Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập môn Tin học tiểu học

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập môn Tin học tiểu học

Có rất nhiều cách thức khác nhau để giáo viên có thể nâng cao hiệu quả của những tiết thảo luận, nếu như giáo viên là người có tâm huyết, được đào tạo tốt, nắm chắc quy trình và có biện pháp tổ chức thảo luận hữu hiệu thì người dạy có thể phát huy tối đa mặt tích cực của phương pháp thảo luận nhóm, nó là phương pháp có nhiều ưu việt nó đã phát huy được tính tích cực, tự giác của người học và khả năng thực thi tương đối cao so với các phương pháp khác. Để sử dụng có hiệu quả phương pháp này trong giảng dạy môn tin học, theo tôi, giáo viên cần phải:

+ Thứ nhất: Nắm được những nguyên tắc trong việc xây dựng quy trình thảo luận nhóm, bao gồm:

 Nguyên tắc đảm bảo mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh.

 Nguyên tắc đảm bảo hài hòa giữa các hình thức dạy và học.

 Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống.

 Nguyên tắc đảm bảo tính thực tế.

 Nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện.

+ Thứ hai: Xây dựng quy trình thực hiện phương pháp thảo luận nhóm.

 

doc 30 trang Người đăng honghanh96 Lượt xem 5498Lượt tải 8 Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập môn Tin học tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, phương pháp thảo luận nhóm một mặt vừa chú trọng phát huy tính tích cực cao, tính chủ động, sáng tạo của học sinh; mặt khác lại chú trọng sự phối hợp, hợp tác giữa các học sinh trong quá trình học tập, cần kết hợp năng lực cạnh tranh và năng lực hợp tác ở học sinh. Để sử dụng có hiệu quả phương pháp thảo luận nhóm, giáo viên cần phải chú trọng xây dựng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm nhóm, xây dựng vị thế của mỗi học sinh trong nhóm và trong lớp, hình thành kĩ năng làm việc nhóm cho học sinh.
2. Thực trạng
Trong các hoạt động dạy học môn tin học ở các trường tiểu học hiện nay, thì người giáo viên ít được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ sư phạm về môn tin học tiểu học và học sinh mới được tiếp xúc về máy vi tính.
Do đó người giáo viên cần phải không ngừng tìm tòi khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động, vận dụng, sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học trong các giờ học sao cho phù hợp với từng kiểu bài, từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh một hướng tư duy chủ động, sáng tạo. Giáo viên phải có sự học tập, sự say mê cùng với lòng quyết tâm cao mới có thể đạt được yêu cầu của công việc, bởi vì học sinh ít khi được tiếp xúc với máy tính. Vì vậy, với chuyên đề này tôi đưa ra những suy nghĩ của mình với mong muốn, góp phần trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ học tập lẫn nhau để cùng tiến bộ. Đó cũng là nội dung, mục đích hướng tới của sáng kiến kinh nghiệm này.
Tin học là ngành nghiên cứu về việc tự động hóa xử lý thông tin bởi một hệ thống máy tính cụ thể hoặc trừu tượng. Với cách hiểu hiện nay, tin học bao hàm tất cả các nghiên cứu và kỹ thuật có liên quan đến việc xử lý thông tin. Trong nghĩa thông dụng, tin học còn có thể bao hàm cả những gì liên quan đến các thiết bị máy tính hay các ứng dụng tin học văn phòng.
2.1.Thuận lợi – Khó khăn
* Thuận lợi
Tuy môn Tin học là một môn mới và là môn học tự chọn nhưng nhà trường đã tạo điều kiện để học sinh có thể học từ khối lớp 3, mua sắm máy móc và trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn tin học đầy đủ.
Giáo viên được đào tạo những kiến thức cơ bản về tin học để đáp ứng yêu cầu cho dạy và học môn tin học trong bậc tiểu học.
Phòng Giáo dục huyện Krông Ana đã thành lập Tổ Chuyên môn chuyên biệt tin học cấp tiểu học từ năm 2010. Hàng năm tổ Chuyên môn chuyên biệt thường xuyên tổ chức các buổi Chuyên đề, Tập huấn, đặc biệt là tổ chức các buổi thao giảng, dự giờ nhằm trao đổi học hỏi chuyên môn, trao đổi kinh nghiệm giữa giáo viên tin học trong toàn huyện để nâng cao chất lượng giảng dạy. 
Vì là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành.
* Khó khăn
Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi đã có một phòng máy vi tính để cho học sinh thực hành, nhưng số lượng học sinh nhiều. Vì vậy cũng gây một số khó khăn cho việc thực hành trên máy của học sinh.
Máy tính để bàn nhiều bộ phận nên cũng ảnh hưởng đến vị trí ngồi của học sinh.
Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học, nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. 
Qua kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm, học sinh lớp 4A trường TH Nguyễn Văn Trỗi, nhiều em chưa biết nhiều về máy tính hoạt động như thế nào, chưa biết thao tác các công cụ trên phần mềm đơn giản, và làm thế nào để thao tác được với máy tính.
2.2. Thành công - hạn chế
* Thành công 
Nắm được kiến thức kỹ năng của học sinh để có biện pháp bồi dưỡng và hỗ trợ cho học sinh.
Giáo dục được ý thức học tập của học sinh.
Giúp học sinh có kiến thức về máy tính, thao tác nhanh nhẹn.
Học sinh được trao đổi thảo luận với nhau, phát huy được tính chủ động, giúp các em linh hoạt và sáng tạo trong giờ học.	
Học sinh hứng thú tham gia vào tiết học, tiết ôn tập, tiết thực hành. Tạo không khí học tập sôi nổi, tích cực, nâng cao tinh thần đoàn kết Các tiết học không còn nặng nề.
* Hạn chế
Bên cạnh những kết quả tích cực như trên, vẫn còn những tồn tại nhất định, cụ thể là:
Nhiều học sinh chưa biết cách thảo luận và trao đổi, thao tác còn rụt rè.
Phòng máy tính chật hẹp nên ảnh hưởng đến tư thế cũng như vị trí ngồi của học sinh.
2.3. Mặt mạnh - mặt yếu
* Mặt mạnh
Tăng cường động cơ học tập, làm nảy sinh những hứng thú mới. Kích thích sự nghiên cứu, suy nghĩ, tư duy, và cách giải quyết vấn đề nhanh gọn.
Tạo không khí thỏa mái, bài học diễn ra sôi nổi hào hứng hơn.
* Mặt yếu 
Một số em còn ỉ lại các bạn trong nhóm mà không chịu trao đổi.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến biện pháp nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập môn Tin học tiểu học.
Ảnh hưởng của phương pháp dạy truyền thống.
Kinh nghiệm dạy học của giáo viên chưa nhiều.
Vấn đề kinh nghiệm trong dạy học là vấn đề tạo nên sự thành công, mang lại chất lượng giáo dục cao. Đòi hỏi phải có thâm niên dạy học nhiều.
2.5. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một khâu quan trọng nhằm nhận biết khả năng nhận biết của học sinh, để từ đó giáo viên căn cứ vào thực tế để có những biện pháp điều chỉnh cho phù hợp với phương pháp cũng như đối tượng học sinh.
Việc ra các câu hỏi để học sinh thảo luận là khâu quan trọng nhất, câu hỏi phải rỏ ràng, thực tế, phù hợp với môn học và với trình độ của học sinh nhưng yêu cầu phải rộng, phải đa dạng để phát huy tính sang tạo và am hiểu của học sinh.
Tổng số HS
Giỏi
Tỷ lệ
Khá
Tỷ lệ
TB
Tỷ lệ
Yếu
Tỷ lệ
Ghi chú
25
2
8%
8
32%
7
28%
8
32%
Bảng 1: Khảo sát chất lượng đầu năm học của học sinh lớp 4A
Trường TH Nguyễn Văn Trỗi (Năm học 2014-2015)
Qua kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm, học sinh lớp 4A trường TH Nguyễn Văn Trỗi năm học 2014-2015 nhiều em còn rụt rè, còn ngại thao tác, không hợp tác với bạn , chưa biết cách hoạt động nhóm trong môn tin học là như thế nào, và làm thế nào để hợp tác với nhau.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
* Giải pháp: Cho học sinh thảo luận nhóm đôi
Không có phương pháp nào là vạn năng, do vậy người giáo viên phải biết sáng tạo, vận dụng linh hoạt, thâm nhập tâm lí học sinh, từ đó đưa ra những biện pháp hữu hiệu nhất. Phương pháp nào đi chăng nữa thì kết quả mong muốn cuối cùng là làm sao cho học sinh nắm được, nắm chắc các kiến thức mà giáo viên truyền thụ do đó giáo viên phải xác định:
Thứ nhất, xác định rõ mục tiêu của cuộc thảo luận. 
Thứ hai, xây dựng nội dung thảo luận. 
Thứ ba, xây dựng cấu trúc tiến trình thảo luận từng vấn đề. 
Thứ tư, dự kiến hệ thống câu hỏi nêu vấn đề và câu hỏi gợi mở sẽ được sử dụng trong quá trình thảo luận. 
Thứ năm, kế hoạch thảo luận cần thông báo cho học sinh biết trước. 
 Cách thực hiện khi tiến hành thảo luận nhóm:
Chia nội dung bài dạy thành những vấn đề nhỏ có liên kết với nhau. 
Chia lớp học thành nhiều nhóm nhỏ. 
Cử ra một nhóm trưởng và có thể là một thư ký trong mỗi nhóm. 
Giao nhiệm vụ cho từng cá nhân, các nhóm. 
Trong mỗi chủ đề thảo luận, nên thực hiện theo quy trình chung của thảo luận. 
Các sản phẩm được giới thiệu và trình bày trước nhóm, lớp. 
Đảm bảo yếu tố cạnh tranh và thi đua trong các nhóm. 
Đảm bảo yếu tố thông tin phản hồi từ các nhóm.
Giáo viên đóng vai trò trọng tài, cố vấn, kiểm tra, kết luận. 
 Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm: 
Đối với học sinh: 
Hoạt động nhóm là một phương pháp rất tốt về tư duy logic, về cách đào sâu và trau rồi kiến thức, giúp cho học sinh bước đầu biết nêu và giải quyết vấn đề khoa học, biết phân tích, đánh giá, nhận xét những nhận định của người khác và bảo vệ ý kiến của mình với những suy luận có căn cứ. Qua thảo luận nhóm giúp học sinh hình thành giao tiếp, tổ chức lãnh đạo, khả năng tư duy, tinh thần hợp tác, trao đổi, giúp đỡ, hoà nhập cộng đồng. 
Đối với giáo viên: 
	Phương pháp hoạt động nhóm giúp giáo viên có điều kiện bổ sung và mở rộng những kiến thức, giúp giáo viên đánh giá sự tiếp thu của học sinh và trình độ tư duy của các em. Giáo viên có điều kiện trực tiếp uốn nắn những tri thức sai lệch, không chuẩn xác và định hướng kiến thức cần thiết cho học sinh. Thảo luận nhóm còn là nơi áp dụng và kiểm nghiệm tính đúng đắn của những phương pháp và phương thức giảng dạy và học tập có tính đặc thù của môn học, cũng như đối với phần, chương, mục của bài giảng.
* Biện pháp
Có rất nhiều cách thức khác nhau để giáo viên có thể nâng cao hiệu quả của những tiết thảo luận, nếu như giáo viên là người có tâm huyết, được đào tạo tốt, nắm chắc quy trình và có biện pháp tổ chức thảo luận hữu hiệu thì người dạy có thể phát huy tối đa mặt tích cực của phương pháp thảo luận nhóm, nó là phương pháp có nhiều ưu việt nó đã phát huy được tính tích cực, tự giác của người học và khả năng thực thi tương đối cao so với các phương pháp khác. Để sử dụng có hiệu quả phương pháp này trong giảng dạy môn tin học, theo tôi, giáo viên cần phải:
+ Thứ nhất: Nắm được những nguyên tắc trong việc xây dựng quy trình thảo luận nhóm, bao gồm:
Nguyên tắc đảm bảo mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh.
Nguyên tắc đảm bảo hài hòa giữa các hình thức dạy và học.
Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống.
Nguyên tắc đảm bảo tính thực tế.
Nguyên tắc đảm bảo tính toàn diện. 
+ Thứ hai: Xây dựng quy trình thực hiện phương pháp thảo luận nhóm.
Theo tôi quy trình này là một hệ thống bao gồm 3 giai đoạn và 10 bước, được thể hiện ở sơ đồ dưới đây: 
(Sơ đồ:Tích hợp quá trình dạy học theo phương pháp thảo luận nhóm)
Bước
Giáo viên
Giai đoạn
Học sinh
1
Xác định mục tiêu bài học
Lập kế hoạch thảo luận
Xác định nhiệm vụ bài học
2
Xây dựng, thiết kế nội dung bài học
Nghiên cứu nội dung bài học
3
Lựa chọn phương pháp, phương tiện
Lựa chọn phương pháp, phương tiện
4
Thành lập nhóm, giao nhiệm vụ
Thực hiện nội dung thảo luận
Gia nhập nhóm, nhận nhiệm vụ, tự nghiên cứu
5
Tổ chức thảo luận theo cặp
Hợp tác với bạn cùng bàn
6
Tổ chức thảo luận trong nhóm
Hợp tác với bạn trong nhóm
7
Tổ chức thảo luận giữa các nhóm
Tham gia thảo luận lớp
8
Trọng tài, cố vấn, kiểm tra
Tổng kết, đánh giá
Tự kiểm tra, đánh giá
9
Tổng kết, nhận xét, đánh giá chung
Tóm tắt rút ra kết luận, kinh nghiệm
10
Giao nhiệm vụ cho bài học mới
Tiếp nhận nhiệm vụ của bài học
	+ Thứ ba: Chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho hoạt động nhóm:
Phương pháp thảo luận nhóm thành công hay không còn tùy thuộc vào sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh. Nếu giáo viên chuẩn bị tốt, dự kiến được tình huống xảy ra và có những biện pháp xử lí kịp thời cũng như có sự hợp tác từ học sinh thì phương pháp thảo luận nhóm sẽ mang lại kết quả cao. Vì vậy, trước khi lên lớp, giáo viên cần chuẩn bị tốt các nội dung sau:
Mục tiêu của hoạt động nhóm bài học này là gì?
Những vấn đề thảo luận trong nhóm là những vấn đề gì?
Nên chia lớp ra làm mấy nhóm?
Hoạt động này có phù hợp với số lượng học sinh trong nhóm không?
Hoạt động này cần bao nhiêu thời gian?
Tất cả học sinh tham gia có thu được lợi ích từ hoạt động này không?
Thiết bị dạy học cần dùng là những thiết bị gì?
Dự kiến tình huống xảy ra và cách giải quyết.
Học sinh phải chuẩn bị những gì?
Soạn giáo án cho phù hợp với việc thảo luận nhóm.
Chuẩn bị những phương án dự bị
Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần nhắc nhở học sinh chuẩn bị trước các nội dung sau:
Thuộc bài cũ và chuẩn trước bị bài mới.
Làm những bài tập của giờ lần trước (nếu có)
Chuẩn bị những thứ cần thiết mà giáo viên đã dặn dò
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Việc phân chia nhóm thường dựa trên: số lượng học sinh của lớp học, đặc điểm học sinh và chủ đề bài học. Cách chia nhóm như thế nào là hợp lí; có thể theo một tiêu chuẩn nào đó của bài học hay của giáo viên và cũng có thể hoàn toàn ngẫu nhiên hoặc có thể theo số điểm danh, theo giới tính, theo vị trí ngồi
 Giáo viên giao câu hỏi cho từng nhóm (có thể chiếu lên máy chiếu, viết lên bảng phụ, viết vào giấy giao cho từng nhóm) hướng dẫn học sinh cách thực hiện, phân bố thời gian hợp lí, giải đáp thắc mắc của học sinh trước khi chính thức đi vào hoạt động, đồng thời ghi lại chủ đề và chỉ dẫn lên bảng, máy chiếu hay thiết bị khác
 Trong một tiết dạy giáo viên có thể chọn một trong số các cách chia nhóm sau đây (tuỳ theo đặc điểm của lớp và và nội dung bài học). Bản thân tôi đã áp dụng linh hoạt tùy theo bài theo các cách như sau:
Các bước tiến hành:
+ Bước 1: Chia nhóm nhỏ cùng thảo luận:
 Với cách này có thể chia theo chỗ ngồi 2 em ngồi gần nhau thành một nhóm (Cặp đôi) để thảo luận về một khía cạnh xoay quanh một vấn đề nào đó. Sau thời gian thảo luận mỗi nhóm nhỏ cử một thành viên trình bày ý kiến của cả nhóm cho cả lớp nghe (giáo viên yêu cầu các nhóm trình bày ý kiến của nhóm sau không được lặp lại ý của nhóm trước đã trình bày).
Ví dụ: Trong bài 1 chương 3 SGK trang 39 “Vì sao phải gõ mười ngón tay”; mục 1 “Gõ bàn phím bằng 10 ngón tay có lợi ích gì”. Giáo viên cho các nhóm cùng thảo luận nội dung: Gõ bàn phím bằng 10 ngón tay có lợi ích gì?
Giáo viên có thể chỉ định bất kì nhóm trình bày ý kiến nhưng nhóm sau không lặp lại ý của nhóm trước sau đó giáo viên nhận xét, kết luận.
Hoạt động thảo luận nhóm đôi trong tiết học
Luyện gõ với phần mềm Mario của học sinh lớp 4A
+ Bước 2: Chia nhóm theo tổ:
Nhóm này được xây dựng dựa trên các tổ đã được chia sẵn trên lớp để thảo luận các vấn đề giáo viên giao cho các nhóm (tùy theo đặc điểm của lớp mà có các nhóm tương ứng, thông thường trong lớp học có 4 tổ giáo viên sẽ chia làm 4 nhóm để thảo luận, cách này thường dùng cho tiết học lý thuyết để các em trao đổi). Sau khi các nhóm thảo luận sẽ cử đại diện trình ý kiến của nhóm cho cả lớp, sau đó các nhóm khác nhận xét bổ sung ý kiến và cuối cùng giáo viên nhận xét kết luận ý kiến của từng nhóm.
Ví dụ: Trong bài tập thực hành 1 SGK trang 77 “Cỡ chữ và phông chữ”. Cách thực hiện giáo viên chia lớp làm 4 nhóm, mỗi nhóm giao một vấn đề để các em giải quyết.
Nhóm 1: Nêu các bước để chọn toàn bộ văn bản?
Nhóm 2: Nêu các bước thực hiện để chọn cỡ chữ?
Nhóm 3: Nêu các bước thực hiện để chọn phông chữ?
Nhóm 4: Nêu các thay đổi cỡ chữ?
+ Bước 3. Chia nhóm theo sở thích:
Cách này thực hiện dựa trên việc các học sinh tự do lựa chọn để tạo thành một nhóm và giáo viên sẽ giao nhiệm vụ cho các nhóm thực hiện trong một thời gian nhất định (có thể quan sát, tìm hiểu một vấn đề nào đó), kết quả sẽ được đại diện của mỗi nhóm trình bày trong giờ học sau.
Ví dụ: Trước khi học bài 2 chương 7 SGK trang 117 “Em học nhạc với Encore”. Giáo viên chia nhóm HS nghiên cứu, tìm hiểu các nội dung trước, sau đó vào tiết học các nhóm cử đại diện trình bày ý kiến.
Nhóm 1: Tìm hiểu về khuông nhạc.
Nhóm 2: Tìm hiểu về khóa soi.
Nhóm 3: Tìm hiểu về cao độ nốt nhạc
Nhóm 4: Tìm hiểu về ý nghĩa của phần mềm Encore.
+ Bước 4: Giảng – Viết - Thảo luận:
Giáo viên cho học sinh trả lời câu hỏi bằng cách đưa ra các phương án lựa chọn và yêu cầu học sinh giải thích tại sao phải chọn phương án đó (cách này thực hiện sau mỗi bài học), sau khi mỗi cá nhân xử lí các câu hỏi thì so sánh với các học sinh khác. Sau đó, giáo viên tổ chức thảo luận để kiểm tra các câu trả lời hợp lí.
Ví dụ: Sau khi tìm hiểu bài 1 chương 6 “Bước đầu làm quen với logo” SGK trang 97 . Để kiểm tra lại khả năng tiếp thu bài của học sinh, giáo viên cho học sinh trả lời câu hỏi ngắn?
Để rùa về vị trí xuất phát, xóa toàn bộ sân chơi ta thực hiện lệnh gì?
a. FD.
b. RT.
c. CS.
d. LT.
Về nội dung và thời gian thảo luận:
Nội dung thảo luận của các nhóm có thể giống hoặc khác nhau.
Thời gian thảo luận có thể căn cứ vào nội dung bài học cũng như đặc điểm của lớp học.
Ví dụ: Trong bài 1 chương 3 SGK trang 39 “Vì sao phải gõ mười ngón tay”; mục 1 “Gõ bàn phím bằng 10 ngón tay có lợi ích gì”. Giáo viên cho các nhóm cùng thảo luận nội dung “Gõ bàn phím bằng 10 ngón tay có lợi ích gì”: Các nhóm thảo luận trong 3 phút và cử đại diện trình bày (1 phút/nhóm) các nhóm sau không nói lại ý của nhóm trước sau đó Giáo viên chốt lại nội dung.
Vai trò của giáo viên và nhóm trưởng:
Vai trò của giáo viên:
+ Thứ nhất: Khi học sinh tiến hành thảo luận, giáo viên chuyển từ vị trí người hướng dẫn sang vị trí người giám sát. Nhiệm vụ của giáo viên lúc này là nhận biết tiến trình hoạt động của các nhóm từ đó có thể có những can thiệp kịp thời để mang lại hiệu quả cao. Muốn vậy, khi giám sát hoạt động nhóm giáo viên cần:
- Chú ý đến hoạt động mà giáo viên yêu cầu lớp thực hiện, không được tranh thủ làm việc riêng khi học sinh đang thảo luận. Giáo viên cần phải di chuyển, quan sát và giám sát mọi hoạt động của lớp.
- Chú ý lắng nghe quá trình trao đổi của học sinh trong nhóm. Từ đó, giáo viên có thể có những phát hiện thú vị và khả năng đặc biệt của từng học sinh, hướng thảo luận của từng nhóm để điều chỉnh kịp thời.
- Quan sát để xem có học sinh nào “đứng bên lề” hoạt động không? Nếu có, giáo viên tìm cách đưa các em vào không khí chung của nhóm.
+ Thứ hai: Trong tiết học, giáo viên phải chú ý nhận biết bầu không khí xem các nhóm hoạt động “thật” hay “giả”.
+ Thứ ba: Giáo viên cần có sự điều chỉnh kịp thời để khi vấn đề giáo viên đặt ra lại là nguyên nhân gây nên sự thay đổi không khí hoạt động của nhóm. Nếu vấn đề quá khó, học sinh không đủ khả năng giải quyết, hoặc ngược lại, nếu vấn đề quá dễ sẽ khiến học sinh không có gì phải làm. Cả hai trường hợp này đều có thể làm giảm đi độ “nóng” của bầu không khí trong lớp.
+ Thứ tư: Giáo viên cần khen ngợi, tuyên dương, khuyến khích theo TT 30/2014 BGD&ĐT và gợi ý cho học sinh trong quá trình thảo luận nếu thật sự cần thiết.
+ Thứ năm: Giáo viên định rõ lượng thời gian hoạt động nhóm cụ thể, và nhắc thời gian để các nhóm hoàn thành phần hoạt động của mình đúng thời gian quy định.
+ Thứ sáu: Giáo viên cần đi vòng quanh các nhóm và lắng nghe ý kiến học sinh trong suốt buổi thảo luận nhóm nhỏ. Thỉnh thoảng cũng rất hữu ích nếu giáo viên xen lời bình luận vào giữa cuộc thảo luận của một nhóm. Đối với những vấn đề nhạy cảm thường có những tình huống mà học sinh sẽ cảm thấy bối rối, ngại ngùng khi phải nói trước mặt giáo viên, trong trường hợp này giáo viên có thể quyết định tránh không xen vào hoạt động của nhóm khi thảo luận.
Vai trò của nhóm trưởng:
+ Thứ nhất: Phải có khả năng tổ chức, phân công nhiệm vụ cho các thành viên, bố trí chỗ ngồi cho phù hợp, hướng dẫn các thành viên thảo luận đúng với nội dung đã giao.
+ Thứ hai: Phải biết linh hoạt và nhạy bén, có khả năng điều động tất cả các thành viên trong nhóm tham gia tích cực vào thảo luận; theo dõi, quan sát từng người để có biện pháp điều chỉnh kịp thời; lắng nghe ý kiến đóng góp thảo luận của các thành viên trong nhóm mình, động viên khuyến khích những bạn ít nói, rụt rè phát huy tính năng động, sáng tạo của các bạn trong nhóm.
	Như vậy, vai trò của nhóm trưởng là rất quan trọng vì vậy trong quá giảng dạy giáo viên cần phải quan sát thái độ và cách làm việc của từng học sinh để lựa chọn các nhóm trưởng cho thích hợp. Tuy nhiên, nhóm trưởng không phải là người quyết định hết tất cả cho buổi thảo luận.
Trình bày kết quả thảo luận:
 Kết quả thảo luận có thể được trình bày dưới nhiều hình thức: bằng lời, đóng vai, viết hoặc vẽ lên giấy khổ tocó thể do một người thay mặt nhóm trình bày, có thể nhiều người trình bày mỗi người một đoạn nối tiếp nhau...Các nhóm trình bày kết quả thảo luận trước lớp. Giáo viên nhận xét, bổ sung và kết luận. Cho HS ghi nội dung bài học vào vở.
Phần cũng cố là một phần quan trọng trong giờ dạy, nhằm kiểm tra kết quả của các em học sinh sau tiết học. Do vậy khuyến khích tổ chức các trò chơi sinh động hấp dẫn để kiểm tra sự hiểu biết, nắm bài của các em, như trò chơi “ô chữ”, trò chơi “chiếc nón kỳ diệu”....
Phần cũng cố bằng trò chơi “ Chiếc nón kỳ diệu” trong tiết học
Vì sao phải tập gõ mười ngón của học sinh lớp 4A
Dựa trên khảo sát chất lượng đầu năm tôi đã dùng biện pháp thảo luận nhóm để kèm cặp giúp đỡ các em học sinh lớp 4A Trường TH Nguyễn Văn Trỗi. Đa số các em đã biết cách thảo luận trao đổi với nhau về cách thao tác với máy tính nhanh nhạy và linh hoạt, nhưng vẫn còn một số em chưa tập trung.
Thông qua việc thay đổi cách dạy qua từng tiết học giúp các em thay đổi không khí, để tiết học diễn ra nhẹ nhàng, đạt được hiệu qu

Tài liệu đính kèm:

  • docth_65_3538_2021938.doc