Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5

I.PHẦN MỞ ĐẦU

1/ Lí do chọn đề tài

Đã là một người giáo viên thỉ hẳn ai cũng biết đến câu nói: “Trẻ em hôm nay thế

giới ngày mai.” Trẻ em chính là tương lai của đất nước. Một đất nước có phồn thịnh

được hay không là nhờ vào thế hệ ấy.

Sinh thời Bác Hồ đã nói trẻ em là những mầm non là những người chủ tương lai

của đất nước. Bác nói: “Cái mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có xanh thì lá

mới tươi quả mới tốt, con trẻ có được nuôi dưỡng giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới tự

cường tự lập.”

Ngày mai đất nước ta có phồn vinh, dân tộc có tự cường, tự lập hay không thì do

nhiều yếu tố như gia đình, nhà trường, xã hội ngày hôm nay quyết định. Trong đó nền

giáo dục đóng một vai trò đặc biệt quan trọng hình thành và phát triển mọi tri thức,

nhân cách, đạo đức ở mỗi con người với nhiều cấp học từ bậc mầm non đến bậc đại

học. Bậc Tiểu học là bậc học đặt những viên gạch tri thức đầu tiên để tạo nền móng

xây nên những bức tường tri thức ở các cấp học sau và mỗi thầy giáo, cô giáo là một

người thợ đặt những viên gach đầu tiên ấy. Như vậy để có móng chắc thì không chỉ có

nguyên vật liệu tốt mà còn phải có kĩ thuật tốt.

Mặt khác để thực hiện được những mục tiêu cụ thể đối với giáo dục phổ thông

được nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng cộng sản Việt

Nam về Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo là: Đào tạo đáp ứng yêu cầu

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội

chủ nghĩa, phải tạo cho được chuyển biến căn bản về chất lượng và hiệu quả giáo dục

- đào tạo, khắc phục cơ bản yếu kém kéo dài đang gây bức xúc trong xã hội, Giáo dục

con người Việt Nam phát triển toàn diện, phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi cá

nhân, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, có hiểu biết, có kĩ năng cơ bản, khả năng sáng tạo để

làm chủ bản thân, sống tốt làm việc hiệu quả, thực học, thực nghiệp.

pdf 25 trang Người đăng phuongnguyen22 Ngày đăng 02/03/2022 Lượt xem 2851Lượt tải 7 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức tốt còn ít. 
2.3/ Về thực trạng các thông tin trong sách giáo khoa. 
 a/ Các thông tin đã không còn đúng với thực tế. 
 Chủ chương thay sách giáo khoa của Bộ giáo dục năm 2000 và bộ sách giáo khoa 
lớp 5 hiện tại học sinh đang học xuất bản năm 2004 nên có nhiều bài số liệu đã không 
phù hợp với thực tế thời điểm giảng dạy đặc biệt là đối với phần kinh tế và dân số ở 
môn Địa Lí. 
 Ví dụ1 : Bài 8. Dân số nước ta (sách giáo khoa trang 81) 
Ta thấy Bảng số liệu về dân số các nước Đông Nam Á được thống kê từ năm 2004 là: 
BẢNG SỐ LIỆU DÂN SỐ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á (Năm 2004) 
STT Tên nước 
Số dân 
( triệu người) 
STT Tên nước 
Số dân 
(triệu người) 
1 
2 
3 
4 
5 
6 
In-đô-nê-xi-a 
Phi-lip-pin 
Việt Nam 
Thái Lan 
Mi-a-ma 
Ma-lai-xi-a 
218,7 
83,7 
82,0 
63,8 
50,1 
25,6 
7 
8 
9 
10 
11 
Cam -pu-chia 
Lào 
Xin-ga-po 
Đông-ti-mo 
Bru-nây 
13,1 
5,8 
4,2 
0,8 
0,4 
 Năm 2019 chỉ còn dân số của nước Bru-nây là giữ nguyên là 0,4 triệu người còn 
lại 10 nước khác số dân đã thay đổi. 
Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" 
Sáng kiến kinh nghiệm 6 GV: Hoàng Thị Hoàn 
 Ví dụ 2: Bài Châu Á (tiếp theo) Sách giáo khoa trang 105 – 106. 
 Ta thấy: Lược đồ kinh tế một số nước châu Á. 
 Hình 5: Lược đồ kinh tế một số nước châu Á. 
 Nhìn vào lược đồ ta thấy công nghệ sản xuất ô tô chỉ có ở các nước: Trung Quốc, 
Hàn Quốc, Nhật Bản. Nhưng đến năm 2020 đã có 17/41 nước sản xuất được ô tô. Sự 
thay đổi phát triển từng ngày của nền kinh tế nếu giáo viên và học sinh không cập 
nhật thì bài học sẽ không phù hợp với thực tế. 
b/ Tư liệu trong sách giáo khoa không đủ để minh họa cho nội dung kiến thức. 
 Sách giáo khoa in ấn và phát hành chỉ được những nội dung cơ bản và một số hình 
ảnh minh họa chỉ mang tính đại diện nên đối với một số bài học các tư liệu, hình ảnh 
trong sách giáo khoa không sống động điều đó làm giảm đi hứng thú trong quá trình 
học của học sinh. 
 Ví dụ 3: Trong phân môn Lịch sử bài 10. Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập (Sách 
giáo khoa Lịch sử và Địa lí trang 21, 22) ngoài một số nội dung cơ bản mà sách giáo 
khoa cung cấp thì còn có hai bức tranh: Hình 1 trang 21 và hình 2 trang 22. 
Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" 
Sáng kiến kinh nghiệm 7 GV: Hoàng Thị Hoàn 
 Hình 1. Quảng trường Ba Đình, Hà Nội (ngày 2-9-1945) 
 Hình 2: Bác hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập (2-9-1945) 
 Dựa vào đó học sinh nắm bài qua kênh hình, kênh chữ trong sách giáo khoa và 
thông qua cách tổ chức và truyền tải của giáo viên. Điều đó chưa đủ vì nó không làm 
sống động được khung cảnh lúc bấy giờ, học sinh không được nghe trực tiếp giọng 
nói truyền cảm và ấm áp, thân thiện của Bác Hồ, làm cho việc ghi nhớ bài chưa sâu và 
giảm hiệu quả bài học. 
2.4 /Về phía phụ huynh 
 a/ Chưa hướng được cho con sử dụng mạng internet một cách khoa học, hiệu quả. 
 Thời buổi khoa học công nghệ phát triển mạnh đa phần các gia đình rất quan tâm 
đến con em mình, cho con em tiếp cận quá nhiều với mạng internet mà không chắt lọc 
Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" 
Sáng kiến kinh nghiệm 8 GV: Hoàng Thị Hoàn 
hướng cho con em sử dụng những nội dung hữu ích mà để các em xem đủ thứ trong 
đó có những vấn đề không lành mạnh, học theo những trò bạo lực trong game. Việc 
đó không chỉ ảnh hưởng đến học tập mà còn ảnh hưởng tới phẩm chất đạo đức của 
học sinh. 
b/ Phụ huynh còn có quan điểm coi trọng môn này mà không coi trọng môn kia 
 Đại đa số các bậc phụ huynh coi trong các môn học như Toán và Tiếng Việt nên 
chỉ chú trọng quan tâm, nhắc nhở hay kiểm tra đối với các môn học đó điều này tạo 
cho học sinh thói quen chỉ chú trọng học Toán và Tiếng Việt mà không trú trọng 
hoặc học qua loa các môn học còn lại như Khoa Học, Địa Lí và Lịch Sử, Đạo Đức, 
. Việc đó ảnh hưởng lớn đến sự phát huy một số năng lực đặc thù theo môn học của 
học sinh. 
c/ Điều kiện kinh tế khó khăn 
 Một số gia đình vì điều kiện kinh tế khó khăn nên bố mẹ đều đi làm ăn xa để con ở 
nhà với ông bà nên việc nhắc nhở, khích lệ con em không kịp thời. 
3/ Nội dung và hình thức của giải pháp 
 Qua việc tìm hiểu và nắm bắt được các thông tin trên giúp tôi nắm được thực trạng 
của học sinh trong lớp, và tôi bắt đầu tìm tòi và lựa chọn những giải pháp giáo dục 
phù hợp nhằm nâng cao tối đa hiệu quả giáo dục. 
a/ Mục tiêu của giải pháp 
-Giúp học sinh phát huy tính tự chủ, tự giác đối với việc học bài khi ở nhà. 
- Giúp học sinh sử dụng kênh thông tin trên tivi, internet, sách báo nhằm phục vụ và 
mở rộng bài học. 
- Phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo thông qua sinh hoạt chủ điểm. 
- Khơi gợi và phát huy tối đa mọi năng lực, phẩm chất của học sinh. 
b/ Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp 
 *Giải pháp 1:Tự nâng cao nhận thức bản thân. 
 Để nâng cao chất lượng giáo dục trước hết tôi thấy mình còn đặt nặng kiến thức 
mà chưa phát huy tối đa được các năng lực sẵn có của học sinh. Tôi đã tự khắc phục 
khiếm khuyết đó bằng cách: 
 + Chăm chỉ học hỏi tích lũy kinh nghiệm từ các đồng nghiệp trong trường. 
 + Thường xuyên bồi dưỡng năng lực thông qua nhiều kênh truyền thông. 
 + Tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực, phẩm 
chất cho học sinh. 
 + Áp dụng công nghệ khoa học thông tin vào giảng dạy. 
*Giải pháp 1: Biện pháp giúp học sinh phát huy tính tự chủ, tự giác với việc học bài 
ở nhà 
Mức tiếp thu bài học của mỗi học sinh trong lớp là khác nhau và mỗi em đều có mặt 
mạnh, mặt yếu khác nhau và từ việc tìm hiểu thực trạng của học sinh trong lớp tôi đã 
Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" 
Sáng kiến kinh nghiệm 9 GV: Hoàng Thị Hoàn 
mạnh dạn sử dụng một số giải pháp sau: 
 Thực tế qua nhiều năm giảng dạy ta đều thấy nhiều học sinh đến lớp nhưng không 
thuộc bài cũ do nhiều nguyên nhân: em thì ham chơi, em thì mải xem tivi, em thì 
không chú trọng học môn học đó, Để khắc phục được vấn đề trên năm học 2020 – 
2021 tôi đã biến việc kiểm tra bài cũ thành một trò chơi mà ở đó học sinh thực sự làm 
chủ trò chơi đó, giáo viên chỉ là người theo dõi điều chỉnh nếu thấy không phù hợp. 
Kết quả trò chơi được ghi nhận vào Sổ theo dõi của mỗi cá nhân. 
 Tôi đã tiến hành thực hiện trên các môn như: Lịch sử, Địa lí, Khoa học, Đạo đức. 
 Trò chơi có tên là “Trò chơi hỏi đáp” 
 Cách thực hiện như sau: Sau mỗi bài học học sinh dựa vào các hoạt động của bài 
học để phân chia phần bài cho các tổ ra câu hỏi. 
Ví dụ: Bài gồm 3 hoạt động thì mỗi tổ ra câu hỏi cho một hoạt động. Nếu bài chỉ có 2 
hoạt động thì học sinh sẽ cắt hoạt động dài chia cho 2 tổ. Nếu bài chỉ 2 hoạt động 
ngắn, đơn giản thì 1 tổ sẽ ra câu hỏi theo hướng ra tình huống hoặc hành động có liên 
quan đến nội dung bài. 
 Khi chơi cử một bạn ghi điểm, câu hỏi của các tổ sẽ giao cho 1 học sinh làm quản 
trò chơi đọc câu hỏi và mời bạn trả lời theo cấu trúc. 
 Câu hỏi tổ 1 Câu hỏi tổ 2 Câu hỏi tổ 3 
 Tổ 2 trả lời Tổ 3 trả lời Tổ 1 trả lời Tổ 3 trả lời Tổ 1 trả lời Tổ 2 trả lời 
 Theo cấu trúc trên câu hỏi tổ 1 sẽ được bạn quản trò chia cho tổ 2 và tổ 3 trả lời. 
Mỗi tổ trả lời 1 câu nếu tổ được trả lời mà có đến 2 bạn trả lời sai thì cơ hội trả lời 
nhường lại cho tổ bạn. Và mỗi câu hỏi phù hợp và đáp án đúng thì tổ ra câu hỏi sẽ 
được ghi 1 điểm được thể hiện bằng hình que. “ ”. Tổ có câu trả lời đúng thì tổ đó 
cũng được ghi một điểm được thể hiện bằng hình que. 
 Hết phần câu hỏi mỗi tổ có thêm 1 điểm “đồng đội” do cả lớp bình xét cho. Tổ 
đạt điểm đồng đội” khi mỗi câu hỏi có nhiều bạn giơ tay xin trả lời. 
 Kết thúc trò chơi tổ nào ghi được nhiểu điểm thì tổ đó sẽ thắng cuộc, tất cả các 
thành viên tổ thắng cuộc cả tổ sẽ được ghi một lần nhận xét tốt môn học đó vào Sổ 
theo dõi của cá nhân. Tổ thua cuộc thì sẽ bình chọn và công nhận học tốt cho cá nhân 
bạn tích cực. 
 Học sinh tổ chức chơi giáo viên theo dõi và nhận xét điều chỉnh nếu câu hỏi hoặc 
câu trả lời của học sinh chưa phù hợp. 
 *Ví dụ minh họa. Môn: Khoa học 
 Bài 48: An Toàn và tránh lãng phí khi sử dụng điện. (SGK trang 98-99) 
 Khi dạy bài gồm 3 hoạt động rõ ràng: 
Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" 
Sáng kiến kinh nghiệm 10 GV: Hoàng Thị Hoàn 
1. Hoạt động 1: Nguồn điện đi qua cơ thể người và cách phòng tránh bì điện 
giật 
2. Hoạt động 2: Hiện tượng ngắt mạch điện và tác dụng của cái cầu chì và công 
tơ điện. 
3. Hoạt động 3: Tránh lãng phí khi sử dụng điện. 
 Sau khi học xong bài học “Lớp phó học tập” dựa vào các hoạt động và phân chia 
nhiệm vụ cho các tổ. 
Dưới đây là phần chuẩn bị của tổ 1 và tổ 2. 
 - Phần minh họa trò chơi (có CD đính kèm) 
 Thông qua trò chơi học sinh tự ra câu hỏi, sáng tác hành động hay tình huống để 
kiểm tra bài cũ của bạn và chăm chỉ học bài để trả lời câu hỏi của tổ bạn. Học sinh 
mong đợi đến lúc được chơi để thể hiện kết quả học tập của mình. Kết quả học tập 
của các em được ghi nhận bằng minh chứng trong Sổ theo dõi của mình. Từ đó tạo 
động lực học tập cho học sinh, các em hào hứng tự giác học mà không cần phải nhắc 
nhở. 
 Thực hiện việc kiểm soát mức độ nắm kiến thức và việc học bài khi ở nhà thông 
qua hoạt động trò chơi sau 2 tuần học sinh bắt đầu có tiến bộ rõ rệt. Trong lớp chăm 
chú nghe giảng, tích cực học tập không còn hiện tượng không học bài khi ở nhà. Vì 
muốn tổ mình được chiến thắng nên học sinh giúp đỡ, nhắc nhở nhau cùng học tập. 
* Kết quả cuối cùng thu được như sau: 
- Tạo được hứng thú học tập cho học sinh “Học để chơi, chơi để học” 
- 100% học sinh học bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp. 
Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" 
Sáng kiến kinh nghiệm 11 GV: Hoàng Thị Hoàn 
- Phát huy tính tích cực của học sinh. 
- Phát huy kĩ năng ra câu hỏi và tìm đáp án ngày càng thuần thục. 
- Học sinh chủ động học và làm chủ kiến thức. 
- Phát huy năng lực giao tiếp, cách trình bày. 
- Phát huy khả năng sáng tạo trong việc xây dựng tình huống, hay hành động liên 
quan đến bài học. 
- Thông qua trò chơi giáo viên nắm được việc học sinh học bài ở nhà và tiếp thu kiến 
thức ra sao từ đó có biện pháp nhắc nhở hay điều chỉnh. 
*Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh khai thác, sử dụng kênh thông tin trên internet, ti 
vi để phục vụ và mở rộng bài học. 
 - Như phần thực trạng tôi đã phân tích vấn đề kênh hình, kênh chữ trong sách 
giáo khoa có bài thì không còn đúng thực tế hiện tại, có bài thì còn mang tích đơn 
điệu không tạo được sự cuốn hút học sinh vào bài học hoặc học sinh sẽ ghi nhớ chưa 
sâu. Tất nhiên là giáo viên ai cũng hiểu là bản thân phải tìm hiểu thêm các tài liệu để 
cung cấp một cách đầy đủ cho học sinh nhưng như vậy học sinh tiếp thu các kiến thức 
đó một cách thụ động. Để phát huy được tính tự chủ của học sinh với bài học tôi đã 
hướng dẫn cho học sinh tự tìm hiểu nguồn kiến thức đó qua các kênh thông tin. Như 
mạng internet, ti vi, báo. Cách làm như sau: 
 Sau mỗi bài học tôi không quên dặn dò học sinh chuẩn bị cho bài mới đối với các 
bài cần các thông tin ngoài sách giáo khoa tôi dặn học sinh tìm hiểu thêm qua mạng 
internet hoặc tivi, báo rồi ghi lại các số liệu hoặc tình hình mới. Đến tiết học vẫn giới 
thiệu số liệu mà sách giáo khoa cung cấp và nói với học sinh số liệu đó được cập nhật 
từ năm 2004, đến nay đã có sự thay đổi và yêu cầu học sinh báo cáo số liệu các em đã 
tìm hiểu. Giáo viên theo dõi điều chỉnh nếu thông tin sai. 
Ví dụ: Để học sinh chủ động tìm hiểu và tiếp thu kiến thức Địa lí : Bài 8. Dân số 
nước ta (sách giáo khoa trang 81) Tôi đã yêu cầu học sinh về tìm hiểu số liệu dân số 
các nước Đông Nam Á năm 2020 
BẢNG SỐ LIỆU DÂN SỐ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á (Năm 2004) 
STT Tên nước 
Số dân (triệu 
người) 
STT Tên nước 
Số dân ( triệu 
người) 
1 
2 
3 
4 
5 
6 
In-đô-nê-xi-a 
Phi-lip-pin 
Việt Nam 
Thái Lan 
Mi-a-ma 
Ma-lai-xi-a 
218,7 
83,7 
82,0 
63,8 
50,1 
25,6 
7 
8 
9 
10 
11 
Cam -pu-chia 
Lào 
Xin-ga-po 
Đông-ti-mo 
Bru-nây 
13,1 
5,8 
4,2 
0,8 
0,4 
Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" 
Sáng kiến kinh nghiệm 12 GV: Hoàng Thị Hoàn 
 Sau khi học sinh quan sát và đọc bảng số liệu trên tôi cho học sinh báo cáo thông 
tin tìm hiểu thông qua internet và thu thập được bảng số liệu về dân số các nước Đông 
Nam Á năm 2019 như sau: 
BẢNG SỐ LIỆU DÂN SỐ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á (Năm 2020) 
STT Tên nước 
Số dân ( triẹu 
người) 
STT Tên nước 
Số dân ( triệu 
ngươi) 
1 
2 
3 
4 
5 
6 
In-đô-nê-xi-a 
Phi-lip-pin 
Việt Nam 
Thái Lan 
Mi-a-ma 
Ma-lai-xi-a 
270,6 
108,4 
96,2 
69,6 
54,0 
31,9 
7 
8 
9 
10 
11 
Cam -pu-chia 
Lào 
Xin-ga-po 
Đông-ti-mo 
Bru-nây 
16,4 
7,1 
5,8 
1,2 
0,4 
- Từ bảng số liệu năm 2019 học sinh so sánh đối chiếu kết quả từ đó nhận thức được 
thời điểm hiện tại dân số Việt Nam là 96,2 triệu người tăng so với năm 2004 là 14,2 
triệu dân và đứng thứ ba trong số các nước Đông Nam Á. 
 Cũng cách làm đó áp dụng với bài Châu Á (tiếp theo) sách giáo khoa trang 105 
– 106. Học sinh tìm hiểu và báo cáo số liệu dưới sự điều khiển của giáo viên học sinh 
rút ra được ngành công nghiệp của các nước Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng 
đang phát triển mạnh mẽ năm 2019 không chỉ có 3 nước Trung Quốc, Hàn Quốc, 
Nhật Bản sản xuất được ô tô, mà đã có 17 nước sản xuất được ô tô trong đó có Việt 
Nam đã sản xuất được ô tô và cho ra mắt sản phẩm ô tô từ tháng 10 năm 2018. 
 Học sinh sử dụng kênh thông tin trên trên internet không chỉ phục vụ cho các bài 
học về số liệu trong môn Địa Lí mà còn sử dụng hiệu quả trong các bài ở môn lịch sử. 
 Ví dụ: khi học Lịch sử Bài: Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập (Sách giáo khoa Lịch 
Sử và Địa Lí trang 21, 22). Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm và xem video về “Bác Hồ 
đọc tuyên ngôn độc lập”. Việc học sinh xem đoạn video đó không những giúp học 
sinh cảm nhận được không khí vui tươi của ngày đó như thế nào? Mà học sinh còn 
được nghe giọng nói trầm ấm, trang nghiêm, thân thiện của Bác Hồ khi đọc bản tuyên 
ngôn độc lập. Khi học các em mô tả lại quang cảnh của buổi lễ sống động hơn, có 
nhiều cảm xúc với bài học hơn từ đó các em thêm yêu thích môn học và chăm chỉ tìm 
tòi. 
 Tận dụng kênh thông tin qua internet không chỉ giúp phục vụ cho nội dung bài 
học mà còn có thể sử dụng cho việc mở rộng kiến thức và tuyên truyền phòng chống 
dịch bệnh. 
* Sử dụng cho việc mở rộng kiến thức. 
 Ví dụ: học bài Đường Trường Sơn (Sách giáo khoa Lịch Sử và Địa Lí trang 47, 48) 
yêu cầu học sinh tìm bài hát, bài thơ hay câu chuyện về chiến sĩ Trường Sơn. Khi học 
Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" 
Sáng kiến kinh nghiệm 13 GV: Hoàng Thị Hoàn 
xong bài học có thể cho học sinh thi đua đọc lời bài hát, bài thơ hay kể chuyện về 
chiến sĩ Trường Sơn. Như vậy vừa giúp học sinh khắc sâu bài học vừa hiểu bài hát 
hay bài thơ đó sáng tác năm nào và gắn với lịch sử đất nước ra sao? 
* Sử dụng cho việc tuyên truyền phòng chống dịch bệnh. 
 Bệnh Covid-19 là một bệnh nguy hiểm và có sức lây lan rất mạnh. Để đẩy lùi được 
dịch bệnh thì mỗi chúng ta không chỉ làm tốt nhiệm vụ giáo dục và còn phải đẩy 
mạnh công tác tuyên truyền về phòng chống dịch bệnh đến từng học sinh, từng người 
dân. 
 Thực hiện công tác tuyên truyền không chỉ giáo viên mà mỗi học sinh cũng là một 
nhà tuyên truyền, đối với lớp tôi đã thực hiện như sau. 
 Lập hệ thống câu hỏi phát đến từng học sinh. Và yêu cầu học sinh về nhà tự tìm 
câu trả lời qua các kênh thông tin phát trên ti vi, mạng internet tin nhắn của của Bộ y 
tế qua điện thoại. Đồng thời giáo viên cũng sử dụng các kênh thông tin đó để có đáp 
án các câu hỏi. 
 Hệ thống câu hỏi: 
Câu1.Tác nhân gây ra bệnh COVID – 19 là gì? 
Câu 2. Bệnh có tính chất nguy hiểm như thế nào? 
Câu 3. Bệnh COVID-19 lây lan như thế nào? 
Câu 4: Khoảng cách an toàn là bao nhiêu? 
Câu 5. Bạn nên làm gì để phòng tránh dịch COVID – 19 
Câu 6. Bạn hãy mô tả cách đeo và tháo khẩu trang đúng cách? 
Câu 7. Bạn hãy mô tả 6 bước rửa tay để phòng chống dịch COVID-19 
. 
Câu hỏi được lập và phát cho học sinh vào thứ sáu tuần này thực hiện vào tiết sinh 
hoạt của thứ sáu tuần kế tiếp thông qua trò chơi “Ai phòng dịch giỏi”. Trong quá trình 
học sinh chơi trò chơi giáo viên theo dõi – điều chỉnh nếu học sinh lấy thông tin sai. 
* Hình ảnh học sinh chơi trò chơi. 
Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" 
Sáng kiến kinh nghiệm 14 GV: Hoàng Thị Hoàn 
 Thông qua việc sử dụng giải pháp trên tôi thu được những kết quả như sau: 
 - Học sinh hiểu bài và khắc sâu kiến thức bài học. 
- Chủ động tiếp thu kiến thức của bài học. 
- Tận dụng hiệu quả nguồn thông tin đa dạng từ các thiết bị truyền thông sẵn có trong 
gia đình phục vụ cho việc học tập. 
- Giúp các em từng bước tiếp cận khoa học công nghệ. 
- Chăm chỉ, tự giác trong học tập. 
- Nâng cáo ý thức phòng chống dịch. 
*Giải pháp 4: Phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo thông qua sinh hoạt theo chủ 
điểm. 
 Để giúp học sinh phát huy tối đa năng lực sáng tạo thì không chỉ ở các bài học 
mà còn thông qua các tiết sinh hoạt theo chủ điểm. 
 Thông thường hàng tháng đều có những chủ điểm lớn như: “ Uống nước, nhớ 
nguồn”, “Giữ gìn truyền thống dân tộc”, “Mừng Đảng, mừng xuân”, . 
 Nếu chỉ phát huy tinh thần học tập để chào mừng chủ điểm trong tháng thì không 
tạo được dấu ấn cho học sinh về chủ điểm đó. 
 Theo quan điểm của tôi thực hiện theo chủ điểm học sinh không chỉ là học tập mà 
còn phải tìm hiểu những vấn đề liên quan đến chủ điểm và có những hoạt động, việc 
làm cụ thể để giúp cho học sinh ghi nhớ, vừa phát huy năng lực tự chủ và sáng tạo. 
 Để làm được điều đó đối với lớp tôi đang giảng dạy. Tôi tiến hành thực hiện chủ 
điểm theo tuần và các chủ điểm của tuần thì có nội dung theo chủ điểm lớn của tháng. 
 * Bước 1: Lập chủ điểm theo từng tuần. Nội dung chủ điểm của tuần mang nội 
dung của chủ điểm tháng. Tuy nhiên tùy theo tình hình thực tế có thể đan xen những 
chủ để có tính chất “nóng” và cần thiết để an toàn cho học sinh như tuyên truyền về 
an toàn giao thông, cách phòng chống dịch bệnh, phòng tránh xâm hại, giúp đỡ vùng 
bị thiên tai, 
 * Bước 2: Tổ chức các trò chơi có tính chất thi đua có nội dung theo chủ điểm tuần 
đó. 
 Thời gian: tổ chức sinh hoạt vào tiết sinh hoạt lớp và hoạt động ngoại khóa. 
 Ví dụ: Tuần 24 học sinh thực hiện chủ đề “Em yêu mẹ và cô giáo” 
 Cuối tiết sinh hoạt lớp của Tuần 23 tôi đưa ra chủ điểm của tuần 24. Chia lớp 
thành 3 nhóm. Nhóm cắm hoa, nhóm vẽ tranh và nhóm sưu tầm thơ, chuyện theo chủ 
đề ngày 8/3. 
 Học sinh tự chọn vào nhóm theo sở thích và năng khiếu của mình và các em có 
1 tuần để chuẩn bị cho phần thể hiện của nhóm mình. 
Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" 
Sáng kiến kinh nghiệm 15 GV: Hoàng Thị Hoàn 
 Giáo viên quán triệt: vật liệu là những thứ sẵn có các em chỉ sưu tầm không 
mua. 
 Nhóm sưu tầm thơ các em có thể tìm hiểu qua mạng internet rồi viết những bài 
thơ, truyện theo chủ đề vào nháp, giấy dán sử dụng giấy mua trích từ quỹ hoạt động 
của lớp. 
 Nhóm cắm hoa thì sưu tầm giỏ hoa cũ hoặc tấm xốp cũ, còn hoa lấy từ hoa sẵn có 
trong gia đình em nào có hoa gì thì cầm hoa đó. 
 Nhóm vẽ tranh sử dụng màu các em thường dùng hàng ngày, còn giấy thì sử dụng 
giấy mua trích từ quỹ hoạt động của lớp. 
 Trước khi trình bày sản phẩm của nhóm các em có 15 phút để chuẩn bị và 3 phút 
để giới thiệu về sản phẩm của nhóm mình. 
 Dưới đây là hình ảnh các em chuẩn bị cho sản phẩm của nhóm mình 
Nhóm sưu tầm thơ: 
Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" 
Sáng kiến kinh nghiệm 16 GV: Hoàng Thị Hoàn 
Nhóm cắm hoa: 
Sản phẩm của các nhóm: 
 Nhóm sưu tầm thơ: đã sưu tầm được 35, đoạn, bài thơ, 2 câu chuyện có chủ đề về 
ngày 8/3 

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_huy_tinh_tu_chu.pdf