Khi rèn cho học sinh viết chữ tôi hướng dẫn cho các em phân biệt rõ độ cao, độ rộng, khoảng cách các con chữ (Khoảng cách giữa các chữ bằng khoảng cách một con chữ, khoảng cách giữa các con chữ bằng 1/2 độ rộng của chữ o) và ngay từ đầu giúp các em viết đúng cỡ các con chữ đó. Khi viết, viết liền mạch, các nét chữ nối liền liên tục không bị đứt quãng. Sau đó nhấc bút lên, viết dấu thanh rồi mới chuyển sang chữ tiếp theo. Khi viết cần lưu ý nét bắt đầu và nét kết thúc (các nét móc, nét khuyến, nét nối, ); điểm đặt bút, điểm dừng bút để hình thành thói quen mỗi khi các em viết bài.
* Ví dụ: Khi dạy viết chữ “trường” tôi hướng dẫn học sinh: viết truong liền mạch không bị đứt quãng, xong mới nhấc bút lia bút lên đánh dấu của con chữ t, ư, ơ và dấu huyền trên đầu con chữ ơ – trường.
Học sinh viết bài bất kể là bài Chính tả, Tập viết hay ghi tên bài các môn học khác, tôi theo dõi nhắc nhở từng đối tượng học sinh. Những em viết cẩu thả thường là những em hiếu động, mải chơi,. Do đó tôi quan tâm đặc biệt đến đối tượng học sinh này.
đẹp, phát huy tính tích cực giữ vở sạch – chữ đẹp cho học sinh và giáo viên. - Năm học 2013 – 2014, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3A với tổng số 29 học sinh. Năm học 2014 – 2015, tôi chủ nhiệm lớp 3D với tổng số 17 học sinh. Tôi nhận thấy hai lớp đều có điểm giống nhau là một số em đã nhận biết được hết mặt chữ cái, viết chữ theo quy định, một số em viết bài sạch sẽ, trình bày đẹp. Một số gia đình học sinh đã quan tâm mua được những loại bút máy rèn chữ viết đẹp cho các em. - Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và học của giáo viên và học sinh như phòng học, ánh sáng, bàn ghế, đồ dùng cho các môn học,. Chất lượng chữ viết của nhà trường trong những năm gần đây đã được cải thiện nhiều so với những năm học trước. * Khó khăn: - Trường thuộc địa bàn của xã có nhiều khó khăn, học sinh dân tộc thiểu số của lớp tôi (năm học 2013 – 2014) chiếm đến 82,8%; trong đó có 10,3% là học sinh lưu ban đọc, viết chưa thành thạo. Năm học 2014 – 2015, 100% học sinh trong lớp là người dân tộc thiểu số, học sinh lưu ban chiếm 5,9%. Trong đó có nhiều em tiếp thu kiến thức còn nhiều hạn chế; đa số các em có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết còn chậm. - Cha mẹ các em phần lớn nằm trong diện lao động nghèo, hoàn cảnh khó khăn và diện xóa đói giảm nghèo lại nhiều. Vì thế, cha mẹ ít quan tâm, chăm lo đến việc học hành, đặc biệt là chưa thực sự coi trọng việc rèn chữ viết cho con em mình. Đã khiến cho nhiều học sinh không tích cực trong các hoạt động học tập. Tình trạng học sinh nghỉ học theo mùa vụ, đi học không chuyên cần vẫn thường xuyên diễn ra. Nhiều em ngoài việc học trên lớp còn phải dành phần lớn thời gian ở nhà cho việc giúp đỡ gia đình, nhất là vào mùa phát nương làm rẫy, thu hoạch,... - Học sinh dân tộc thiểu số sử dụng Tiếng Việt chưa thành thạo nên trong quá trình viết bài các em đều mắc lỗi về độ cao của từng con chữ, điểm đặt bút và điểm dừng bút chưa đúng, viết thiếu dấu, sai chính tả, chữ viết chưa đều, viết cẩu thả, viết còn chậm, Nhiều em đi học không mang đầy đủ sách vở, không có bút viết,. b. Thành công, hạn chế * Thành công: - Qua thực tế giảng dạy, nghiên cứu và áp dụng các biện pháp rèn chữ viết đẹp đã đạt nhiều kết quả khả quan. Bài viết của học sinh có tiến bộ rõ rệt. Các em hạn chế mắc phải các lỗi cơ bản trong quá trình viết chữ. * Hạn chế: - Bên cạnh những thành công còn có nhiều hạn chế nhất định như mất nhiều thời gian trong quá trình rèn chữ viết cho học sinh đòi hỏi giáo viên phải nhiệt tình, kiên trì hướng dẫn, uốn nắn tỉ mỉ từng nét chữ cho các em. - Học sinh tiểu học thường hiếu động, thiếu kiên trì, khó thực hiện được các thao tác đòi hỏi sự khéo léo, cẩn thận khi rèn chữ viết đẹp. c. Mặt mạnh, mặt yếu * Mặt mạnh: Trong tất cả các môn học thì hầu như môn nào các em cũng phải viết bài vào vở, mỗi lần viết bài là giáo viên có thể hướng dẫn và uốn nắn học sinh rèn chữ viết. Qua đó các em được rèn chữ viết thường xuyên và liên tục sẽ trở thành thói quen để mỗi lần cầm bút là các em có ý thức viết chữ cẩn thận và đẹp hơn. Chữ viết đẹp không phải ngày một, ngày hai là các em có thể viết đẹp được mà phải thường xuyên rèn luyện. Trong quá trình rèn luyện kịp thời phát hiện những lỗi cơ bản để uốn nắn, chỉnh lại các nét, góp ý sửa chữa ngay từ những khiếm khuyết đầu tiên, từ đó đưa ra cách thức cũng như phương pháp rèn chữ viết phù hợp hơn. * Mặt yếu: Đa số các em chưa có ý thức tự rèn chữ viết ở nhà, các em không chịu khó rèn chữ trong thời gian nghỉ lễ và nghỉ hè, dẫn đến chữ viết không có tiến bộ. Bên cạnh đó không có sự hướng dẫn và kĩ thuật rèn chữ viết của cha mẹ học sinh, nên ảnh hưởng đến chữ viết của các em. Do không nắm vững quy tắc viết chữ, khi các em viết sai rồi rất khó sửa. d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 - Nguyên nhân dẫn đến chất lượng chữ viết chưa đúng mẫu của học sinh dân tộc thiểu số rất nhiều nhưng trong đề tài này tôi đề cập một trong những nguyên nhân là do các em chưa hiểu rõ mục đích và tầm quan trọng của việc giữ vở sạch, viết chữ đẹp. Đa số các em ngại viết, không có hứng thú và lòng say mê khi viết chữ mà chủ yếu chỉ dừng lại ở mức độ viết cho xong bài học. - Viết chữ chưa đẹp do tính cẩu thả, tư thế ngồi và cách cầm bút, để vở chưa đúng, khoảng cách giữa mắt và vở chưa đảm bảo. Các em học sinh dân tộc thiểu số thường phát âm sai, đọc thiếu dấu thanh. Do đọc sai nên khi viết các em cũng thường viết sai. Nhiều học sinh chưa hiểu hết nghĩa của từ Tiếng Việt, chưa nắm vững cấu tạo của chữ viết, chưa phân biệt được âm vần, phụ âm, nguyên âm hay dấu thanh. - Trình độ dân trí thấp, đời sống của nhiều gia đình còn nghèo đói. Đa số học sinh là người dân tộc thiểu số sống trong một gia đình có nhiều thế hệ, giao tiếp hàng ngày bằng tiếng mẹ đẻ, cha mẹ bận rộn với công việc làm ăn hoặc không biết chữ nên rất khó khăn trong việc giúp các em rèn chữ viết ở nhà, ít quan tâm đến sách vở cũng như các loại bút viết đúng tiêu chuẩn cho con em mình, nhiều em đi học quên bút, mất bút, không có bút viết,. Bên cạnh đó, chiều cao của học sinh không đồng đều nên bàn ghế chưa hoàn toàn phù hợp với tất cả các em. e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Đối với bậc tiểu học, yêu cầu cơ bản tối thiểu của học sinh là đọc thông, viết thạo. Chữ viết của học sinh còn liên quan đến tất cả các môn học khác. Muốn cho học sinh viết chữ đúng, đẹp thì điều trước tiên người giáo viên phải viết bảng đẹp, cẩn thận vì học sinh tiểu học dễ bắt chước “Thầy viết thế nào, trò viết thế ấy”. Giáo viên phải nắm chắc quy trình và kĩ thuật viết chữ thường và chữ hoa theo mẫu chữ hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Giáo viên rà soát, phân loại đối tượng học sinh trong lớp để có những biện pháp rèn chữ viết cho phù hợp. Giáo viên hướng dẫn từng thao tác, viết mẫu chữ chính xác, thành thạo, kiên trì rèn kĩ thuật viết cho học sinh, viết từ đơn giản đến phức tạp. Đặc điểm học sinh lớp 3 là lứa tuổi liên kết giữa lớp 1, 2 với lớp 4, 5. Khả năng viết chữ của các em còn chậm. Ở lớp 1, lớp 2 các em đã được học cấu tạo chữ thường, chữ hoa nhưng do đặc điểm lứa tuổi dễ nhớ, mau quên của học sinh tiểu học và không được rèn luyện thường xuyên nên khi lên lớp 3 thì phần lớn học sinh viết chữ chưa đúng quy trình, sai về độ cao, khoảng cách của chữ, viết chữ thiếu dấu, đặt dấu thanh chưa đúng vị trí, tốc độ viết không đảm bảo, Các tiết Chính tả và Tập viết thường mất nhiều thời gian vì các em viết bài quá chậm. Do đó, việc học các môn trong chương trình gặp nhiều khó khăn. Như vậy, muốn dạy cho học sinh kĩ năng viết chữ đúng yêu cầu, luyện cho học sinh viết chữ nhanh và đẹp thì phải có kế hoạch, biện pháp cụ thể để rèn luyện chữ viết cho các em. Việc rèn chữ viết cho học sinh dân tộc thiểu số nhằm giúp các em ý thức cẩn thận trong khi viết, viết đúng chính tả, đảm bảo tốc độ khi viết, để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, người giáo viên luôn giữ vai trò quyết định. Bên cạnh đó cần phải phối hợp với cha mẹ học sinh để có biện pháp rèn học sinh của mình viết chữ đúng mẫu, đúng quy trình, viết nhanh, hình thành ở các em tính cẩn thận, tính kỉ luật. Ý thức này không những hình thành ở học sinh tiểu học mà còn ở các lớp trên và về sau. II. 3. Giải pháp, biện pháp a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Mục đích nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh giúp các em nắm vững: Viết chữ phải đúng quy trình và kĩ thuật, đảm bảo tốc độ khi viết, nhớ được độ cao, khoảng cách, điểm đặt bút, dừng bút của từng con chữ, vị trí đặt dấu thanh,... rèn chữ viết đẹp cho học sinh. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Rèn chữ viết cho học sinh phải được chú ý trong khi các em viết ở tất cả các môn học không chỉ riêng môn Tập viết và Chính tả. Không nên xem nhẹ môn học nào bởi vì các môn học đều có liên quan bổ sung cho nhau. Vì vậy, để giúp các em học sinh viết đúng quy định, rõ ràng, đều nét, viết liền mạch, viết đẹp và đạt tốc độ yêu cầu, đồng thời có ý thức giữ gìn sách vở tôi đã vận dụng một số biện pháp sau: Biện pháp 1: Xác định mục tiêu rèn chữ viết cho học sinh. Thông qua việc nghiên cứu tìm tòi, tôi rà soát tình hình thực tế của lớp mình trực tiếp giảng dạy, từ đó tìm ra những biện pháp thích hợp nhất cho từng đối tượng học sinh. Đây chính là then chốt giúp chất lượng chữ viết được tăng lên nhằm đảm bảo mục tiêu giáo dục. - Về kiến thức: Củng cố hoàn thiện hiểu biết về hình dáng, quy trình viết chữ, cách nối chữ hoa và chữ thường, vị trí đánh dấu thanh, khoảng cách giữa các chữ ghi tiếng... - Về kĩ năng: Hình thành cho học sinh kĩ năng viết nhanh, viết đúng, viết đẹp và biết trình bày bài viết. Trước khi cho học sinh viết bài vào vở, tôi hướng dẫn học sinh về tư thế ngồi viết, cách cầm bút, để vở. Bám sát yêu cầu đó, tôi luôn chuẩn bị chu đáo trong quá trình rèn chữ viết cho học sinh. - Về thái độ: Học sinh có ý thức cẩn thận, tích cực, tự giác, hứng thú trong học tập, nắn nót khi viết bài, biết giữ gìn sách vở sạch sẽ cũng như sự trong sáng của Tiếng Việt. Biện pháp 2: Hướng dẫn tư thế ngồi viết. Để giúp học sinh viết được những nét chữ đúng mẫu và đẹp, tôi đã hướng dẫn cả lớp tư thế ngồi viết: Ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không tỳ ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở từ 25 – 30cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái lề vở, bàn tay trái tỳ vào mép vở, giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải cùng ở trên mặt bàn; khi viết bàn tay và cánh tay phải có thể dịch chuyển từ trái sang phải và từ phải sang trái dễ dàng. Trước mỗi giờ viết bài, đặc biệt là giờ học Tập viết, Chính tả tôi thường yêu cầu học sinh nhắc lại tư thế ngồi viết (Ví dụ: Hỏi “Muốn viết chữ đẹp em phải ngồi như thế nào ?”). Dần dần, các em sẽ có thói quen ngồi viết đúng tư thế. Biện pháp 3: Hướng dẫn cách để vở. Vở mở không gập đôi, không để vở quăn mép, để hoàn toàn trên mặt bàn, hơi nghiêng về bên trái khoảng 15 độ so với cạnh bàn sao cho mép vở song song với cánh tay. Biện pháp 4: Hướng dẫn cách cầm bút. Một việc cũng hết sức quan trọng giúp cho việc viết chữ đẹp là cách cầm bút và đặt vở trên bàn. “Khi viết, cầm bút bằng 3 ngón tay của bàn tay phải: ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa. Đầu ngón trỏ đặt trên thân bút, đầu ngón cái giữ bên trái thân bút, đầu ngón giữa tựa vào bên phải thân bút. Khi viết 3 ngón tay này giữ bút, điều khiển bút dịch chuyển. Ngoài ra cần sự phối hợp của cổ tay, cánh tay, khuỷu tay khi viết”. Tôi cũng lưu ý các em cầm bút vừa phải. Vì nếu cầm bút sát ngòi, quá xa ngòi hoặc cầm quá chặt thì việc điều khiển bút khi viết sẽ khó khăn, làm cho chữ xấu mà mực dễ bị giây ra tay, ra vở. FCÁCH CẦM BÚT ĐÚNG Biện pháp 5: Cách viết trên vở. Tôi luôn nhắc học sinh cách đặt vở sao cho cạnh dưới quyển vở hơi nghiêng so với cạnh bàn. Lựa chọn vở như thế nào ? Vở viết cũng góp phần quan trọng, phải chọn vở có trang giấu dày, dòng kẻ đều, ô li không quá to cũng không quá nhỏ. Những yếu tố tưởng chừng không quan trọng nhưng thực chất đã góp phần tích cực vào việc rèn chữ cho học sinh. Tiếp theo, tôi dạy cho học sinh các thao tác viết chữ từ đơn giản đến phức tạp, dạy cho học sinh kĩ thuật viết các nét, cách lia bút và cách nối nét. Đồng thời giúp học sinh xác định được khoảng cách, vị trí cỡ chữ trên vở kẻ ô li để hình thành kỹ năng viết đúng mẫu, rõ ràng và tiến tới là viết đẹp, viết nhanh. Biện pháp 6: Giúp học sinh nắm được các nét cơ bản. Tôi dạy cho học sinh các nét cơ bản thật kỹ. Học sinh phải nắm được các nét cơ bản đó. Để giúp cho học sinh viết đúng cỡ chữ, viết đẹp thì không thể coi thường phần viết nét chữ cơ bản: nét ngang, nét sổ, nét xiên trái, nét xiên phải, nét móc xuôi, nét móc ngược, nét móc hai đầu, nét cong hở phải, nét cong hở trái, nét cong kín, nét khuyết trên, nét khuyết dưới, nét thắt. Với 13 nét cơ bản này tôi yêu cầu học sinh học thuộc và viết chính xác. Từ những nét cơ bản này học sinh viết sang các con chữ rất dễ dàng. * Ví dụ: + Chữ cái a gồm 2 nét: nét cong kín kết hợp với nét móc ngược (móc phải). + Chữ cái h gồm 2 nét: nét khuyết trên kết hợp với nét móc hai đầu. Bên cạnh đó tôi giải thích các thuật ngữ như: - Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái. Điểm đặt bút có thể nằm trên đường kẻ ngang hoặc không nằm trên đường kẻ ngang. - Điểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái. Điểm dừng bút có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ ngang. Biện pháp 7: Giúp học sinh nắm được độ cao và cách viết các con chữ theo nhóm. Mẫu chữ cái viết thường: (chia thành 5 nhóm) + Nhóm 1: (1 đơn vị) o, ô, ơ, a, ă, â, u, ư, e, ê, c, m, n, v, x, i + Nhóm 2: (1,25 đơn vị) r, s nhóm chữ có nét tương đồng là nét cong, nét móc có vòng xoắn. + Nhóm 3: (1,5 đơn vị) t + Nhóm 4: (2 đơn vị) d, đ, p, q + Nhóm 5: (2,5 đơn vị) b, g, h, k, l, y nhóm chữ cái có nét khuyết. Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ô vuông có cạnh là 0,5 đơn vị Mẫu chữ cái viết hoa: (chia thành 6 nhóm) + Nhóm 1: A, Ă, Â, N, M + Nhóm 2: B, D, Đ, P, R + Nhóm 3: C, G, S, L, E, Ê + Nhóm 4: I, K, V, H, T + Nhóm 5: O, Ô, Ơ, Q + Nhóm 6: U, Ư, Y, X Chiều cao của các chữ cái viết hoa là 2,5 đơn vị, riêng hai chữ cái viết hoa G, Y được viết với chiều cao là 4 đơn vị. Mẫu chữ số: + Các chữ số: (2 đơn vị) 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. Tôi giúp các em viết đúng các phụ âm đầu bằng cách đưa ra các hiện tượng chính tả dễ nhầm lẫn để học sinh phân biệt được một cách chính xác. * Ví dụ: Việc lẫn lộn chữ ghi âm đầu (c/k/q; g/gh; ng/ngh; ng/nh); chữ ghi âm đệm (u/o); âm chính (i, y; ia, ya, iê, yê; ua, uô; ưa, ươ; a, ă;...) và âm cuối (ng/nh; c/ch; i/y; u/o) là do học sinh chưa nắm vững quy tắc chính tả. Trường hợp lẫn lộn d/gi phần lớn là viết tùy tiện, chỉ dựa vào ý chủ quan, ít theo quy tắc. - c/k/q + cót ≠ kót; cối ≠ kối; cuốc ≠ quốc; ... + ké ≠ cé; kép ≠ cép; kịch ≠ cịch; kim ≠ cim; ... + quả ≠ kủa; quản ≠ quoản; que ≠ coe; quen ≠ quoen; quýnh ≠ quynh. - d/gi + dám ≠ giám; da ≠ gia; dẻ ≠ giẻ, rẻ; dễ ≠ giễ; diều ≠ giều; dù ≠ giù; ... + gì ≠ dì; giúp ≠ dúp; giọng ≠ dọng; giữa ≠ diữa; giặt ≠ dặc; giờ ≠ dờ; ... - g/gh + gạc ≠ ghạc; gái ≠ ghái; gánh ≠ ghánh; gắt ≠ ghắt; gõ ≠ ghõ; ... + ghé ≠ gé; ghép ≠ gép; ghét ≠ gét; ghê ≠ gê; ghềnh ≠ gềnh; ghi ≠ gi; ... - ng/ngh + ngạc ≠ nghạc; ngập ≠ nghập; nguyên ≠ nguiên; ngôi ≠ nghôi; ... + nghe ≠ nge; nghẹn ≠ ngẹn; nghìn ≠ ngìn; nghiêng ≠ ngiêng; ... * Ví dụ: Lỗi do tiếng có vần khó: buýt ≠ bít, bút, buýp; khuỷu ≠ khủy, khỉu, khỷu, khủi, khửu; khuya ≠ khua, khia, khya; nguệch ngoạc ≠ nguyệch ngoặc, nghệch ngoạt; quét ≠ quyét; quyết ≠ quyếc, quếc, quyêt, quiết, qyết; ... Đối với những em viết cẩu thả, chưa chịu khó luyện chữ, tôi kiểm tra sát sao, giao bài luyện tập cụ thể cho các em, tôi viết mẫu cho các em luyện tập. Việc viết mẫu của tôi là một thao tác trực quan trên bảng lớp giúp học sinh nắm bắt được quy trình viết từng nét của từng chữ cái. Do vậy, tôi phải viết chậm, đúng theo quy tắc, vừa viết vừa giảng giải, phân tích cho học sinh. Khi viết mẫu, tôi tạo điều kiện để học sinh nhìn thấy tay của tôi viết từng nét chữ. Học sinh viết chậm, viết sai hàng ngày, thời gian đầu tôi cho học sinh viết thơ bốn chữ hoặc năm chữ với số lượng ít sau nâng dần lên viết thơ lục bát, đoạn văn. Sau mỗi bài viết tôi đánh giá sản phẩm của học sinh, trực tiếp chỉ chỗ sai cho học sinh từ cách trình bày đến điểm đặt bút và dừng bút của các con chữ. Đối với học sinh viết chữ đẹp rồi thì tôi vẫn hướng dẫn các em kĩ thuật cầm bút, lia bút, rê bút để chữ viết đẹp ở mức độ cao hơn là có nét thanh nét đậm. Ngoài luyện chữ viết theo mẫu, tôi sưu tầm thêm các mẫu chữ đẹp, chữ sáng tạo cho học sinh tham khảo và hướng dẫn học sinh luyện viết, khơi nguồn cảm hứng yêu thích luyện viết chữ đẹp cho các em. Xây dựng nguồn lực vững chãi để tham gia các hội thi viết chữ đẹp cấp trường, cấp huyện,... Biện pháp 8: Kĩ thuật rèn chữ viết cho học sinh. Khi rèn cho học sinh viết chữ tôi hướng dẫn cho các em phân biệt rõ độ cao, độ rộng, khoảng cách các con chữ (Khoảng cách giữa các chữ bằng khoảng cách một con chữ, khoảng cách giữa các con chữ bằng 1/2 độ rộng của chữ o) và ngay từ đầu giúp các em viết đúng cỡ các con chữ đó. Khi viết, viết liền mạch, các nét chữ nối liền liên tục không bị đứt quãng. Sau đó nhấc bút lên, viết dấu thanh rồi mới chuyển sang chữ tiếp theo. Khi viết cần lưu ý nét bắt đầu và nét kết thúc (các nét móc, nét khuyến, nét nối,); điểm đặt bút, điểm dừng bút để hình thành thói quen mỗi khi các em viết bài. * Ví dụ: Khi dạy viết chữ “trường” tôi hướng dẫn học sinh: viết truong liền mạch không bị đứt quãng, xong mới nhấc bút lia bút lên đánh dấu của con chữ t, ư, ơ và dấu huyền trên đầu con chữ ơ – trường. Học sinh viết bài bất kể là bài Chính tả, Tập viết hay ghi tên bài các môn học khác, tôi theo dõi nhắc nhở từng đối tượng học sinh. Những em viết cẩu thả thường là những em hiếu động, mải chơi,... Do đó tôi quan tâm đặc biệt đến đối tượng học sinh này. Trong quá trình dạy, tôi phân tích cấu tạo của các con chữ, hướng dẫn cụ thể cho học sinh trong quá trình luyện viết chữ có tuyên dương, khuyến khích học sinh kịp thời, đánh giá chi tiết, cụ thể, thường xuyên. Có biện pháp hỗ trợ giúp học sinh khắc phục nhược điểm về chữ viết của mình. Tôi nêu một số tấm gương tiêu biểu về viết chữ đẹp cho học sinh noi gương học tập. Kịp thời động viên, khích lệ những học sinh có chữ viết tiến bộ. Tuyên dương những học sinh có bài viết đẹp. Ngoài ra tôi thường xuyên sưu tầm các bài viết đẹp giới thiệu cho học sinh, cho các em quan sát, nhận xét từ đó giúp các em tự học hỏi và rèn chữ viết cho mình. Tôi hướng dẫn cho cha mẹ học sinh cách chọn bút và rèn cho các em cách tự luyện chữ viết ở nhà. Tôi tích cực tự học hỏi, thường xuyên rèn luyện chữ viết của mình đúng mẫu và đẹp, trau dồi kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh qua đồng nghiệp và các tài liệu, phương tiện giáo dục. Chính vì vậy để áp dụng tốt các biện pháp rèn chữ viết đẹp cho học sinh một cách khoa học thì phải có sự hướng dẫn tỉ mỉ, từng li, từng tí của giáo viên. Mặt khác, giáo viên còn phải hiểu tâm lý lứa tuổi học sinh. Không nên cho các em ngồi viết liền trong một thời gian dài dễ gây mỏi tay và chán. Cần thường xuyên tổ chức các trò chơi thi viết chữ đẹp trong mỗi tiết học. Tổ chức thi “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” trong từng tháng, tạo sự hứng thú rèn luyện cho học sinh. c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp Để thực hiện các giải pháp, biện pháp trên đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, rèn luyện hàng ngày cho học sinh, uốn nắn và kịp thời giúp đỡ học sinh, lập kế hoạch rèn chữ viết cho học sinh một cách phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp. d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Các giải pháp, biện pháp tôi đã thực hiện trong đề tài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng là cầu nối để tạo lên sự thành công, là một quá trình rèn luyện thường xuyên và bền bỉ mang lại hiệu quả trong việc rèn chữ viết đẹp cho học sinh. Mỗi giải pháp, biện pháp trong đề tài tác động qua lại và hỗ trợ với nhau nhằm nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh dân tộc thiểu số tại lớp tôi. Góp phần hình thành nên các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và học tốt tất cả các môn học. e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu - Kết quả khảo nghiệm: Nắm được vai trò quan trọng của việc rèn chữ viết cho học sinh và phối hợp khéo léo các biện pháp trên vào quá trình rèn chữ viết cho học sinh dân tộc thiểu số, kết quả cụ thể như sau: NĂM HỌC 2013 – 2014 TSHS Xếp loại A Xếp loại B Xếp loại C SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % SL Tỉ lệ % Tháng 9 29 6 20,7 11 37,9 12 41,4 Tháng 10 8 27,6 11 37,9 10 34,5 Tháng 11 11 37,9 10 34,5 8 27,6 Tháng 12 13 44,8 9 31,1 7 24,1 Tháng 1 và 2 16 55,2 8 27,6 5 17,2 Tháng 3 18 62,1 7 24,1 4 13,8 Tháng 4 20 69,0 6 20,7 3 10,3 Tháng 5 20 69,0 7 24,1 2 6,9 HỌC KÌ I NĂM HỌC 2014 – 2015 TSHS Xếp loại A Xếp loại
Tài liệu đính kèm: