Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số - Trường mầm non Hoa Hồng

Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số - Trường mầm non Hoa Hồng

Kết hợp với cha mẹ học sinh tận dụng nguồn nguyên vật liệu sẵn có của địa phương như: vỏ ốc núi, vỏ trứng gà- vịt, nan tre- nứa, quả cầu lông, vỏ ống cầu lông, vỏ hộp các loại nước giải khát, các hộp xốp, vỏ hộp thuốc, vỏ hộp dầu rửa bát làm đồ dùng có ghi tên đồ vật tương ứng giúp trẻ phát triển tiếng Việt.

 Tuyên truyền tác dụng của việc tổ chức dạy tiếng Việt cho trẻ. Để đông đảo phụ huynh hưởng ứng và ủng hộ nhiệt tình, trong vấn đề tạo dựng cảnh quan môi trường trong lớp đẹp, hấp dẫn đối với trẻ. Lôi cuốn trẻ hứng thú đến trường ngày càng đông.

 Trao đổi với phụ huynh có thể mua cho trẻ những bài thơ, hay những băng đĩa có bài hát phù hợp với lứa tuổi để giúp trẻ luyện tập nhiều hơn, từ đó trẻ có kiến thức về tiếng việt tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên hơn khi tổ chức các hoạt động ở trường.

 Ví dụ: Khi bắt đầu một chủ điểm mới giáo viên kịp thời nhắc phụ huynh để phụ huynh nắm được và kết hợp với giáo viên dạy trẻ ở nhà.

 Ngoài ra trong các ngày lễ lớn tôi mời phụ huynh đến dự các tiết chuyên đề thao giảng, hội giảng để phụ huynh thấy được các phương pháp hình thức tổ chức cho trẻ học tập và lồng ghép tăng cường tiếng Việt trong mỗi hoạt động. Từ đó giúp phụ huynh có cách nghĩ tốt hơn về việc học tập của các cháu, nhất là tăng cường tiếng Việt ở trường lớp Mầm non là như thế nào

 

doc 24 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 4307Lượt tải 4 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp tăng cường Tiếng Việt cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số - Trường mầm non Hoa Hồng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hưa thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với Tiếng Việt (Trong các hoạt động mọi lúc mọi nơi) mà đa phần trẻ được tiếp xúc với Tiếng Việt thông qua các môn học có các từ khó để phát triển ngôn ngữ tiếng việt cho trẻ.
	Chính vì nhìn thấy những điều bất cập trong việc tổ chức cho trẻ làm quen với tiếng việt, bản thân tôi đã mạnh dạn tìm tòi, học hỏi để tìm cho mình những biện pháp có thể áp dụng trong quá trình thực hiện cho trẻ nói tiếng việt nhằm tăng cường tiếng việt cho trẻ.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp.
a. Mục tiêu của giải pháp
Những giải pháp, biện pháp nêu ra trong đề tài nhằm mục tiêu giúp trẻ tăng cường Tiếng Việt, phát huy hết được tính tích cực chủ động trong giao tiếp bằng tiếng việt với mọi người xung quanh.
	Giáo viên trau dồi thêm kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
	Từ việc khảo sát khả năng nói tiếng việt của trẻ lớp lá 2 phân hiệu Buôn Cuê trường Mầm non Hoa Hồng tôi đã tìm ra những biện pháp nhằm tăng cường tiếng việt cho trẻ đồng bào dân tộc thiểu số.
Biện pháp 1: Bồi dưỡng chuyên môn cho bản thân
	Để bản thân nắm được mục đíc ý nghĩa, yêu cầu, nội dung, phương pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ tôi cần phải có trách nhiệm gần gũi trò chuyện với trẻ kết hợp với cử chỉ, hành động để trẻ dần được làm quen với tiếng Việt một cách tự nhiên không gò bó. Ví dụ: Thông qua biện pháp trực quan hành động giúp cho học sinh tiếp thu có hiệu quả và học ngôn ngữ mới một cách tự nhiên hứng thú. Mục đích của phương pháp này nhằm giúp cho học sinh đạt được các mục đích như: hiểu và sử dụng ngôn ngữ mới trong giao tiếp, hình thành và rèn luyện kỹ năng nghe, nói một ngôn ngữ mới. Không cho trẻ nói khi chưa thực hiện thành thạo được các hành động, để có thể tập trung lắng nghe chuẩn xác. Khi đã nghe rõ, hiểu, thuộc và tự tin làm đúng, trẻ sẽ tự muốn nói và có thể tự thực hành với bạn của mình, giáo viên cần cho trẻ đều được thực hành ở mỗi lần học. Chỉ sử dụng ngôn ngữ đơn giản, ngắn gon, không dẫn dắt, giảng giải nhiều vì trẻ chưa hiểu tiếng Việt
	Khi dạy trẻ, giáo viên cần xác định trước những loại từ, câu nào sẽ sử dụng khi hướng dẫn trẻ. Nên sử dụng các điệu bộ cử chỉ để ra hiệu cho trẻ hiểu ý đồ của mình, thay cho việc nói nhiều của giáo viên. Lúc đầu dạy từ 1-2 từ dễ hiểu kết hợp với hành động như: Đứng lên, ngồi xuống... đến ngày hôm sau cô giáo cần cho trẻ ôn lại những gì được học ngày hôm trước, để khắc sâu sự ghi nhớ bằng hình thức chơi mà không cần phải giữ nguyên thứ tự từ các bước ngày hôm trước dạy nữa ví dụ: Đứng lên - ngồi xuống, ngồi xuống - đứng lên, rửa tay rửa chânDạy tiếng Việt với biện pháp trực quan hành động với đồ vật, biện pháp này dạy trẻ các từ mới như: Cái bàn, cái ghế, quyển vở 
	Ngoài ra còn sử dụng các biện pháp dạy trẻ học tiếng Việt qua kể chuyện, đóng vai, đối với mỗi câu chuyện, làm các đồ chơi minh hoạ, đơn giản tượng trương cho các nhân vật chính, sử dụng các nhân vật có sẵn để làm đồ dùng minh hoạ. Hoặc trẻ học tiếng Việt thông qua việc dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái tiếng Việt. Nội dung chủ yếu của việc dạy này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng chữ cái. Chúng ta có thể coi việc giúp trẻ làm quen với chữ cái là cốt lõi của việc làm quen với Tiếng việt có nghĩa là việc cho trẻ làm quen với chữ cái chưa phải là tất cả những nội dung công việc giúp trẻ làm quen với tiếng Việt. Cách gọi làm quen với Tiếng việt thường gợi ra một phạm vi nội dung rộng rãi hơn so với cách gọi làm quen với chữ cái. Do đó có thể thấy nội dung dạy trẻ làm quen với tiếng Việt không chỉ là dạy trẻ phát âm, dạy trẻ tập tô 29 chữ cái mà còn dạy trẻ đọc đúng các chữ cái, các từ trong tranh, hiểu được nội dung của từ và biết dùng từ để diễn đạt thành câu, muốn được như vậy trước hết ta phải giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái trong Tiếng việt. 
	Có một số ít trẻ nói được tiếng Việt nhưng chưa biết các chữ cái hay từ ngữ của Tiếng việt.Vì vậy việc dạy trẻ làm quen với chữ cái giúp trẻ nhận biết chính xác cấu tạo của chữ cái, cách phát âm để từ đó trẻ nghe cô phát âm để tìm được chữ cái tương ứng, nhìn chữ cái phát âm được chữ cái. 
Ví dụ : Hôm nay cô cho trẻ nhận biết chữ e – ê chẳng hạn: Cô cho trẻ xem tranh " Mẹ bế bé" cho trẻ đọc từ : Mẹ bế bé. Trẻ nhận biết trong từ Mẹ bế bé có bao nhiêu tiếng ? Có mấy con chữ cái ? Rồi cô ghép thẻ chữ rời cho cháu nhận biết dấu thanh tìm chữ đã học rồi phát âm lại những chữ đó. Còn lại cô giới thiệu cho trẻ làm quen e - ê, tôi phân tích các nét cơ bản cấu tạo nên chữ cái e - ê, cho trẻ phát âm chữ e - ê nhiều lần giúp trẻ khắc sâu cấu tạo của chữ cái và trẻ nhận biết một cách chính xác từng chữ cái. 
Biện pháp 2: Sử dụng các phương pháp chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số
* Phương pháp trực quan hành động: 
Để giúp cho trẻ tiếp thu hiệu quả và học ngôn ngữ mới một cách tự nhiên, trẻ có thể duy trì và sử dụng được ngay ngôn ngữ tiếng Việt một cách liên tục và có hệ thống tôi đã áp dụng các phương pháp cụ thể như sau:
+ Phương pháp trực quan hành động với cơ thể: Muốn dạy trẻ nghe và hiểu ý nghĩa của từ mới trước tiên cần sử dụng các vận động cơ thể, trẻ sẽ hiểu được ý nghĩa của hành động đó trước khi nói một từ mới
Ví dụ: Cho trẻ học về các quy định của lớp như đứng lên, ngồi xuống. Đầu tiên giáo viên làm mẫu cho trẻ quan sát, cho 2-3 trẻ lên làm mẫu(trẻ ở dưới quan sát) giáo viên nói: "Đứng lên" trẻ làm theo và không nói. Sau đó nói "ngồi xuống", hô 2-3 lần với tốc độ và thay đổi vị trí của từ như: Đứng lên - ngồi xuống, đứng lên - đứng lên - ngồi xuống để trẻ chú ý lắng nghe và thực hiện các hành động tương ứng với các từ. Khi trẻ đã thực hiện một cách thành thạo thì giáo viên chi thành các nhóm, một bạn ra lệnh các bạn khác thực hiện sau đó đổi vị trí cho nhau. Giáo viên kiểm tra lại bằng cách: Cô nói lại các từ vừa học, trẻ thực hiện động tác hoặc giáo viên thực hiện hành động trẻ nói lại được các từ đã học. Ví dụ: Cô giáo đứng lên(không nói) trẻ cùng làm theo cô vừa đứng lên vừa nói từ đứng lên, tương tự như vậy với các từ khác. Với cách làm này, trẻ vừa hiểu được nghĩa của từ vừa nói được chính xác từ mới. Mỗi ngày chỉ hcj từ 1 - 2 từ các từ nên chọn theo chủ đề trẻ sẽ dễ nhớ hơn. Với cách sử dụng vận động cơ thể như vậy, mặc dù không có đồ dùng, đồ chơi nhưng vẫn cung cấp cho trẻ một số vốn từ và cấu trúc ngữ pháp nhất định giúp trẻ nghe hiểu tiếng Việt dễ dàng hơn.
+ Phương pháp trực quan hành động với đồ vật: Khi học từ đồ vật giáo viên chỉ vào từng đồ vật và nói tên. Ví dụ cô chỉ vào cái thìa và nói: Cái thìa, trẻ nhắc lại từ: Cái thìa. Tương tự như vậy với các đồ vật khác, mỗi từ nhắc lại 3 - 4 lần để trẻ phát âm và ghi nhớ. Sau khi trẻ đã nắm vững các từ mới thì dạy co trẻ nói cả câu: "Đây là cái thìa", "Đây là cái đĩa". Tiếp đó dạy trẻ đặt câu hỏi: Đây là cái gì?, chia nhóm 2 - 3 trẻ để thực hành, một trẻ đặt câu hỏi, một trẻ trả lời sau đó đổi vai cho nhau. Với hình thức này sẽ giúp trẻ học được các danh từ theo các chủ đề, các từ đã học được sử dụng thường xuyên cùng với những từ mới thì sẽ làm cho vốn từ vựng của trẻ thêm phong phú.
+ Phương pháp trực quan hành động với tranh ảnh: Phương pháp này được áp dụng sau khi trẻ đã nắm được các từ mới của phần trực quan hành động với cơ thể và trực quan hành động với đồ vật. Hình thức này có 3 cách thể hiện:
Sử dụng bức tranh có sẵn:
Khi trẻ đã có một số lượng từ vựng nhất định cơ thể sử dụng tranh ảnh để dạy từ và câu cho trẻ. Giáo viên cho trẻ xem tranh, giới thiệu các từ mới với trẻ, chia trẻ thành từng nhóm, cho trẻ kể về bức tranh và đặt câu hỏi cho bạn khác, nếu trẻ nói tốt có thể hỏi trẻ: Bức tranh này vẽ gì? Con nhìn thấy gì nữa?
Vẽ tranh theo yêu cầu của cô:
Giáo viên nói với trẻ về bức tranh (chủ đề) sẽ vẽ, ví dụ: Cô vẽ một cái cây (vừa nói vừa vẽ) sau khi cô vẽ song cái cây cô yêu cầu từng trẻ ví dụ cháu A vẽ thêm cỏ, cháu B vẽ thêm mặt trời, mây... nếu trẻ thực hiện được có nghĩa là trẻ đã hiểu được yêu cầu của cô, cho các trẻ khác nhận xét sau đó cho trẻ nói về bức tranh đã vẽ.
Di chuyển tới các bức tranh/ảnh:
Học nghe nói thông qua việc di chuyển đến các bức tranh/ảnh chủ yếu để giúp trẻ học các từ chỉ các địa điểm, nơi chốn, tranh ảnh dùng cho trẻ phải là tranh vẽ rõ, màu sắc đẹp, ít chi tiết. Giáo viên cho trẻ di chuyển tới các bức tranh xung quanh lớp có từ cần học, hỏi trẻ về bức tranh và cho trẻ đọc từ dưới tranh.
* Phương pháp sử dụng tiếng mẹ đẻ để dạy trẻ tiếng Việt
Để tạo sự mạnh dạn, tự tin cho trẻ khi đến trường Mầm non giáo viên tạo cơ hội để cho trẻ "nói, nói và nói" bằng tiếng mẹ đẻ với các bạn cùng lớp, các anh chị tiểu học và với những người xung quanh. Các chủ đề nói chuyện là những công việc, hoạt động diễn ra hàng ngày xung quanh trẻ như: Cách chào hỏi khi gặp người lớn, công việc của bố mẹ, anh chị em trong gia đình và bản thân, về thời thiết, về các vật nuôi...Trong quá trình nhận thức, khi được sử dụng tiếng mẹ đẻ trẻ sẽ biết nhanh và chính xác hơn bản chất của các sự vật và hiện tượng, bởi vì trẻ hiểu được nghĩa trước khi học một khái niệm mới. Chính vì thế nếu giáo viên không biết tiếng dân tộc thiểu số thì giáo viên có thể mời cha mẹ trẻ hỗ trợ trong việc trò chuyện vớ trẻ, giáo viên cần đưa ra chủ đề và hướng dẫn cho người hỗ trợ cách trò chuyện, cách đặt câu hỏi.
Cho trẻ nghe và kể lại các chuyện trong chương trình: Giáo viên hoạc người biết tiếng dân tộc thiểu số tóm tắt câu chuyện bằng tiếng dân tộc thiểu số để trẻ nghe và hiểu được ý nghĩa, nội dung chuyện và cho trẻ kể lại bằng tiếng mẹ đẻ. Sau đó mới cho trẻ nghe và kế lại bằng tiếng Việt.
Có thể dịch một số bài thơ, bài hát có nội dung gần gũi sang tiếng dân tộc thiểu số cho trẻ đọc, hát. Sau đó cho trẻ đọc, hát lại bằng tiếng Việt.
* Phương pháp sử dụng trò chơi
Trẻ mầm non học thông qua chơi vì trò chơi luôn mang lại hứng thú cho trẻ nên việc tổ chức cho trẻ chơi trò chơi để học tiếng Việt là rất cần thiết. Giáo viên tổ chức các trò chơi học tập, trò chơi vận động, trò chơi âm nhạc...ví dụ khi chơi trò chơi "Chim bay, cò bay" trẻ sẽ học được các từ chỉ các con vật biết bay và các từ chỉ con vật không thể bay được.
* Phương pháp cho trẻ làm quen với đọc, viết
Cho trẻ làm quen với đọc: Giáo viên tạo cho trẻ đọc theo cách của mình, cho trẻ xem tranh và gợi ý để trẻ kể lại bằng chính ngôn ngữ của trẻ. Trẻ kể sáng tạo theo ý của trẻ.
Cho trẻ làm quen với viết: Cần dành nhiều thời gian để luyện cơ ngón tay cho trẻ thông qua vẽ, xâu hạt...cho trẻ thường xuyên được viết bằng phấn trên nền nhà. Khuyến khích trẻ viết những gì trẻ thích và sau đó hỏi trẻ là viết cái gì? Làm như vậy vừa khuyến khích trẻ viết vừa khuyến khích trẻ đọc lại (Thực chất là luyện kỹ năng diễn đạt suy nghĩ của bản thân).
Biện pháp 3. Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ thông qua việc làm quen với chữ cái
	Sau khi giúp trẻ làm quen và nắm được 29 chữ cái trong Tiếng việt tôi tiến hành cho trẻ tham gia các trò chơi với chữ cái, cho trẻ tập tô chữ cái giúp trẻ dần dần nắm được toàn bộ hệ thống chữ cái qui định trong chương trình, đồng thời chính xác hoá cách phát âm. Do đặc điểm của lứa tuổi nên việc giáo dục trẻ mẫu giáo được tiến hành theo phương châm học bằng chơi, chơi mà học. Từ đó 
tôi luôn nghĩ cần phải phát huy hết tác dụng của các trò chơi để dạy trẻ. Điều đáng chú ý là trẻ rất ham thích được học qua hình ảnh trực quan, tổ chức hoạt động học thông qua các trò chơi. Mỗi khi được nhìn thấy đồ dùng, đồ chơi trẻ rất vui, thích tìm hiểu sờ mó và cùng nhau khám phá. nắm bắt được đặc điểm này chúng tôi đã không ngừng học sưu tầm những trò chơi hay, mới lạ trên báo chí, thông tin đại chúng để đưa vào dạy trẻ phù hợp theo nội dung từng chủ điểm. 
Ví dụ: Trò chơi tìm chữ cái l, m, n trong bài thơ "Cây đào" 
Cây đào đầu xóm
Lốm đốm nụ hồng
Chúng em chỉ mong
Mùa đào mau nở
Bông đào nho nhỏ
Cánh đào hồng tươi
Hễ thấy hoa cười
Đúng là tết đến
	Tôi viết bài thơ lên giấy rô ki (mỗi tờ tranh đã được viết nội dung một bài), tôi chia lớp làm 2 đội lên dùng bút tìm và gạch chân chữ l, m, n có trong mỗi câu thơ và đọc chữ cái mình đang gạch chân đội nào tìm gạch chân được nhiều chữ l, m, n thì chiến thắng và được tuyên dương. Tôi còn cho trẻ nhận biết và phát âm chữ cái qua nhiều trò chơi khác như "Nối chữ cái với từ có chứa chữ cái đó" "Dạy trẻ phát âm tiếng Việt thông qua trò chơi tìm chữ cái theo yêu cầu của cô"
	Tăng cường tiếng Việt thông qua trò chơi gắn chữ cái trên đồ dùng, đồ chơi, " Xếp chữ cái bằng hột hạt". "Xếp các nét cơ bản tạo thành chữ cái"... Bên cạnh đó tôi luôn tranh thủ thời gian tự làm thêm một số đồ dùng đồ chơi để cho trẻ được thực hành trải nghiệm. Tôi thiết nghĩ trẻ được thực hành trải nghiệm nhiều với đồ dùng đồ chơi sẽ giúp trẻ ghi nhớ chữ cái một cách sâu sắc hơn, tập phát âm Tiếng việt một cách chuẩn hơn.Từ đó cũng góp phần không nhỏ vào việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ. Qua một thời gian thực hiện lớp tôi tiến bộ rõ rệt, cháu hứng thứ trong học tập, nhiều cháu thuộc chữ cái và phát âm đúng chữ cái mà tôi đã dạy trẻ.
Biện pháp 4: Tăng cường tiếng Việt cho trẻ thông qua môn văn học
	Để giúp trẻ học ngôn ngữ và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng việt trong học tập cũng như trong cuộc sống. Tôi nghĩ trước hết cần dạy trẻ những kỹ năng chú ý nghe và phát âm thông qua môn văn học là vô cùng cần thiết.Trước khi vào dạy học thơ hay kể một câu chuyện nào đó, điều đầu tiên tôi chú ý là lựa chọn bài thơ, câu chuyện không quá dài, có nội dung hấp dẫn trẻ để cung cấp, vì trẻ dân tộc thiểu số rất hiếu động thời gian tập trung chú ý nghe cô giảng rất ngắn, nắm được điểm yếu này của trẻ vùng dân tộc thiểu số, tôi luôn tạo ra tình huống vui nhộn để lôi cuốn trẻ vào giờ học bằng một giọng nói lúc trầm lúc bổng để gây sự chú ý, khơi gợi tính tò mò của trẻ, đã tạo được tâm thế cho trẻ trước khi vào học tôi tiến hành đi vào giờ học chính bằng ngôn ngữ giới thiệu hấp dẫn từ ngữ thật gần gũi, thật dễ hiểu đối với trẻ, giáo viên đọc thơ hay kể chuyện với giọng thật truyền cảm, phối hợp các động tác minh họa phù hợp, để lôi cuốn trẻ chăm chú lắng nghe, để lĩnh hội từng câu, từng lời của cô, tiếp đến tôi giảng nội dung câu chuyện, bài thơ một cách ngắn gọn để giúp trẻ dễ hiểu, tôi tiến hành cho trẻ đọc thơ theo tôi từng câu, tôi luôn đổi cách cho trẻ đọc thơ theo tổ, nhóm, lớp , cá nhân, hay bạn nam và bạn nữ thi đua nhằm tạo khí thế cho trẻ trong học thơ, còn đối với chuyện thì cần kể nhiều lần và đàm thoại theo trình tự nội dung câu chuyện, và thể hiện giọng điệu, tính cách của từng nhân vật trong chuyện một cách phù hợp nhằm giúp trẻ khắc sâu hơn nội dung cũng như tính cách của các nhân vật trong chuyện, sau đó tôi tiến hành mời cháu khá lên kể lại chuyện cho cả lớp nghe, tôi không quên khuyến khích trẻ bằng một món quà hay thưởng bằng những tràng pháo tay động viên. Chính nhờ như vậy học sinh lớp tôi ngày càng ham thích học thơ, kể chuyện, nhiều cháu thuộc thơ, kể lại câu chuyện một cách hoàn chỉnh, như vậy việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số của tôi gặt hái được nhiều thành công hơn so với trước, tôi vô cùng phấn khởi và tiếp tục áp dụng một số biện pháp khác để ngày nâng cao hiệu quả hơn
Biện pháp 5: Cung cấp tiếng Việt cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi
	Tạo môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt
Giáo viên thường xuyên trò chuyện với trẻ thông qua các hoạt động ở mọi lúc mọi nơi về những chủ đề gần gũi trong cuộc sống. Khuyến khích trẻ tham gia trò chuyện với cô giáo và các bạn.
Mở rộng và tích cực hóa các thành phần giao tiếp như mời phụ huynh, anh chị, những người biết tiếng Việt đến trò chuyện, giao tiếp với trẻ để tạo cơ hội cho trẻ được nghe và nói.
Tổ chức các hoạt động có sử dụng văn hóa địa phương như: Kể chuyện dân gian, đọc thơ, đồng giao, ca dao, hát dân ca, hò vè...bằng tiếng mẹ đẻ và bằng tiếng Việt.
Tăng cường sử dụng các phương tiện hỗ trợ như băng, đĩa, tivi để trẻ được nghe và phân biệt âm thanh từ các giọng nói khác nhau. Tăng cường các hình thức như chơi trò chơi, văn nghệ, sinh hoạt tập thể để trẻ có nhiề cơ hội thể hiện mình.
Tạo môi trường chữ viết trong lớp học
Tăng cường các phương tiện, đồ vật xuất hiện chữ như: Dán tên cho các góc hoạt động, các kệ, giá để đồ chơi, đồ dùng, học liệu, các đồ vật, đồ chơi, tranh ảnh, cây cảnh, trên các sản phẩm của trẻ, thẻ tên của trẻ, biểu bảng có chữ (Danh sách trẻ, lịch sinh hoạt...), bảng chữ cái.
Tăng cường các hoạt động cho trẻ được tiếp xúc với chữ như "đọc" sách truyện tranh, "đọc" họa báo, tạp chí, lamg bộ sưu tập chủ đề cùng cô.
Ngoài ra thực tế cho ta thấy rằng bất đồng ngôn ngữ là rất khó khăn trong giao tiếp, vì vậy ngoài những biện pháp nêu trên áp dụng có hiệu quả, tôi tiến hành cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ thông qua mọi lúc mọi nơi. Như chúng ta đã biết khả năng tiếp thu của trẻ dân tộc thiểu số rất chậm, mau quên nhưng khi đã nhớ được thì lại nhớ rất lâu nên tôi tiến hành cho trẻ tiếp xúc với vốn tiếng việt bằng phương châm " Mưa dầm thấm lâu" cho nên việc cung cấp ngôn ngữ Tiếng việt ở mọi lúc, mọi nơi vô cùng hiệu quả, ví dụ: Giáo viên luôn vui vẻ, thương yêu trẻ, sửa sang quần áo, chải tóc cho trẻ và không quên kèm theo một số câu hỏi giao lưu như: Con mặc quần áo đẹp quá. Con ăn cơm chưa? Ăn bao nhiêu bát cơm? Ăn với thức ăn gì? Con ăn có ngon không? Hay tôi hỏi về gia đình trẻ: Nhà con có bao nhiêu người? Con có em bé không? Mẹ con làm nghề gì?... Qua trò chuyện với trẻ như vậy. Giáo viên sẽ nắm được khả năng phát âm của mỗi trẻ để có biện pháp và giành nhiều thời giờ hơn giúp trẻ phát âm đúng, phát âm chuẩn tiếng Việt.
	Giờ chơi tự do tôi hay dẫn trẻ đến các góc trò chuyện và phát âm các từ có trong tranh, từ ở các góc, giáo viên cần dạy trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ phát âm chữ cái có trong tranh con vật, hoa, cây quảcó từ mang chữ cái đang học, trẻ đọc qua nhiều lần như vậy. Trẻ dân tộc lớp tôi, phát âm chuẩn hơn và mạnh dạn hơn trong giao tiếp với cô, với bạn, bạn biết chỉ cho bạn chưa biết, hoặc mạnh dạn đến hỏi cô, từ đó trẻ không còn rụt rè như trước nữa. Ngoài ra trong giờ hoạt động ngoài trời tôi còn cho trẻ ôn kiến thức đã học qua trò chuyện, đọc thơ, kể chuyện, chơi các trò chơi dân gian, cho trẻ đọc đồng dao, ca dao trong hoạt động này giúp trẻ phát âm thành thạo hơn, lưu loát hơn. Tạo không khí thân thiện, gần gũi giữa cô giáo và trẻ, vấn đề này đặc biệt cần thiết và không thể thiếu được đối với trẻ dân tộc thiểu số. Giờ vui chơi tôi cho trẻ đóng các vai khác nhau, trẻ được giao lưu trao đổi mua bán và thể hiện hết vai chơi của mình, bên cạnh đó tôi luôn theo sát trẻ để kịp thời sửa sai uốn nắn mỗi khi trẻ hỏi hoặc trả lời không có trọng tâm hay trẻ dùng tiếng mẹ đẻ. Chính nhờ vậy mà học sinh trường tôi đa số trẻ biết dùng từ để diễn đạt thành câu có nghĩa trong giao tiếp với bạn và cô giáo. 
	Xây dựng các góc hoạt động khác nhau trong lớp, có gắn các từ tiếng Việt nhằm tạo điều kiện cho trẻ hoạt động cá nhân, theo nhóm nhỏ được nhiều hơn, hình thức hoạt động phong phú, đa dạng hơn. Để trẻ học tiếng Việt thực sự có hiệu quả, giúp trẻ tự khám phá và phát triển
Biện pháp 6: Kết hợp với phụ huynh
	Sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình, cộng đồng trong việc chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ sẽ giúp trẻ được thường xuyên giao tiếp bằng tiếng Việt và có thêm nhiều cơ hội để sử dụng tiếng Việt.	
Trong một buổi học trẻ được tiếp xúc với cô giáo rất nhiều nhưng chúng ta biết phối hợp với gia đình trong việc cung cấp vốn tiếng việt cho trẻ lại càng tốt hơn vì vậy tôi đã trao đổi với phụ huynh vào những lúc đón trẻ, trả trẻ hay các ký họp phụ huynh tôi thông báo kết quả học của mỗi cháu cho phụ huynh nắm và đặc biệt không quên cho phụ huynh biết khả năng tiếp thu kiến thức bài học bằng ngôn ngữ Tiếng việt của mỗi cháu ra sao và từ đó thống nhất với phụ huynh xây dựng nội quy của trường lớp mầm non là “Tất cả mọi người khi đến trường, lớp đều phải nói bằng Tiếng việt” và nhà trường rất mong phụ huynh hợp tác trong việc cung cấp Tiếng việt cho trẻ thường xuyên ở nhà như: Phụ huynh dùng Tiếng việt để trao đổi với con em mình nhiều hơn, kèm cặp con em nhiều hơn trong môn học chữ cái, trẻ nắm được chữ cái, thuộc chữ cái, viết được chữ cái, phát âm đúng chữ cái và nhất là nói thạo Tiếng việt nhất định các

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_2017_trinh_thi_hang_4201_2021835.doc