã học (km, m, dm, cm, mm, kg, lít). 
+ Lớp 3: giải các bài toán có đến hai bước tính với các mối quan hệ trực 
tiếp và đơn giản ; giải các bài toán quy về đơn vị và các bài toán có nội dung 
hình học. 
+ Lớp 4: giải các bài toán có đến hai hoặc ba bước tính, có sử dụng phân 
số ; giải các bài toán liên quan đến : tìm hai số khi biết tổng và hiệu của chúng, 
tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ của chúng, tìm số trung bình cộng, các 
bài toán có nội dung hình học đã học) ; giới thiệu bước đầu về việc sử dụng toán 
học lớp 4 để giải quyết các vấn đề của thực tế. 
 + Lớp 5: giải các bài toán có đến ba bước tính là chủ yếu. Đó là các bài 
toán đơn giản về tỉ số phần trăm : tìm tỉ số phần trăm của hai số, tìm phần trăm 
của một số, tìm một số biết một số phần trăm của nó; các bài toán đơn giản về 
chuyển động đều, chuyển động ngược chiều và cùng chiều : tìm vận tốc khi biết 
thời gian chuyển động và độ dài quãng đường, tìm thời gian chuyển động khi 
biết vận tốc chuyển động và độ dài quãng đường, tìm độ dài quãng đường khi 
biết thời gian chuyển động và vận tốc chuyển động ; các bài toán về quy tắc tam 
suất đơn (thuận, nghịch) ; các bài toán có nội dung về tìm diện tích, thể tích các 
hình đã học ; các bài toán ứng dụng các kiến thức đã học để giải quyết một số 
vấn đề của đời sống. 
- Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy 
đủ theo quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5: 
 + Câu lời giải. 
 + Phép tính giải. 
 + Đáp số. 
- Về số lượng bài toán trong một tiết học được rút bớt (so với chương 
trình trước đây) để dành thời gian cho học sinh đọc kĩ đề, tìm hiểu để, tóm 
tắt và trình bày bài giải (Chưa kể ở một số bài, giáo viên có thể chủ động 
giảm bớt một số bài tập khó cho phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc 
thiểu số theo hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học số 5842 của Bộ 
GD&ĐT). 
III. Thực trạng: 
Toán học có tầm quan trọng rất lớn trong việc học tập của học sinh. Nhờ 
biết tính toán học sinh mới vận dụng được vào thực tế cuộc sống. Cho nên việc 
dạy cho học sinh tính toán thông thạo luôn được người giáo viên đặt lên hàng 
đầu. Bên cạnh việc tính toán cộng, trừ, nhân, chia thì giải toán có lời văn cũng 
rất cần thiết đối với học sinh. Đặc biệt là bài toán có lời văn, nó đòi hỏi học sinh 
6/16 
phải hiểu biết và tư duy. Từ đó, giúp học sinh nâng cao kiến thức, nâng tầm hiểu 
biết, ham học toán. 
Qua khảo sát đầu năm tại lớp 2D do tôi làm chủ nhiệm, lớp có tổng số 41 
học sinh thì tỉ lệ học sinh chưa hoàn thành ở bài toán có lời văn là 41%. Điều 
này càng thôi thúc tôi phải tìm ra những biện pháp hữu ích để giúp các em học 
sinh đều làm đúng phép tính, ghi lời giải chuẩn xác và ghi đáp số rõ ràng trong 
giải toán có lời văn. 
IV. Một số biện pháp trong việc rèn kỹ năng giải Toán có lời văn: 
1. Mục tiêu của biện pháp 
Đề tài tôi đưa ra không ngoài mục tiêu là giúp người giáo viên phải xác 
định rõ mục tiêu của việc hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán, tìm cách giải các 
bài toán có lời văn và cần phải đạt được các tri thức, kĩ năng sau : 
- Học sinh nhận biết “cái đã cho”, “cái phải tìm” trong mỗi bài toán, mối quan 
hệ giữa các đại lượng có trong mỗi bài toán, biết lập luận để đưa ra cách tóm tắt dễ 
hiểu nhất 
- Học sinh giải được các bài toán hợp với một số quan hệ thường gặp giữa 
các đại lượng thông dụng. 
- Học sinh biết trình bày bài giải đúng quy định theo yêu cầu bài toán. 
2. Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp: 
2.1. Biện pháp 1: Khảo sát và phân loại trình độ học sinh 
Trong một lớp học, trình độ học sinh không đồng đều, giáo viên cần kiểm 
tra, rà soát lại trình độ học sinh, tìm hiểu xem học sinh chưa hoàn thành thì giải 
bài toán có lời văn còn sai chỗ nào, lời giải hay phép tính. Từ đó, có biện pháp 
kịp thời tư vấn, tác động đến đối tượng học sinh đó. Đưa ra những câu hỏi gợi 
mở kịp thời, hợp lí, dễ hiểu để học sinh nắm được cách giải bài toán. 
2.2. Biện pháp 2: Rèn kỹ năng đọc đề toán cho học sinh 
Giáo viên yêu cầu học sinh cần đọc kỹ đề bài toán khoảng 1 phút đến 2 
phút để hiểu được đề bài toán. Từ đó, học sinh biết được những dữ kiện, dữ liệu 
bài toán, cái nào có rồi cái nào chưa có, chưa có thì phải đi tìm thì mới giải bài 
toán được. Dần dần những học sinh này sẽ có được thói quen đọc kỹ, tìm hiểu kỹ 
đề bài. 
2.3. Biện pháp 3: Rèn óc sáng tạo, tư duy cho học sinh 
Giáo viên ra nhiều đề toán khác nhau đúng với chuẩn kiến thức kỹ năng, 
từ dễ đến khó nâng dần mức độ giải toán cho học sinh từ thấp đến cao. Để học 
sinh không còn suy nghĩ máy móc, bắt chước và lúng túng khi gặp dạng toán 
khác. Giáo viên có thể thực hiện bằng cách: cho bài toán thứ nhất học sinh giải 
được, bài toán thứ hai khó hơn giáo viên cho học sinh làm vào phiếu học tập, 
7/16 
giáo viên thu lại kiểm tra, phân loại nhóm học sinh nào hoàn thành, nhóm nào 
chưa hoàn thành. Giáo viên tư vấn thúc đẩy cho nhóm học sinh chưa hoàn thành. 
2.4. Biện pháp 4: Rèn luyện kỹ năng tính toán đúng kết quả 
Giáo viên cho học sinh làm các phép tính cộng, trừ, nhân, chia vào 15 
phút đầu giờ, trong các giờ học buổi chiều. Hình thức học sinh sẽ làm bài bảng 
lớp, bảng con hoặc vở nháp. Bên cạnh đó, học sinh về nhà tự làm lại các phép 
tính cộng, trừ, nhân, chia đã thực hiện trên lớp sau đó đối chiếu lại kết quả mà 
giáo viên đã sửa trên lớp. Tính toán nhiều thì học sinh mới có kỹ năng tính 
nhanh, tính đúng. 
2.5. Biện pháp 5: Hướng dẫn chi tiết quy trình chung khi giải bài toán có lời 
văn ở lớp 2 
Quá trình giải toán thường theo 4 bước sau: 
- Tìm hiểu nội dung bài toán 
- Tìm cách giải bài toán 
- Thực hiện cách giải toán 
- Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải bài toán. 
Thực tiễn dạy học giải toán đã khẳng định tính đúng đắn của 4 bước giải 
toán nói trên. Đối với học sinh tiểu học, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn thường 
xuyên, lặp đi lặp lại qua các tiết học để hình thành cho các em thói quen thực 
hiện giải toán theo 4 bước đó. 
2.5.1. Tìm hiểu nội dung bài toán 
Quá trình tìm hiểu nội dung bài toán (đề toán) thường thông qua việc đọc 
bài toán. Học sinh cần đọc kỹ, hiểu rõ đề toán, phân biệt được cái đã cho và cái 
phải tìm.Có thể nói đây là bước quan trọng góp phần vào sự thành công trong việc 
giải toán của học sinh, giáo viên cần hướng dẫn để học sinh xác định được yêu 
cầu của đề, nắm bắt được mấu chốt trong yêu cầu của bài toán. Hết sức tránh tình 
trạng học sinh vừa đọc xong đề đã vội vã bắt tay vào giải ngay. Phải tập cho học 
sinh có thói quen tự tìm hiểu đề toán qua việc phân tích những điều đã cho và xác 
định được những điều phải tìm. 
Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng vì việc lựa chọn 
phép tính thích hợp được quy định không chỉ bởi các dữ kiện mà còn bởi các câu 
hỏi. Với cùng các dữ kiện như nhau có thể đặt các câu hỏi khác nhau do đó việc 
lựa chọn phép tính cũng khác nhau, việc thấu hiểu câu hỏi của bài toán là điều 
kiện căn bản để giải đúng bài toán đó. Do vậy, giáo viên cần chú ý với việc kết 
hợp giảng giải từ và thuật ngữ toán học giúp học sinh hiểu được nội dung bài 
toán. Giáo viên cần dựa vào các hoạt động cụ thể của các em với vật thật, mô 
hình hay dựa vào hình vẽ, các sơ đồ toán học.... để giúp các em hiểu khái niệm 
8/16 
"nhiều hơn ", "ít hơn”, ‘thêm”, “bớt”,... trong tương quan giữa các mối quan hệ 
trong bài toán. Giáo viên cần chú ý vận dụng các biện pháp tăng cường tiếng 
Việt cho học sinh trong tất cả các môn học giúp các em được rèn luyện nhiều 
hơn về khả năng đọc – hiểu tiếng Việt. 
 Để kiểm tra việc học sinh hiểu nội dung bài toán như thế nào, giáo viên 
nên cho học sinh nhắc lại yêu cầu bài toán không phải bằng hình thức đọc thuộc 
lòng mà bằng cách diễn đạt của mình. Sau khi đọc bài toán, học sinh cần xác 
định được 3 yếu tố cơ bản của bài toán: 
- Những dữ kiện của bài toán: Đó là những cái đã cho, những cái đã biết 
của bài toán. Giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định dữ kiện bằng bút chì 
trước rồi mới phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân các dữ kiện 
đã cho theo quy ước là một gạch) 
- Những ẩn số: Là cái chưa biết, là cái bài toán yêu cầu tìm. Tương tự như 
trên, giáo viên nên yêu cầu học sinh tự xác định ẩn số bằng bút chì trước rồi mới 
phát biểu bằng lời sau (hướng dẫn học sinh gạch chân cái bài toán yêu cầu tìm 
theo quy ước là hai gạch để học sinh phân biệt). Việc làm này được thực hiện 
thường xuyên sẽ rèn luyện cho học sinh tính tích cực, chủ động trong giải toán. 
- Những điều kiện của bài toán: Đó là mối liên hệ giữa các dữ kiện và các ẩn 
số. 
Ví dụ: Có 18 lá cờ chia đều 2 tổ. Hỏi mỗi tổ được mấy lá cờ?( bài 3 trang 111- 
SGK Toán 2) 
+ Cái đã cho: 18 lá cờ chia đều 2 tổ 
+ Cái cần tìm: mỗi tổ được mấy lá cờ? 
Lưu ý học sinh là trong quá trình giải toán không phải tất cả đề bài đều 
cho biết cái đã cho trước và cái cần tìm sau mà đôi khi ngược lại: Đưa cái cần 
tìm trước rồi mới biết cái đã cho; cũng có khi cái đã cho và cái cần tìm đan xen 
với nhau. 
Ví dụ 1: Tính chu vi hình tam giác có độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm và 
28mm? (bài 3 – trang 153- SGK Toán 2) 
+ Cái cần tìm: Tính chu vi hình tam giác. 
+ Cái đã cho: độ dài các cạnh là: 24mm, 16mm, 28mm 
Ví dụ 2: Có 12 học sinh chia đều thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 học sinh. Hỏi 
chia được thành mấy nhóm? ?”( bài 3 - trang 136 - SGK Toán 2) 
+ Cái đã cho: mỗi nhóm có 3 học sinh 
+Cái cần tìm: 12 học sinh chia được mấy nhóm? 
2.5.2. Tìm cách giải toán 
 Hoạt động tìm tòi cách giải bài toán gắn liền với việc phân tích các dữ 
kiện, ẩn số và điều kiện của bài toán nhằm xác lập mối quan hệ giữa chúng. Từ 
đó lựa chọn phép tính số học thích hợp. Hoạt động này thường diễn ra như sau: 
- Minh hoạ bài toán thông qua tóm tắt đề toán: Việc làm này giúp học sinh 
bớt được một số câu, chữ làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa các số 
đã cho và số phải tìm hiện ra rõ hơn. Bởi vậy cần tóm tắt thật ngắn gọn, GV chỉ cần 
hướng sự tập trung chú ý của HS đến những chi tiết chính của bài toán, còn những 
chi tiết phụ của bài toán cần gạt bỏ đi để HS không bị rối. Tóm tắt bài toán chính là 
sự biểu diễn cái đã cho, cái cần tìm và mối liên hệ giữa chúng. Có rất nhiều cách để 
tóm tắt một bài toán, có thể tóm tắt đề toán theo các cách sau: 
 + Tóm tắt bằng lời + Dùng sơ đồ đoạn thẳng 
+ Dùng ngôn ngữ và kí hiệu +
.
 Dùng chữ thay số
.............
+ Dùng sơ đồ Graph + Dùng bảng 
+ Dùng sơ đồ ven + Dùng hình vẽ 
+Dùng hình tượng trưng 
Tuy nhiên, với khả năng của học sinh lớp 2, chúng ta chỉ nên hướng dẫn các 
em các cách tóm tắt bằng lời, dùng sơ đồ đoạn thẳng hoặc dùng hình tượng trưng. 
Ví dụ 1: Trong vườn có 9 cây táo, mẹ trồng thêm 6 cây táo nữa. Hỏi trong vườn 
có tất cả bao nhiêu cây táo? 
 Tóm tắt: 
Có : 9 cây táo 
 Thêm : 6 cây táo 
 Tất cả có : cây táo? 
Ví dụ 2: Lớp 2A có 29 học sinh và số học sinh lớp 2B nhiều hơn số học sinh 
lớp2A là 5 học sinh. Hỏi lớp 2B có bao nhiêu học sinh? 
Ví dụ 3: Bình có 11 quả bóng bay, Bình cho bạn 4 quả. Hỏi Bình còn lại mấy 
quả bóng bay? 
Tóm tắt : 
Có : 
Cho bạn Còn lại : ... quả ? 
 Tóm tắt 
2A: 
5 học sinh 
29 họcsinh 
2B: 
? 
10/16 
Đối với một số bài toán nâng cao có thể dùng thêm các dạng tóm tắt khác 
cho học sinh dễ tìm ra cách giải. 
Ví dụ: Tìm một số biết rằng số đó lần lượt cộng với 1 rồi nhân với 2, được 
bao nhiêu đem chia cho 3 rồi trừ đi 4 thì được 5. 
Tóm tắt : 
Tùy theo trình độ học sinh thấp hay cao mà lựa chọn cách tóm tắt mang nhiều 
hay ít tính trực quan. Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn tóm tắt bài toán bằng cách 
đàm thoại (Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?). Học sinh dựa vào các dữ kiện của bài 
toán (phần đã gạch chân) để trả lời các câu hỏi của giáo viên và từng bước hoàn 
thành tóm tắt bài toán. 
- Lập kế hoạch giải toán nhằm xác lập trình tự giải quyết, thực hiện các phép 
tính số học: Có hai hình thức thể hiện tương ứng với hai phương pháp phân tích bài 
toán để tìm cách giải cho một bài toán, tùy từng bài toán cụ thể mà ta lựa chọn 
phương pháp tìm cách giải phù hợp. 
+ Phép phân tích xuôi: Là phương pháp tìm cách giải đi từ dữ kiện của bài 
toán đến câu hỏi của bài toán. Từ những cái đã cho (đã có) suy ra hoặc tính được 
điều gì giúp ích cho việc giải toán không? Cứ như thế ta suy luận để tìm ra cách 
giải toán. 
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán: “Lớp 2A có 18 học 
sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. Hỏi cả hai lớp có bao 
nhiêu học sinh đang tập hát?” (bài 3 -trang 11 - SGK Toán 2), giáo viên nêu các 
câu hỏi như sau: 
- Bài toán đã cho biết những gì? (Lớp 2A có 18 học sinh, lớp 2B có 21 học sinh) 
- Bài toán hỏi gì? (Cả hai lớp có bao nhiêu học sinh?) 
- Để biết cả hai lớp có bao nhiêu học sinh ta làm phép tính gì? (Làm phép 
 tính cộng) 
+ Phép phân tích ngược: Là phương pháp đi từ câu hỏi của bài toán đến dữ 
kiện của bài toán. Tức là phải tập trung vào câu hỏi của bài toán và suy nghĩ xem 
muốn trả lời được câu hỏi đó thì phải biết những gì và phải làm phép tính gì? 
Trong những điều kiện cần thiết phải biết đó thì cái nào là cái có sẵn, cái nào phải 
tìm và tìm như thế nào? Cứ như thế ta suy nghĩ ngược lên: Từ câu hỏi của bài toán 
trở về các điều kiện của bài toán. 
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán: “Có 12 học sinh chia 
đều thành các nhóm, mỗi nhóm có 3 học sinh. Hỏi chia được thành mấy 
4 :3  2 
 ? 
+1 
 5 
11/16 
 nhóm?”( trang 136 - SGK Toán 2), giáo viên nêu các câu hỏi như sau: 
- Bài toán hỏi gì? (Chia được thành mấy nhóm?) 
- Bài toán hỏi về số nhóm được chia từ mấy học sinh? ( Số nhóm được 
chia từ 12 học sinh) 
- Muốn biết từ 12 học sinh chia được thành mấy nhóm ta phải biết gì? 
(Biết mỗi nhóm có mấy học sinh?) 
- Điều đó chúng ta biết chưa? (biết rồi), mỗi nhóm có bao nhiêu học sinh? 
(mỗi nhóm có 3 học sinh) 
- Để biết chia được thành mấy nhóm ta làm phép tính gì? (Làm phép tính chia) 
2.5.3. Thực hiện cách giải bài toán. 
Hoạt động này bao gồm việc thực hiện phép tính đã được nêu trong bước 
tìm cách giải bài toán nêu trên và trình bày bài giải. Cách trình bày bài giải như 
sau: 
- Viết câu lời giải: Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều 
khi việc hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính 
và tính ra đáp số. Những tuần đầu khi học đến phần giải toán có lời văn, nhiều 
học sinh rất lúng túng khi viết lời giải, vì ở lớp 1 chỉ yêu cầu học sinh tập viết 
câu lời giải ở dạng đơn giản. Bởi vậy, ở những tiết toán có bài toán giải có lời 
văn, giáo viên cần dành nhiều thời gian hơn để hướng dẫn kĩ và kết hợp trình 
bày mẫu nhiều bài giúp các em hình thành và ghi nhớ kĩ năng giải toán. 
Ví dụ: Sau khi đọc đề toán ở trang 11 SGK Toán 2. 
 “ Lớp 2A có 18 học sinh đang tập hát, lớp 2B có 21 học sinh đang tập hát. 
Hỏi cả hai lớp có bao nhiêu học sinh đang tập hát?”. 
 Học sinh tập nêu bằng lời để tóm tắt bài toán: 
 Lớp 2A có : 18 học sinh. 
 Lớp 2B có : 21 học sinh. 
 Cả hai lớp có :  học sinh? 
 Học sinh nêu miệng câu lời giải: 
 Cả hai lớp có tất cả số học sinh đang tập hát là: 
 Học sinh nêu miệng phép tính: 18 + 21 = 39 (học sinh) 
 Tiếp đó, cho học sinh tự trình bày bài giải. Ở những bài toán trong các 
tuần đầu, giáo viên cần cho học sinh luyện nêu miệng bài toán nhiều lần để các 
em ghi nhớ cách trình bày một bài giải. 
Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh một số mẹo nhỏ để viết được lời giải 
chính xác với yêu cầu câu lời giải cần phải ghi ngắn gọn, đủ ý được mệnh đề khẳng 
định . Đối với bài toán trong ví dụ trên, có thể dùng các cách hướng dẫn học sinh 
như sau: 
12/16 
 Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi), thay từ 
“bao nhiêu” bằng từ “số” và thêm từ “là” ở cuối câu để có câu lời giải : "Cả 
hai lớp có số học sinh đang tập hát là:" 
 Cách 2: Bỏ từ “hỏi” và từ “bao nhiêu” trong câu hỏi rồi đưa từ "học 
sinh" ở cuối câu hỏi lên đầu và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: 
"Số học sinh cả hai lớp đang tập hát là:" 
 Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của 
câu lời giải. 
Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Cả hai lớp có :..học sinh ?". Học sinh 
viết câu lời giải: " Cả hai lớp có số học sinh là:" 
 Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: " Cả hai lớp có bao nhiêu học 
sinh đang tập hát?" để học sinh trả lời miệng: "Cả hai lớp có 39 học sinh đang 
tập hát" rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép 
tính): 
 Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 18 + 21 = 39 (học sinh), giáo 
viên chỉ vào 39 và hỏi: "39 học sinh ở đây là số học sinh của lớp nào?" (là số 
học sinh của cả hai lớp). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa 
thành câu lời giải: "Số học sinh cả hai lớp là" v.v... 
Giáo viên có thể vận dụng các cách khác nhau để dẫn dắt học sinh tìm lời 
giải, không nên bắt buộc trẻ nhất nhất phải viết theo một kiểu lời giải nào đó. 
Tốt nhất là giáo viên gọi nhiều học sinh nêu các lời giải khác nhau rồi lựa 
chọn và chỉnh sửa (nếu chưa chính xác) thành lời giải phù hợp nhất cho bài 
giải. Sau đó cho học sinh yếu kém nhắc lại. Từ đó khắc sâu và nhấn mạnh cho 
học sinh hiểu muốn tìm được câu lời giải đúng với yêu cầu của bài toán phải dựa 
vào cái cần tìm (đây cũng chính là câu hỏi của bài toán ) 
 Tuy nhiên đối với bài toán tính độ dài đoạn thẳng, đoạn dây, đường gấp 
khúc... có số đo đại lượng như: km, m, dm, mm, . . . giáo viên cần phân biệt một 
cách chính xác các khái niệm như: "đại lượng", "Số đo của một đại lượng" để 
giúp học sinh tránh những sai lầm đồng nhất "đoạn thẳng" với "độ dài đoạn 
thẳng" hay "số đo đoạn thẳng". 
Ví dụ: Bài 4 trang 25 SGK 
 Đọan thẳng AB dài 10cm, đoạn thẳng CD dài hơn đoạn thẳng AB 2cm. 
Hỏi đoạn thẳng CD dài bao nhiêu cm? 
Học sinh không viết câu lời giải: "Số xăng-ti-mét đoạn thẳng CD dài là" 
mà phải viết là: "Độ dài đoạn thẳng CD là". 
- Viết phép tính: Phép tính phải viết theo hàng ngang, không được viết 
theo cột dọc. Không viết đơn vị kèm theo trong các phép tính mà chỉ viết đơn vị 
13/16 
 vào sau kết quả phép tính và đặt trong dấu ngoặc đơn. 
- Viết đáp số: Đáp số viết ở cuối bài giải, bài toán có bao nhiêu câu hỏi thì có 
bấy nhiêu đáp số, chỉ ghi 1 lần từ “đáp số”. Đáp số phải ngắn gọn và đủ ý trả lời cho 
câu hỏi của bài toán. Giáo viên cần hướng dẫn kĩ cho các em cách viết từ “Đáp số” 
lùi vào mấy ô li so với từ “Bài giải” (đã được viết chính giữa trang vở) 
Ví dụ: Con lợn thứ nhất nặng118kg. Con lợn thứ hai nặng kém con lợn thứ nhất 7kg. 
Hỏi: a) Con lợn thứ hai nặng bao nhiêu ki-lô-gam? 
b) Cả hai con lợn nặng bao nhiêu ki-lô-gam? 
 (Bài 239 – trang 39 - Toán nâng cao lớp 2) 
Bài giải: 
a) Con lợn thứ hai nặng là: 
118 – 7 = 111(kg) 
b) Cả hai con lợn nặng là: 
 118 + 111 = 229 (kg) 
 Đáp số: a) 111 kg 
 b) 229 kg 
2.5.4. Kiểm tra cách giải bài toán. 
 Việc kiểm tra nhằm phân tích x

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_trong_viec_ren_ky_nan.pdf