I.PHẦN MỞ ĐẦU
1/ Lí do chọn đề tài
Đã là một người giáo viên thỉ hẳn ai cũng biết đến câu nói: “Trẻ em hôm nay thế
giới ngày mai.” Trẻ em chính là tương lai của đất nước. Một đất nước có phồn thịnh
được hay không là nhờ vào thế hệ ấy.
Sinh thời Bác Hồ đã nói trẻ em là những mầm non là những người chủ tương lai
của đất nước. Bác nói: “Cái mầm có xanh thì cây mới vững, cái búp có xanh thì lá
mới tươi quả mới tốt, con trẻ có được nuôi dưỡng giáo dục hẳn hoi thì dân tộc mới tự
cường tự lập.”
Ngày mai đất nước ta có phồn vinh, dân tộc có tự cường, tự lập hay không thì do
nhiều yếu tố như gia đình, nhà trường, xã hội ngày hôm nay quyết định. Trong đó nền
giáo dục đóng một vai trò đặc biệt quan trọng hình thành và phát triển mọi tri thức,
nhân cách, đạo đức ở mỗi con người với nhiều cấp học từ bậc mầm non đến bậc đại
học. Bậc Tiểu học là bậc học đặt những viên gạch tri thức đầu tiên để tạo nền móng
xây nên những bức tường tri thức ở các cấp học sau và mỗi thầy giáo, cô giáo là một
người thợ đặt những viên gach đầu tiên ấy. Như vậy để có móng chắc thì không chỉ có
nguyên vật liệu tốt mà còn phải có kĩ thuật tốt.
Mặt khác để thực hiện được những mục tiêu cụ thể đối với giáo dục phổ thông
được nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI của Đảng cộng sản Việt
Nam về Đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo là: Đào tạo đáp ứng yêu cầu
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa, phải tạo cho được chuyển biến căn bản về chất lượng và hiệu quả giáo dục
- đào tạo, khắc phục cơ bản yếu kém kéo dài đang gây bức xúc trong xã hội, Giáo dục
con người Việt Nam phát triển toàn diện, phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi cá
nhân, yêu gia đình, yêu Tổ quốc, có hiểu biết, có kĩ năng cơ bản, khả năng sáng tạo để
làm chủ bản thân, sống tốt làm việc hiệu quả, thực học, thực nghiệp.
ức tốt còn ít. 2.3/ Về thực trạng các thông tin trong sách giáo khoa. a/ Các thông tin đã không còn đúng với thực tế. Chủ chương thay sách giáo khoa của Bộ giáo dục năm 2000 và bộ sách giáo khoa lớp 5 hiện tại học sinh đang học xuất bản năm 2004 nên có nhiều bài số liệu đã không phù hợp với thực tế thời điểm giảng dạy đặc biệt là đối với phần kinh tế và dân số ở môn Địa Lí. Ví dụ1 : Bài 8. Dân số nước ta (sách giáo khoa trang 81) Ta thấy Bảng số liệu về dân số các nước Đông Nam Á được thống kê từ năm 2004 là: BẢNG SỐ LIỆU DÂN SỐ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á (Năm 2004) STT Tên nước Số dân ( triệu người) STT Tên nước Số dân (triệu người) 1 2 3 4 5 6 In-đô-nê-xi-a Phi-lip-pin Việt Nam Thái Lan Mi-a-ma Ma-lai-xi-a 218,7 83,7 82,0 63,8 50,1 25,6 7 8 9 10 11 Cam -pu-chia Lào Xin-ga-po Đông-ti-mo Bru-nây 13,1 5,8 4,2 0,8 0,4 Năm 2019 chỉ còn dân số của nước Bru-nây là giữ nguyên là 0,4 triệu người còn lại 10 nước khác số dân đã thay đổi. Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" Sáng kiến kinh nghiệm 6 GV: Hoàng Thị Hoàn Ví dụ 2: Bài Châu Á (tiếp theo) Sách giáo khoa trang 105 – 106. Ta thấy: Lược đồ kinh tế một số nước châu Á. Hình 5: Lược đồ kinh tế một số nước châu Á. Nhìn vào lược đồ ta thấy công nghệ sản xuất ô tô chỉ có ở các nước: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Nhưng đến năm 2020 đã có 17/41 nước sản xuất được ô tô. Sự thay đổi phát triển từng ngày của nền kinh tế nếu giáo viên và học sinh không cập nhật thì bài học sẽ không phù hợp với thực tế. b/ Tư liệu trong sách giáo khoa không đủ để minh họa cho nội dung kiến thức. Sách giáo khoa in ấn và phát hành chỉ được những nội dung cơ bản và một số hình ảnh minh họa chỉ mang tính đại diện nên đối với một số bài học các tư liệu, hình ảnh trong sách giáo khoa không sống động điều đó làm giảm đi hứng thú trong quá trình học của học sinh. Ví dụ 3: Trong phân môn Lịch sử bài 10. Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập (Sách giáo khoa Lịch sử và Địa lí trang 21, 22) ngoài một số nội dung cơ bản mà sách giáo khoa cung cấp thì còn có hai bức tranh: Hình 1 trang 21 và hình 2 trang 22. Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" Sáng kiến kinh nghiệm 7 GV: Hoàng Thị Hoàn Hình 1. Quảng trường Ba Đình, Hà Nội (ngày 2-9-1945) Hình 2: Bác hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập (2-9-1945) Dựa vào đó học sinh nắm bài qua kênh hình, kênh chữ trong sách giáo khoa và thông qua cách tổ chức và truyền tải của giáo viên. Điều đó chưa đủ vì nó không làm sống động được khung cảnh lúc bấy giờ, học sinh không được nghe trực tiếp giọng nói truyền cảm và ấm áp, thân thiện của Bác Hồ, làm cho việc ghi nhớ bài chưa sâu và giảm hiệu quả bài học. 2.4 /Về phía phụ huynh a/ Chưa hướng được cho con sử dụng mạng internet một cách khoa học, hiệu quả. Thời buổi khoa học công nghệ phát triển mạnh đa phần các gia đình rất quan tâm đến con em mình, cho con em tiếp cận quá nhiều với mạng internet mà không chắt lọc Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" Sáng kiến kinh nghiệm 8 GV: Hoàng Thị Hoàn hướng cho con em sử dụng những nội dung hữu ích mà để các em xem đủ thứ trong đó có những vấn đề không lành mạnh, học theo những trò bạo lực trong game. Việc đó không chỉ ảnh hưởng đến học tập mà còn ảnh hưởng tới phẩm chất đạo đức của học sinh. b/ Phụ huynh còn có quan điểm coi trọng môn này mà không coi trọng môn kia Đại đa số các bậc phụ huynh coi trong các môn học như Toán và Tiếng Việt nên chỉ chú trọng quan tâm, nhắc nhở hay kiểm tra đối với các môn học đó điều này tạo cho học sinh thói quen chỉ chú trọng học Toán và Tiếng Việt mà không trú trọng hoặc học qua loa các môn học còn lại như Khoa Học, Địa Lí và Lịch Sử, Đạo Đức, . Việc đó ảnh hưởng lớn đến sự phát huy một số năng lực đặc thù theo môn học của học sinh. c/ Điều kiện kinh tế khó khăn Một số gia đình vì điều kiện kinh tế khó khăn nên bố mẹ đều đi làm ăn xa để con ở nhà với ông bà nên việc nhắc nhở, khích lệ con em không kịp thời. 3/ Nội dung và hình thức của giải pháp Qua việc tìm hiểu và nắm bắt được các thông tin trên giúp tôi nắm được thực trạng của học sinh trong lớp, và tôi bắt đầu tìm tòi và lựa chọn những giải pháp giáo dục phù hợp nhằm nâng cao tối đa hiệu quả giáo dục. a/ Mục tiêu của giải pháp -Giúp học sinh phát huy tính tự chủ, tự giác đối với việc học bài khi ở nhà. - Giúp học sinh sử dụng kênh thông tin trên tivi, internet, sách báo nhằm phục vụ và mở rộng bài học. - Phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo thông qua sinh hoạt chủ điểm. - Khơi gợi và phát huy tối đa mọi năng lực, phẩm chất của học sinh. b/ Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp *Giải pháp 1:Tự nâng cao nhận thức bản thân. Để nâng cao chất lượng giáo dục trước hết tôi thấy mình còn đặt nặng kiến thức mà chưa phát huy tối đa được các năng lực sẵn có của học sinh. Tôi đã tự khắc phục khiếm khuyết đó bằng cách: + Chăm chỉ học hỏi tích lũy kinh nghiệm từ các đồng nghiệp trong trường. + Thường xuyên bồi dưỡng năng lực thông qua nhiều kênh truyền thông. + Tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh. + Áp dụng công nghệ khoa học thông tin vào giảng dạy. *Giải pháp 1: Biện pháp giúp học sinh phát huy tính tự chủ, tự giác với việc học bài ở nhà Mức tiếp thu bài học của mỗi học sinh trong lớp là khác nhau và mỗi em đều có mặt mạnh, mặt yếu khác nhau và từ việc tìm hiểu thực trạng của học sinh trong lớp tôi đã Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" Sáng kiến kinh nghiệm 9 GV: Hoàng Thị Hoàn mạnh dạn sử dụng một số giải pháp sau: Thực tế qua nhiều năm giảng dạy ta đều thấy nhiều học sinh đến lớp nhưng không thuộc bài cũ do nhiều nguyên nhân: em thì ham chơi, em thì mải xem tivi, em thì không chú trọng học môn học đó, Để khắc phục được vấn đề trên năm học 2020 – 2021 tôi đã biến việc kiểm tra bài cũ thành một trò chơi mà ở đó học sinh thực sự làm chủ trò chơi đó, giáo viên chỉ là người theo dõi điều chỉnh nếu thấy không phù hợp. Kết quả trò chơi được ghi nhận vào Sổ theo dõi của mỗi cá nhân. Tôi đã tiến hành thực hiện trên các môn như: Lịch sử, Địa lí, Khoa học, Đạo đức. Trò chơi có tên là “Trò chơi hỏi đáp” Cách thực hiện như sau: Sau mỗi bài học học sinh dựa vào các hoạt động của bài học để phân chia phần bài cho các tổ ra câu hỏi. Ví dụ: Bài gồm 3 hoạt động thì mỗi tổ ra câu hỏi cho một hoạt động. Nếu bài chỉ có 2 hoạt động thì học sinh sẽ cắt hoạt động dài chia cho 2 tổ. Nếu bài chỉ 2 hoạt động ngắn, đơn giản thì 1 tổ sẽ ra câu hỏi theo hướng ra tình huống hoặc hành động có liên quan đến nội dung bài. Khi chơi cử một bạn ghi điểm, câu hỏi của các tổ sẽ giao cho 1 học sinh làm quản trò chơi đọc câu hỏi và mời bạn trả lời theo cấu trúc. Câu hỏi tổ 1 Câu hỏi tổ 2 Câu hỏi tổ 3 Tổ 2 trả lời Tổ 3 trả lời Tổ 1 trả lời Tổ 3 trả lời Tổ 1 trả lời Tổ 2 trả lời Theo cấu trúc trên câu hỏi tổ 1 sẽ được bạn quản trò chia cho tổ 2 và tổ 3 trả lời. Mỗi tổ trả lời 1 câu nếu tổ được trả lời mà có đến 2 bạn trả lời sai thì cơ hội trả lời nhường lại cho tổ bạn. Và mỗi câu hỏi phù hợp và đáp án đúng thì tổ ra câu hỏi sẽ được ghi 1 điểm được thể hiện bằng hình que. “ ”. Tổ có câu trả lời đúng thì tổ đó cũng được ghi một điểm được thể hiện bằng hình que. Hết phần câu hỏi mỗi tổ có thêm 1 điểm “đồng đội” do cả lớp bình xét cho. Tổ đạt điểm đồng đội” khi mỗi câu hỏi có nhiều bạn giơ tay xin trả lời. Kết thúc trò chơi tổ nào ghi được nhiểu điểm thì tổ đó sẽ thắng cuộc, tất cả các thành viên tổ thắng cuộc cả tổ sẽ được ghi một lần nhận xét tốt môn học đó vào Sổ theo dõi của cá nhân. Tổ thua cuộc thì sẽ bình chọn và công nhận học tốt cho cá nhân bạn tích cực. Học sinh tổ chức chơi giáo viên theo dõi và nhận xét điều chỉnh nếu câu hỏi hoặc câu trả lời của học sinh chưa phù hợp. *Ví dụ minh họa. Môn: Khoa học Bài 48: An Toàn và tránh lãng phí khi sử dụng điện. (SGK trang 98-99) Khi dạy bài gồm 3 hoạt động rõ ràng: Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" Sáng kiến kinh nghiệm 10 GV: Hoàng Thị Hoàn 1. Hoạt động 1: Nguồn điện đi qua cơ thể người và cách phòng tránh bì điện giật 2. Hoạt động 2: Hiện tượng ngắt mạch điện và tác dụng của cái cầu chì và công tơ điện. 3. Hoạt động 3: Tránh lãng phí khi sử dụng điện. Sau khi học xong bài học “Lớp phó học tập” dựa vào các hoạt động và phân chia nhiệm vụ cho các tổ. Dưới đây là phần chuẩn bị của tổ 1 và tổ 2. - Phần minh họa trò chơi (có CD đính kèm) Thông qua trò chơi học sinh tự ra câu hỏi, sáng tác hành động hay tình huống để kiểm tra bài cũ của bạn và chăm chỉ học bài để trả lời câu hỏi của tổ bạn. Học sinh mong đợi đến lúc được chơi để thể hiện kết quả học tập của mình. Kết quả học tập của các em được ghi nhận bằng minh chứng trong Sổ theo dõi của mình. Từ đó tạo động lực học tập cho học sinh, các em hào hứng tự giác học mà không cần phải nhắc nhở. Thực hiện việc kiểm soát mức độ nắm kiến thức và việc học bài khi ở nhà thông qua hoạt động trò chơi sau 2 tuần học sinh bắt đầu có tiến bộ rõ rệt. Trong lớp chăm chú nghe giảng, tích cực học tập không còn hiện tượng không học bài khi ở nhà. Vì muốn tổ mình được chiến thắng nên học sinh giúp đỡ, nhắc nhở nhau cùng học tập. * Kết quả cuối cùng thu được như sau: - Tạo được hứng thú học tập cho học sinh “Học để chơi, chơi để học” - 100% học sinh học bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" Sáng kiến kinh nghiệm 11 GV: Hoàng Thị Hoàn - Phát huy tính tích cực của học sinh. - Phát huy kĩ năng ra câu hỏi và tìm đáp án ngày càng thuần thục. - Học sinh chủ động học và làm chủ kiến thức. - Phát huy năng lực giao tiếp, cách trình bày. - Phát huy khả năng sáng tạo trong việc xây dựng tình huống, hay hành động liên quan đến bài học. - Thông qua trò chơi giáo viên nắm được việc học sinh học bài ở nhà và tiếp thu kiến thức ra sao từ đó có biện pháp nhắc nhở hay điều chỉnh. *Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh khai thác, sử dụng kênh thông tin trên internet, ti vi để phục vụ và mở rộng bài học. - Như phần thực trạng tôi đã phân tích vấn đề kênh hình, kênh chữ trong sách giáo khoa có bài thì không còn đúng thực tế hiện tại, có bài thì còn mang tích đơn điệu không tạo được sự cuốn hút học sinh vào bài học hoặc học sinh sẽ ghi nhớ chưa sâu. Tất nhiên là giáo viên ai cũng hiểu là bản thân phải tìm hiểu thêm các tài liệu để cung cấp một cách đầy đủ cho học sinh nhưng như vậy học sinh tiếp thu các kiến thức đó một cách thụ động. Để phát huy được tính tự chủ của học sinh với bài học tôi đã hướng dẫn cho học sinh tự tìm hiểu nguồn kiến thức đó qua các kênh thông tin. Như mạng internet, ti vi, báo. Cách làm như sau: Sau mỗi bài học tôi không quên dặn dò học sinh chuẩn bị cho bài mới đối với các bài cần các thông tin ngoài sách giáo khoa tôi dặn học sinh tìm hiểu thêm qua mạng internet hoặc tivi, báo rồi ghi lại các số liệu hoặc tình hình mới. Đến tiết học vẫn giới thiệu số liệu mà sách giáo khoa cung cấp và nói với học sinh số liệu đó được cập nhật từ năm 2004, đến nay đã có sự thay đổi và yêu cầu học sinh báo cáo số liệu các em đã tìm hiểu. Giáo viên theo dõi điều chỉnh nếu thông tin sai. Ví dụ: Để học sinh chủ động tìm hiểu và tiếp thu kiến thức Địa lí : Bài 8. Dân số nước ta (sách giáo khoa trang 81) Tôi đã yêu cầu học sinh về tìm hiểu số liệu dân số các nước Đông Nam Á năm 2020 BẢNG SỐ LIỆU DÂN SỐ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á (Năm 2004) STT Tên nước Số dân (triệu người) STT Tên nước Số dân ( triệu người) 1 2 3 4 5 6 In-đô-nê-xi-a Phi-lip-pin Việt Nam Thái Lan Mi-a-ma Ma-lai-xi-a 218,7 83,7 82,0 63,8 50,1 25,6 7 8 9 10 11 Cam -pu-chia Lào Xin-ga-po Đông-ti-mo Bru-nây 13,1 5,8 4,2 0,8 0,4 Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" Sáng kiến kinh nghiệm 12 GV: Hoàng Thị Hoàn Sau khi học sinh quan sát và đọc bảng số liệu trên tôi cho học sinh báo cáo thông tin tìm hiểu thông qua internet và thu thập được bảng số liệu về dân số các nước Đông Nam Á năm 2019 như sau: BẢNG SỐ LIỆU DÂN SỐ CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á (Năm 2020) STT Tên nước Số dân ( triẹu người) STT Tên nước Số dân ( triệu ngươi) 1 2 3 4 5 6 In-đô-nê-xi-a Phi-lip-pin Việt Nam Thái Lan Mi-a-ma Ma-lai-xi-a 270,6 108,4 96,2 69,6 54,0 31,9 7 8 9 10 11 Cam -pu-chia Lào Xin-ga-po Đông-ti-mo Bru-nây 16,4 7,1 5,8 1,2 0,4 - Từ bảng số liệu năm 2019 học sinh so sánh đối chiếu kết quả từ đó nhận thức được thời điểm hiện tại dân số Việt Nam là 96,2 triệu người tăng so với năm 2004 là 14,2 triệu dân và đứng thứ ba trong số các nước Đông Nam Á. Cũng cách làm đó áp dụng với bài Châu Á (tiếp theo) sách giáo khoa trang 105 – 106. Học sinh tìm hiểu và báo cáo số liệu dưới sự điều khiển của giáo viên học sinh rút ra được ngành công nghiệp của các nước Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng đang phát triển mạnh mẽ năm 2019 không chỉ có 3 nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản sản xuất được ô tô, mà đã có 17 nước sản xuất được ô tô trong đó có Việt Nam đã sản xuất được ô tô và cho ra mắt sản phẩm ô tô từ tháng 10 năm 2018. Học sinh sử dụng kênh thông tin trên trên internet không chỉ phục vụ cho các bài học về số liệu trong môn Địa Lí mà còn sử dụng hiệu quả trong các bài ở môn lịch sử. Ví dụ: khi học Lịch sử Bài: Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập (Sách giáo khoa Lịch Sử và Địa Lí trang 21, 22). Tôi đã hướng dẫn học sinh tìm và xem video về “Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập”. Việc học sinh xem đoạn video đó không những giúp học sinh cảm nhận được không khí vui tươi của ngày đó như thế nào? Mà học sinh còn được nghe giọng nói trầm ấm, trang nghiêm, thân thiện của Bác Hồ khi đọc bản tuyên ngôn độc lập. Khi học các em mô tả lại quang cảnh của buổi lễ sống động hơn, có nhiều cảm xúc với bài học hơn từ đó các em thêm yêu thích môn học và chăm chỉ tìm tòi. Tận dụng kênh thông tin qua internet không chỉ giúp phục vụ cho nội dung bài học mà còn có thể sử dụng cho việc mở rộng kiến thức và tuyên truyền phòng chống dịch bệnh. * Sử dụng cho việc mở rộng kiến thức. Ví dụ: học bài Đường Trường Sơn (Sách giáo khoa Lịch Sử và Địa Lí trang 47, 48) yêu cầu học sinh tìm bài hát, bài thơ hay câu chuyện về chiến sĩ Trường Sơn. Khi học Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" Sáng kiến kinh nghiệm 13 GV: Hoàng Thị Hoàn xong bài học có thể cho học sinh thi đua đọc lời bài hát, bài thơ hay kể chuyện về chiến sĩ Trường Sơn. Như vậy vừa giúp học sinh khắc sâu bài học vừa hiểu bài hát hay bài thơ đó sáng tác năm nào và gắn với lịch sử đất nước ra sao? * Sử dụng cho việc tuyên truyền phòng chống dịch bệnh. Bệnh Covid-19 là một bệnh nguy hiểm và có sức lây lan rất mạnh. Để đẩy lùi được dịch bệnh thì mỗi chúng ta không chỉ làm tốt nhiệm vụ giáo dục và còn phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền về phòng chống dịch bệnh đến từng học sinh, từng người dân. Thực hiện công tác tuyên truyền không chỉ giáo viên mà mỗi học sinh cũng là một nhà tuyên truyền, đối với lớp tôi đã thực hiện như sau. Lập hệ thống câu hỏi phát đến từng học sinh. Và yêu cầu học sinh về nhà tự tìm câu trả lời qua các kênh thông tin phát trên ti vi, mạng internet tin nhắn của của Bộ y tế qua điện thoại. Đồng thời giáo viên cũng sử dụng các kênh thông tin đó để có đáp án các câu hỏi. Hệ thống câu hỏi: Câu1.Tác nhân gây ra bệnh COVID – 19 là gì? Câu 2. Bệnh có tính chất nguy hiểm như thế nào? Câu 3. Bệnh COVID-19 lây lan như thế nào? Câu 4: Khoảng cách an toàn là bao nhiêu? Câu 5. Bạn nên làm gì để phòng tránh dịch COVID – 19 Câu 6. Bạn hãy mô tả cách đeo và tháo khẩu trang đúng cách? Câu 7. Bạn hãy mô tả 6 bước rửa tay để phòng chống dịch COVID-19 . Câu hỏi được lập và phát cho học sinh vào thứ sáu tuần này thực hiện vào tiết sinh hoạt của thứ sáu tuần kế tiếp thông qua trò chơi “Ai phòng dịch giỏi”. Trong quá trình học sinh chơi trò chơi giáo viên theo dõi – điều chỉnh nếu học sinh lấy thông tin sai. * Hình ảnh học sinh chơi trò chơi. Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" Sáng kiến kinh nghiệm 14 GV: Hoàng Thị Hoàn Thông qua việc sử dụng giải pháp trên tôi thu được những kết quả như sau: - Học sinh hiểu bài và khắc sâu kiến thức bài học. - Chủ động tiếp thu kiến thức của bài học. - Tận dụng hiệu quả nguồn thông tin đa dạng từ các thiết bị truyền thông sẵn có trong gia đình phục vụ cho việc học tập. - Giúp các em từng bước tiếp cận khoa học công nghệ. - Chăm chỉ, tự giác trong học tập. - Nâng cáo ý thức phòng chống dịch. *Giải pháp 4: Phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo thông qua sinh hoạt theo chủ điểm. Để giúp học sinh phát huy tối đa năng lực sáng tạo thì không chỉ ở các bài học mà còn thông qua các tiết sinh hoạt theo chủ điểm. Thông thường hàng tháng đều có những chủ điểm lớn như: “ Uống nước, nhớ nguồn”, “Giữ gìn truyền thống dân tộc”, “Mừng Đảng, mừng xuân”, . Nếu chỉ phát huy tinh thần học tập để chào mừng chủ điểm trong tháng thì không tạo được dấu ấn cho học sinh về chủ điểm đó. Theo quan điểm của tôi thực hiện theo chủ điểm học sinh không chỉ là học tập mà còn phải tìm hiểu những vấn đề liên quan đến chủ điểm và có những hoạt động, việc làm cụ thể để giúp cho học sinh ghi nhớ, vừa phát huy năng lực tự chủ và sáng tạo. Để làm được điều đó đối với lớp tôi đang giảng dạy. Tôi tiến hành thực hiện chủ điểm theo tuần và các chủ điểm của tuần thì có nội dung theo chủ điểm lớn của tháng. * Bước 1: Lập chủ điểm theo từng tuần. Nội dung chủ điểm của tuần mang nội dung của chủ điểm tháng. Tuy nhiên tùy theo tình hình thực tế có thể đan xen những chủ để có tính chất “nóng” và cần thiết để an toàn cho học sinh như tuyên truyền về an toàn giao thông, cách phòng chống dịch bệnh, phòng tránh xâm hại, giúp đỡ vùng bị thiên tai, * Bước 2: Tổ chức các trò chơi có tính chất thi đua có nội dung theo chủ điểm tuần đó. Thời gian: tổ chức sinh hoạt vào tiết sinh hoạt lớp và hoạt động ngoại khóa. Ví dụ: Tuần 24 học sinh thực hiện chủ đề “Em yêu mẹ và cô giáo” Cuối tiết sinh hoạt lớp của Tuần 23 tôi đưa ra chủ điểm của tuần 24. Chia lớp thành 3 nhóm. Nhóm cắm hoa, nhóm vẽ tranh và nhóm sưu tầm thơ, chuyện theo chủ đề ngày 8/3. Học sinh tự chọn vào nhóm theo sở thích và năng khiếu của mình và các em có 1 tuần để chuẩn bị cho phần thể hiện của nhóm mình. Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" Sáng kiến kinh nghiệm 15 GV: Hoàng Thị Hoàn Giáo viên quán triệt: vật liệu là những thứ sẵn có các em chỉ sưu tầm không mua. Nhóm sưu tầm thơ các em có thể tìm hiểu qua mạng internet rồi viết những bài thơ, truyện theo chủ đề vào nháp, giấy dán sử dụng giấy mua trích từ quỹ hoạt động của lớp. Nhóm cắm hoa thì sưu tầm giỏ hoa cũ hoặc tấm xốp cũ, còn hoa lấy từ hoa sẵn có trong gia đình em nào có hoa gì thì cầm hoa đó. Nhóm vẽ tranh sử dụng màu các em thường dùng hàng ngày, còn giấy thì sử dụng giấy mua trích từ quỹ hoạt động của lớp. Trước khi trình bày sản phẩm của nhóm các em có 15 phút để chuẩn bị và 3 phút để giới thiệu về sản phẩm của nhóm mình. Dưới đây là hình ảnh các em chuẩn bị cho sản phẩm của nhóm mình Nhóm sưu tầm thơ: Đề tài: "Một số biện pháp phát huy tính tự chủ, tự giác, sáng tạo ở học sinh lớp 5" Sáng kiến kinh nghiệm 16 GV: Hoàng Thị Hoàn Nhóm cắm hoa: Sản phẩm của các nhóm: Nhóm sưu tầm thơ: đã sưu tầm được 35, đoạn, bài thơ, 2 câu chuyện có chủ đề về ngày 8/3
Tài liệu đính kèm: