1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn sáng kiến
Tiếng Anh là một ngôn ngữ Quốc tế có tính thông dụng và là một công cụ
giao tiếp thiết yếu trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Thời đại toàn cầu hoá,
nhu cầu giao tiếp giữa mọi người thuộc mọi quốc gia là bắt buộc. Do vậy, việc học
tiếng Anh đang trở thành một nhu cầu cần thiết và cấp bách giúp chúng ta tiếp cận,
mở rộng hiểu biết với nguồn tri thức tiên tiến trên thế giới ở nhiều lĩnh vực khác
nhau: Khoa học – kĩ thuật, kinh tế – xã hội, y học Tiếng Anh mặc nhiên trở
thành Universal Language.
Trên cơ sở đó, trong lĩnh vực giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có định
hướng chiến lược cho việc tổ chức dạy học môn Tiếng Anh trong trường tiểu học
nhằm tạo điều kiện, môi trường cho học sinh được tiếp xúc với môn học này, tạo
tiền đề cho việc học lên các cấp học trên được vững chắc. Vì vậy, hiện nay hầu hết
trẻ em trên cả nước từ thành thị đến nông thôn, phần lớn đều được làm quen với
bộ môn tiếng Anh từ rất sớm thông qua việc giảng dạy trong nhà trường phổ
thông.
Trong xu thế hội nhập của nước ta và chương trình giáo dục tiểu học hiện
nay, môn Tiếng Anh cùng với các môn học khác trong trường tiểu học có những
vai trò góp phần quan trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện, đáp
ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới. Trước đây Việt Nam chưa hoà nhập
với các nước trên thế giới thì việc đầu tư cho học sinh trau dồi môn Tiếng Anh còn
nhiều hạn chế. Nhưng ngày nay với đà phát triển chung của nhân loại thì việc học
ngoại ngữ là điều cần thiết. Vì thế ngành Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành đổi
mới một cách toàn diện về chương trình, phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy và học tập. Hiện nay tất cả các trường Tiểu học trong huyện
đã dạy chương trình Tiếng Anh bắt đầu từ lớp 1. Trong đó tất cả các trường đã dạy
theo chương trình 4 tiết/tuần đối với khối 3, 4, 5 và 2 tiết/tuần đối với khối 1, 2.
Yêu cầu đầu ra phải đạt mức độ một theo chuẩn năng lực ngoại ngữ Quốc Tế.
Trong những năm gần đây, yêu cầu của giáo dục hiện nay đòi hỏi phải đổi
mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học và các cấp học, nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học. Chính vì vậy, môn Tiếng Anh nói chung và môn Tiếng
Anh ở bậc tiểu học nói riêng cũng cần phải có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa,
phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm.
Do đó, người giáo viên phải gây hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn
các em tham gia vào các hoạt động học tập nhằm phát triển kĩ năng nghe nói
Tiếng Anh, để học sinh có thể giao tiếp Tiếng Anh một cách tự nhiên và lưu loát.
Qua các năm giảng dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học tôi nhận thấy kỹ năng giao tiếp
Tiếng Anh của học sinh còn nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng trên tôi đã tìm
tòi nghiên cứu một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng nói cho học sinh Tiểu
học. Đây là lý do tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp phát
triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh tiểu học”
ểu trong giờ học. Nhưng học sinh khối 1,2,3 thì ngược lại, các em ít tham gia xây dựng bài mặc dù câu hỏi giáo viên đưa ra cũng dễ hiểu. Vẫn còn một bộ phận học sinh thiếu tự tin và rụt rè trong giao tiếp. Mặt khác do các em mới bắt đầu được học Tiếng Anh nên còn nhiều bỡ ngỡ, dù rằng các em cũng rất thích học. Học ngoại ngữ muốn giỏi bản thân người học phải mạnh dạn sử dụng ngôn ngữ mình học để rèn luyện, nếu có nói sai khi được sửa chúng ta sẽ nhớ lâu hơn và lần sau nếu gặp lại câu nói đó sẽ không sai nữa. Trong các năm giảng dạy tôi thấy mặt hạn chế của học sinh trong hoạt động nói là tính thụ động chỉ bám theo những gì giáo viên hướng dẫn, gợi ý để thực hiện học sinh không mở rộng hay thắc mắc yêu cầu giải đáp. Có thể nói kỹ năng nói của các em còn yếu. Mỗi tuần chỉ được học bốn tiết không đủ thời gian để học sinh phát triển tốt kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh. Vì là môn học tự chọn nên một số học sinh chưa chú trọng nhiều đến môn Tiếng Anh. Vốn từ vựng của các em không có nhiều do các em không thuộc từ vựng hoặc các em không chịu học vì cứ nghĩ đây là môn phụ nên các em chưa dành thời gian cho việc tự học môn này. Hơn nữa đối với học sinh nông thôn mọi điều kiện tiếp xúc và gần gũi thực tế xung quanh còn hạn chế. Ở lứa tuổi này, còn một số học sinh phát âm Tiếng Việt chưa được chuẩn. Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn bị bài một cách sơ sài. Trong các giờ học, đa số các em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc - nói tiếng anh và ít tham gia phát biểu để tìm hiểu bài học. b. Giáo viên: Bản thân tôi và nhiều đồng nghiệp dạy Tiếng Anh không có năng khiếu âm nhạc nên vẫn có những bài hát không biết hát nên khi hướng dẫn những bài hát Tiếng Anh gặp phải khó khăn và hát chưa đúng giai điệu, tiết tấu nhạc dẫn đến chưa tạo được hứng thú cho học sinh khi dạy các bài hát Tiếng Anh trong chương trình. c. Về phía phụ huynh học sinh: Phụ huynh học sinh một số em chưa có nhận thức tốt môn học này do quan niệm “Tiếng Việt nói chưa xong mà học Tiếng Anh”. Vì vậy thiếu sự quan tâm sâu sát đến con em trong việc học môn Tiếng Anh. d. Về trang-thiết bị dạy học: Hiện nay một số bộ sách biên soạn cho học sinh cấp Tiểu học nội dung khá dài giáo viên hướng dẫn học sinh nắm bắt kiến thức trong một tiết chỉ 35-40 phút không đủ. Do đó thời gian phát triển kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều. Học sinh rất hứng thú khi được học bài giảng điện tử nhưng số lượng phòng học nhiều nên nhà trường chưa có đủ điều kiện để bố trí cho bộ môn Tiếng anh mỗi phòng một TV Smart, nên tiết dạy bằng giáo án điện tử chưa được tận dụng triệt để. Một số học sinh do hoàn cảnh khó khăn, các em phải dành thời gian ở nhà để phụ giúp gia đình, và các em cũng chưa được trang bị đầy đủ sách giáo khoa và dụng cụ học tập vì thế các em không có điều kiện để tự học ở nhà. 2.2. Một số biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh tiểu học Trong những năm qua, bước đầu chúng ta đã áp dụng việc đổi mới phương pháp giảng dạy Tiếng Anh nhằm giúp học sinh nắm được cách học một cách chủ động, tích cực và đáp ứng được yêu cầu là học sinh phải sử dụng được ngữ liệu đã học vào các hoạt động giao tiếp một cách có hiệu quả hơn. Do vậy, trong chương trình giảng dạy tiếng Anh ở trường Tiểu học hiện nay, cùng với giáo trình “ Tiếng Anh 1, 2, 3,4,5” đã nhấn mạnh vào khả năng giao tiếp theo một hệ thống ngữ pháp có kiểm soát cẩn thận. Học sinh được lấy làm trung tâm và luôn được khích lệ giao tiếp với nhau. Qua nhiều năm dạy tiếng Anh cùng với sự trải nghiệm bản thân tôi đã vận dụng một số phương pháp trong việc rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh nhằm tạo cho các em hứng thú và tự tin trong giao tiếp. Tăng cường thời lượng thực hành như: nói, hoạt động giao tiếp của học sinh trong giờ học là điều cần thiết. Do đó tôi đưa ra một số giải pháp sau: 2.2.1. Về giáo viên: a. Thường xuyên sử dụng Tiếng Anh trong tiết dạy: Đối với đối tượng học sinh cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông việc sử dụng Tiếng Anh trong giờ ngoại ngữ là điều hiển nhiên, vì khi đó vốn từ các em khá đủ để hiểu những điều giáo viên truyền đạt. Nhưng đối với học sinh Tiểu học vốn từ các em chưa nhiều để hiểu tốt yêu cầu của giáo viên, chính điều này làm cho đa phần giáo viên dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học “lười” nói Tiếng Anh trong giờ dạy. Tôi nghĩ đây là một trong số lý do làm cho học sinh chưa tự tin khi đàm thoại bằng Tiếng Anh. Chúng ta là đầu tàu gương mẫu, lứa tuổi thiếu nhi còn ngây thơ và dễ bắt chước, thầy cô phải là tấm gương để học sinh noi theo, nếu giáo viên thường xuyên nói Tiếng Anh thì những câu nói đó dần dần thấm sâu vào tâm trí các em, khi cần nói tự nhiên các em sẽ phát ra được. Vào đầu mỗi tiết dạy, tôi thường đối thoại với học sinh bằng những câu Tiếng Anh đơn giản để làm “nóng” không khí lớp học, tạo sự hưng phấn trong học tập, ứng xử nhanh nhẹn trong giao tiếp. Ví dụ: Ss: Good morning, teacher ! T: Good morning, class ! How are you today ? Ss: I’m fine, thank you. How are you ? T : I’m fine. Thanks. Theo cách dạy truyền thống vào đầu tiết dạy giáo viên thường gọi học sinh kiểm tra bài cũ, nhưng đối với tôi thì không làm như thế. Trước khi trở thành giáo viên tôi cũng là một học sinh như các bạn nhỏ bây giờ nên tôi hiểu rõ tâm trạng các em lúc này. Đối với tôi, việc sử dụng các hoạt động trò chơi trước khi bắt đầu tiết học không những giúp không khí lớp học không nặng nề mà còn làm cho tiết học trở nên sinh động, tạo cho học sinh tâm lý thoải mái. Khi đưa ra yêu cầu trò chơi giáo viên nên nói bằng Tiếng Anh, không cần câu nói dài chỉ sử dụng một số cụm từ, câu đơn giản nhưng thường xuyên lặp đi lặp lại, như thế học sinh sẽ hiểu. Ví dụ: T: Would you like to play game ? Ss: Yes. T: Play game “ Guessing game” – Ok ! Ss: Ok! T: Four boys and four girls, please ! Now, any volunteers ? Raise your hand ! Sau khi chọn được hai đội tôi sử dụng một số câu ra lệnh đơn giản khác. Ví dụ: T: Are you ready ? Ss: Yes . T: Now, let’s begin “ one, two, three”,... Để học sinh dễ ghi nhớ các chữ cái trong bảng chữ cái Tiếng Anh và các từ vựng, tôi sử dụng những câu đố, trò chơi trí tuệ nhằm kích thích các em tư duy, suy nghĩ, khi tìm được đáp án các em sẽ ghi nhớ sâu hơn. Sau khi học sinh đưa ra đáp án, tôi sẽ cho các em biết đáp án và giải thích thêm để các em hiểu rõ hơn. Những câu đố vui tiếng anh mang lại nhiều phút giây thư giãn thoải mái cho các em học sinh, đồng thời giúp bé phát triển khả năng ngôn ngữ một cách hiệu quả nhất. Đa số những câu đố này thuộc thể loại đố mẹo và chơi chữ nên các em cần suy nghĩ theo hướng sáng tạo một chút là có thể nhanh chóng tìm ra đáp án. Ví dụ: Tôi đưa ra những câu đố vui hỏi về động vật. Những câu đố vui về động vật bằng tiếng Anh vừa giúp các em học tiếng Anh, vừa giúp các em hiểu biết hơn về thế giới động vật xung quanh mình và các em có được những giây phút vui vẻ bên nhau, trau dồi từ vựng tiếng Anh về loài động vật cũng như tư duy nhanh nhạy hơn. Hơn nữa, với câu đố này, các em sẽ thích thú hơn với việc học. 1. I've four legs. I live in Africa. I'm big and gray. I live in the river. => Đáp án câu đố vui: I'm A Hippo 2. I hiss. I can be poisonous. I'm long. I've a forked tongue. => Đáp án câu đố vui: I'm A Snake 3. I can swim and dive. I've two legs. I've wings. I quack. => Đáp án câu đố vui:I'm A Duck 4.If I sit down I'm high; if I stand up I'm low. => Đáp án câu đố vui:I'm A Dog 5. I eat insects. I live in the pond. I can hop. I'm green. => Đáp án câu đố vui: I'm A Frog 6. I eat vegetables. I can run fast. I can be a pet. I've long ears. => Đáp án câu đố vui: I'm A Rabbit 7. I've four legs. You can ride me. I've tusks. I've a long nose. => Đáp án câu đố vui: I'm An Elephant 8.I eat other animals. I've a big mouth. I'm green. I live in the water. => Đáp án câu đố vui: I'm A Crocodile 9.I'm small. I can be scary. I've eight legs. I spin the web. => Đáp án câu đố vui: I'm A Spider 10. I've four legs. I'm a pet. I hate cats. I bark. => Đáp án câu đố vui: I'm A Dog ... Tôi soạn các câu đố dựa theo trò chơi “đuổi hình bắt chữ” nhằm giúp các em ghi nhớ từ vựng. Trò chơi như sau: Let’s play English Word Pursuit game. * Đáp án Giáo viên phải tự rèn luyện, học hỏi trao dồi phương pháp dạy với các bạn đồng nghiệp, trên internet, báo đài, phải tự tin và thường xuyên nói Tiếng Anh trong lớp để học sinh noi theo. Qua thời gian thăm lớp một số giáo viên trong huyện tôi thấy đa số thầy, cô còn nói Tiếng Việt nhiều trong giờ học Tiếng Anh. Chính điều này góp phần làm hạn chế khả năng sử dụng Tiếng Anh của học sinh. Tôi nghĩ giáo viên nên là người đầu tiên phải khắc phục mặt hạn chế trên rồi mới đến học sinh. b. Thái độ của giáo viên khi đứng lớp: Phần lớn giáo viên khi đứng lớp thường có thái độ nghiêm khắc trong giảng dạy để học sinh tập trung hơn nhưng theo tôi không nên tạo căng thẳng trong giờ học Tiếng Anh. Bởi vì, những tiết học Toán, Tiếng Việt, học sinh đã tập trung nhiều cho nên đến tiết Tiếng Anh giáo viên cần tạo không khí lớp học sinh động và vui vẻ. Đây là cách cuốn hút học sinh vào tiết dạy của mình để các em thấy rằng Tiếng Anh không khó học và khô khan như mình nghĩ. Giáo viên cần vui vẻ hoà nhập vào thế giới trẻ thơ của học sinh, chính thái độ của người hướng dẫn sẽ giúp các em tự tin và mạnh dạn tập nói Tiếng Anh trong lớp học mà không sợ thầy cô trách phạt hay bạn bè chế giễu khi bị sai. Khi bước vào lớp điều đầu tiên giáo viên nên làm là mỉm cười với cả lớp tạo sự gần gũi, thân thiện với học trò của mình để bắt đầu một tiết học mới. Giáo viên cần rèn luyện cho mình có tính “khôi hài” và sử dụng nó trong tiết dạy để cuốn hút học sinh. Người thầy được ví như một nghệ sĩ nếu diễn tốt sẽ được khán giả mến mộ và đón nhận một cách nồng nhiệt. Làm được điều này bước đầu chúng ta đã thành công. Sau đây là một ví dụ minh hoạ. Tôi cho học sinh chơi trò “Bean bag circle” và sử dụng mẫu câu “This is a ( an ) + màu sắc + tên vật” để áp dụng vào trò chơi. Học sinh nghe nhạc và chuyền bóng, khi tiếng nhạc ngưng quả bóng trong tay ai người đó tự đặt một câu theo mẫu đưa ra. Nếu một học sinh yếu nhận được quả bóng có thể sẽ không nói được hoặc “ấp a ấp úng”. Lúc này tôi động viên các em “Chúc mừng em, em có cố gắng nhưng chưa thành công” hay là “Chúc em may mắn lần sau”. Một số bộ phận giáo viên chuyển từ trung học cơ sở xuống dạy tiểu học do chưa hiểu rõ tâm sinh lý lứa tuổi này đôi khi trong tiết dạy còn nghiêm khắc và “lớn tiếng” khi các em phát biểu sai. Theo tôi việc này là không nên vì sẽ làm cho học sinh rụt rè, lúng túng khi phát biểu. Từ đó làm hạn chế tính “phản xạ” trong giao tiếp của học sinh khi học ngoại ngữ. 2.2.2. Về học sinh: a. Tập cho học sinh phản xạ nhanh bằng tiếng Anh: Thay thế từ không biết bằng một cụm từ khác đã biết, không sợ mắc cỡ khi nói sai. Nói thoải mái không sợ mắc lỗi ngữ pháp hay phát âm. Phương pháp tổ chức rèn luyện kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh Trong quá trình hướng dẫn học sinh học, giáo viên quan sát chú ý xem các em nói như thế nào, cái gì được và cái gì chưa được để tìm ra biện pháp và phương pháp giảng dạy thích hợp cho từng bài học. Tập cho học sinh cách phản xạ nhanh bằng Tiếng Anh - Đầu năm học, đối với học sinh lớp 3 ở vùng nông thôn như chúng ta các em chưa có vốn từ vựng nếu có thì rất hạn chế dù vậy nhưng giáo viên vẫn tăng cường nói Tiếng Anh trên lớp, thường thường là các câu mệnh lệnh đơn giản, áp dụng các câu mệnh lệnh như: “come here”; “go back”; “Let’s play”; “Let’s learn”.... hoặc những câu hỏi theo bài học kết hợp với động tác, điệu bộ. Nhìn chung, lúc đầu học sinh còn ngơ ngác nhưng dần dần qua các tiết các em cũng đều hiểu và làm theo đúng mệnh lệnh của giáo viên. Sau khi các em đã học được mẫu câu mới thì chúng ta nên sử dụng thường xuyên trương lớp học để các em có điều kiện phản xạ tốt như những câu hỏi về bản thân: What’s your name ? , How are you ? ; những câu hỏi về đồ vật, sử dụng các đồ vật thật có trong lớp học (bàn, ghế, thước, vở... ) như các mẫu câu : What’s this ? , What are these ? ... -Tập cho học sinh không nên hiểu ngầm Tiếng Việt rồi mới dịch sang Tiếng Anh. b. Rèn luyện cho học sinh phát âm chuẩn: Hiện nay, có quan điểm cho rằng học sinh tiểu học còn nhỏ không cần phát âm chuẩn như người bản xứ nhưng đối với tôi thì ngược lại. Bởi vì người xưa thường nói “Tre non dễ uốn” và một phần do kinh nghiệm bản thân từ nhiều năm nay dạy học sinh tiểu học nên tôi thấy rõ mặt hạn chế của học trò. Nếu giáo viên lơ là trong việc sửa lỗi phát âm, không hướng dẫn chú ý trọng âm từ, ngữ điệu trong câu thì khi nghe người khác phát âm đúng các em không nhận ra và hiểu được người đối diện nói gì. Mặc khác các em sẽ lúng túng không biết thầy mình dạy đúng hay người này đúng làm cho học sinh e dè, không tự tin trong giao tiếp. Chúng ta phải cho học sinh nghe băng thường xuyên với giọng đọc chuẩn của người bản xứ và cho lặp lại nhiều lần, chú ý ngữ điệu cuối câu và nhất là phần kết thúc của từ. Hướng dẫn học sinh tập trung trong khi nghe và khuyến khích các em bắt chước giọng đọc trong băng càng giống càng tốt. Sau bước nghe và lặp lại giáo viên yêu cầu học sinh tự đọc đồng thanh, theo cặp rồi cá nhân. Tuyên dương những học sinh đọc tốt và chỉnh sửa ngay nếu học sinh đọc sai và không chuẩn. Khuyến khích mỗi học sinh có một cuộn băng nghe, đĩa VCD, thẻ nhớ hoặc usb chứa file nghe (có thể sử dụng cho đầu VCD, DVD hoặc máy vi tính hay laptop) để tự rèn luyện ở nhà nhằm giúp các em nhập tâm và nói tốt một cách tự nhiên. Cần chú ý luyện tập cho hs phát âm có các âm cuối như : bag /bæg/, book /buk/ .... Tập cho học sinh có thói quen đọc nối. Ví dụ : stand-up /’stænd^p/ , look-at /lukæt/ It’s a pencil. /itsəpensl/ It is a desk. /itizədesk/ Đối với hình thức số nhiều cần luyện tập cho học sinh cách phát âm trong việc nhấn mạnh đuôi số nhiều : Phát âm /s/ đứng sau phụ âm vô thanh /t/, /p/, /k/, /s/, /f/, /θ/ Ví dụ : cassettes, books, .... Phát âm là /z/ khi đứng sau nguyên âm hoặc phụ âm hữu thanh /b/, /d/, /g/, /v/, /ð/, /m/, /n/, /Ŋ/, /l/, /r/. Ví dụ : crayons, tables, markers ... Phát âm là /iz/ khi đứng sau những phụ âm rít cụ thể các phụ âm như : /z/, /s/, /ʤ/, / tʃ /, / ʃ /, /ʓ/ Ví dụ : pencil cases, oranges, nurses... c. Rèn luyện cho học sinh sử dụng ngữ điệu câu: Ngữ điệu (Intonation) được hiểu đơn giản là sự lên và xuống của giọng nói. Người nghe có thể hiểu nhầm hoặc hiểu sai hoàn toàn ý của người nói nếu như người nói sử dụng sai ngữ điệu, bởi ngữ điệu được so sánh như là hồn của câu. * Ngữ điệu xuống được thể hiện bằng cách hạ âm điệu giọng nói xuống thấp ở trong các trường hợp sau: Dùng trong câu chào hỏi: Good morning! ↓ Dùng trong câu đề nghị: Come here! ↓ Dùng trong câu hỏi bắt đầu bằng từ để hỏi (who, whose, whom, which, what, when, where, why, và how) What are these? ↓ Dùng trong yêu cầu hoặc mệnh lệnh: Open your book ↓ *Ngữ điệu lên được thể hiện bằng cách tăng âm điệu giọng nói lên cao ở trong các trường hợp sau: Dùng trong các câu hỏi nghi vấn “cókhông” Is this a book ?↑ Dùng trong câu xác định nhưng hàm ý câu hỏi: You are Mai? ↑ d. Hướng dẫn học sinh sử dụng cử chỉ, điệu bộ khi đối thoại bằng Tiếng Anh: Các bạn thấy đó người nước ngoài khi nói chuyện với chúng ta thường sử dụng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ diễn đạt điều muốn nói để người đối diện dễ hiểu và có cảm giác gần gũi hơn trong giao tiếp. Tại sao chúng ta học ngôn ngữ của họ mà không học cách thể hiện như thế để hoàn thiện hơn trong giao tiếp. Đây là lý do tôi chọn biện pháp này để góp phần tạo sự tự tin khi đàm thoại Tiếng Anh. Tôi yêu cầu học sinh trong khi đối thoại thì nói và diễn phải kết hợp với nhau. Nếu hỏi về tên, sức khoẻ, tuổi, của người mình muốn hỏi thì chìa tay về người đối diện và tự chỉ vào mình khi nói câu trả lời. Khi hỏi và miêu tả về đồ vật thì đến chọn hay chạm tay vào đồ vật đó. Chính việc làm này góp phần phát triển tốt kỹ năng giao tiếp, giúp học sinh thuộc từ và mẫu câu nhanh hơn. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh xây dựng một đoạn hội thoại và trình bày lại. Linda : Hello, Quan. How are you today ? (Linda đưa tay vẫy và chìa tay về phía Quan) Quan : Hi, Linda . I’m fine, thank you. (Quan vẫy tay và chỉ vào mình trả lời ) Linda : How’s the weather ? (Chỉ tay lên trời) Quan : It’s sunny . (Đưa tay lên trời) Linda : Let’s play. Quan : Ok ! (Cả hai cùng nắm tay và chạy) e. Khuyến khích học sinh tự làm từ điển cá nhân: Muốn nói tốt Tiếng Anh phải thuộc nhiều từ, đối với học sinh tiểu học việc tìm tòi, tham khảo sách báo, trên internet, ti vi còn hạn chế. Vì vậy, tôi yêu cầu học sinh làm quyển từ điển theo hướng dẫn của tôi để học sinh củng cố và nhớ lâu hơn những từ được học hay sưu tầm. Vào tuần thứ hai của đầu năm học, tôi yêu cầu mỗi học sinh chuẩn bị một quyển sổ tay bỏ túi để viết lại tất cả các từ đã học. Yêu cầu học sinh sắp xếp và viết theo chủ đề (chủ đề về đồ vật, con vật, màu sắc, thời tiết,.) Tôi hướng dẫn học sinh thực hiện như sau: chia quyển sổ tay thành nhiều chủ đề để các em thuận tiện hơn khi sử dụng. Tiếp theo chia trang vở làm hai phần một bên viết từ Tiếng Anh bên kia viết nghĩa Tiếng Việt. Ví dụ: Chủ đề về đồ vật English Vietnamese * a ruler 1 cái thước * an eraser 1 cục tẩy * a bag 1 cái cặp * a book 1 quyển sách . Để quyển từ điển thêm phong phú tôi hướng dẫn học sinh tự vẽ hoặc sưu tầm hình ảnh để minh hoạ nghĩa Tiếng Việt. Ví dụ: Chủ đề về con vật English Vietnamese butterfly tortoise cat dog frog cow 2.2.3. Một số biện pháp khác: a. Phân hoá đối tượng học sinh và chia nhóm rèn luyện kỹ năng giao tiếp: Phân định rõ đối tượng nhằm giúp giáo viên bao quát lớp tốt hơn, nắm rõ số lượng học sinh yếu nhiều hay ít của từng lớp. Từ đó giáo viên lựa chọn, sử dụng phương pháp dạy phù hợp để đạt hiệu quả cao. Bắt đầu vào năm học mới sau ba tuần học tôi có thể phân loại nhóm học sinh giỏi, khá và nhóm trung bình, yếu. Tôi chia lớp thành nhiều nhóm (mỗi nhóm từ bốn đến năm học sinh) để cùng nhau học tập. Trong nhóm có từ hai đến ba học sinh thuộc dạng khá giỏi, những em này được phân công làm nhóm trưởng và nhóm phó để điều hành nhóm hoạt động và có nhiệm vụ giúp đỡ những bạn yếu. Mỗi nhóm được đặt cho một cái tên như: “banana”, “grape”, “apple”, “bear”, . để tạo sự mới lạ, hấp dẫn cho học sinh. Nhóm hoạt động vào đầu mỗi buổi học có tiết Tiếng Anh. Chỉ hoạt động từ 5 phút đến 7 phút để cùng nhau học Tiếng Anh. Lúc đầu các em chỉ có thể nói một vài câu đơn giản như “Hello. What’s your name? How are you? I’m fine, thank you .” Qua những bài học tiếp theo số lượng từ vựng và mẫu câu tăng dần từ đó học sinh nói được nhiều và nội dung phong phú hơn. Ví dụ: Vy : Hello, Nam. Nam : Hi, Vy . What’s the matter? Vy : I’m thirsty. Nam : Do you want milk ? Vy : Yes, I do. Nam : Here you are ! Vy : Thank you. Nam : You’re welcome. . Vào cuối mỗi tiết học tôi dành từ ba đến năm phút ở phần mở rộng bài học để kiểm tra từ 1 đến 2 nhóm. Các nhóm sẽ trình bày lại những gì đã thực hành ở đầu giờ học. Nhóm nào thực hành tốt sẽ được thưởng, phần thưởng là những tràng pháo tay của tập thể, những bông hoa, viên kẹo hay vài chiếc bánh để khích lệ tinh thần các em. Đối với học sinh yếu có tiến bộ tôi thưởng cho các em đồ dùng học tập như: viết, thước, vở, còn các nhóm trưởng và nhóm phó của nhóm có bạn yếu tiến bộ cũng được nhận phần quà. Hoạt động nhóm mục đích giúp cho những học sinh yếu khắc phục tính rụt rè, sợ s
Tài liệu đính kèm: